Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bai thi so 2 đường lối, chính sách của đảng nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.93 KB, 10 trang )

PHẦN ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
Câu 1. Trình bày bản chất, đặc thù và giải thích lý do phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Trả lời:
- Nêu khái niệm:
Khái niệm “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được khẳng
định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Đây là kết quả của quá
trình 15 năm đổi mới tư duy và thực tiễn ở nước ta, được đúc kết lại trên cơ sở đánh
giá và rút ra các bài học lớn qua các kỳ Đại hội Đảng, đặc biệt là Đại hội VII, VIII.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần XI của Đảng làm rõ nội hàm, mục tiêu của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Đây là hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh
tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và
bản chất của chủ nghĩa xã hội.
- Bản chất, đăc thù:
+ Bản chất: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam là kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo
những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên
tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó, cơ chế thị trường được vận dụng
đầy đủ, linh hoạt đê phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển
nhanh và bền vững nền kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói,
giảm nghèo, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
vừa có những đặc trưng của nền kinh tế thị trường hỗn hợp, vừa có đặc thù của tính
định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Đặc thù:
Về mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:


ngoài mục tiêu của nền kinh thị trường là lợi nhuận thì mục tiêu phát triển của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nhằm phát triển lực
lượng, giải phóng sức sản xuất của xã hội và từng bước xây dựng tiền đề vật chất
cho chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, phát triển kinh tế thị trường thúc đẩy sản xuất phát
triển tạo nhiều hàng hóa, phong phú về chủng loại và nâng cao chất lượng hàng hóa
1


để từng bước cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân. Như vậy, mục tiêu phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa thực hiện mục
tiêu kinh tế, vừa thực hiện mục tiêu xã hội. Phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa để thu lợi nhuận, khai thác các lợi thế của quốc gia nhằm phát
triển lực lượng sản xuất, từng bước tạo lập những tiền đề vật chất cho chủ nghĩa xã
hội, nâng cao đời sống cửa nhân dân.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh
tế “phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình
doanh nghiệp” và “mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều
được coi ưọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và
văn minh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” để góp phần định hướng
nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về chế độ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là “công bằng trong phân phối các yếu tố của sản xuất, tiếp cận và sử dụng
các cơ hội, điều kiện phát triển. Phân phối kết quả làm ra chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác
và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội”. Như vậy, phân
phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là chú ý
đến lợi ích của người lao động - điều này thể hiện rõ bản chất của chủ nghĩa xã hội
vì con người.
Sự điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta phải định
hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường thông qua xây

dựng và thực hiện quy 'hoạch, chiến lược, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế
- xã hội để từng bước xây dựng những tiền đề vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Đồng
thời, để đảm bảo thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là sự điều tiết của Nhà nước vào nền kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích quốc
gia: khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia (trong ngắn hạn, dài hạn),
bảo vệ tài nguyên môi trường, phát triển kinh tế bền vững; bảo vệ lợi ích của nhân
dân, lợi ích người lao động, thực hiện cảc chính sách xã hội (xóa đói, giảm nghèo;
an sinh xã hội).
- Tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam:
+ Điều kiện trong nước:
Nền sản xuất hàng hóa Việt Nam sau thời kỳ đổi mới (1986) đã phát triển mạnh,
những yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường được hình thành và phát triển, vì vậy
tất yếu nền kinh tế thị trường xuất hiện. Thời kỳ trước năm 1986, mô hình phát
triển kinh tế tập trung bao cấp đã biểu hiện kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội,
2


đặc biệt giai đoạn 1975-1986. Đại hội Đảng lần thứ VI đã thực hiện cuộc cách
mạng - đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế mà cốt lõi là chuyển nền kinh tế
vận hành theo cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tể. Sự đổi mới đó đã từng bước hình thành và phát triển các
yếu tố cơ bàn của thị trường như: giá cả hình thành theo cơ chế tự do; trên thị
trường các chủ thể canh tranh nhau để tìm kiếm lợi nhuận; nên kinh tế hoạt động
theo các quy luật cùa thị trường, v.v... Đó là những điều kiện cho sự hình thành và
phát triển kinh tế thị trường.
Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
từ năm 2001 đến nay đã đạt được những thành tựu lớn: Việt Nam đã thoát ra khỏi

nước nghèo và kém phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển nhanh,
v.v... Điều đó chứng tỏ nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường là phù hợp với
điều kiện Việt Nam trong bối cảnh thế giới mới.
Mặt khác, Việt Nam có những tiền đề chính trị - xã hội để nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản
lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế là tiền đề chính trị quan
trọng để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tê thị trường. Mặt
khác, sự đồng thuận của đại đa số nhân dân trong quá trình thực hiện phát triển
kinh tế đất nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội đã tạo tiền đề vững chắc cho nền
kinh tế thị trường địnhhướng xã hội chủ nghĩa phát triển.
+ Điều kiện quốc tế:
Trong lịch sử phát triển các mô hình kinh tế của nhân loại đã trải qua thì kinh tế
thị trường là mô hình kinh tế có hiệu quả nhất. Kinh tế thị trường đã tạo ra năng
suất lao động cao, tạo ra nguồn hàng lớn đê đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
tiêu dùng (cả về số lượng, chủng loại, mẫu mã và chất lượng) và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực hơn nền kinh tế tự cung, tự cấp; nền kinh tế tập trung, bao cấp.
Phát triển kinh tế thị trường còn là yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế. Hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu hướng tất yếu của thời đại, thực chất đó là
sự tham gia của các quốc gia vào "sân chơi” chung của nền kinh tế thế giới - “sân
chơi” đó là của các nền kinh tế thị trường. Với chủ trương của Đảng ta là “tích cực
và chủ động hội nhập kinh tế thế giới”, tất yếu Việt Nam phải chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường.
Câu 2: Trình bày những nhận thức cơ bản về mô hình tăng trưởng kinh tế?
Theo đồng chí, nguyên tắc, giải pháp đổi mới mô hình kinh tế ở Việt Nam như
thể nào?
Trả lời:
- Khái niệm mô hình tăng trưởng kinh tế:
Mô hình tăng trưởng kinh tế mô tả phương thức vận động của nền kinh tế thông
3



qua mối liên hệ nhân quả giữa các biến số quan trọng trong quá trình tăng trưởng
sau khi đã tước bỏ đi sự phức tạp không cần thiết. Những diễn đạt này có thể dưới
dạng lời văn, sơ đồ hoặc toán học. Như vậy, đề cập đến mô hình tăng trường kinh tế
là đề cập đến phương thức tăng trưởng kinh tế thể hiện ở các yếu tố tăng trưởng và
mối quan hệ tương hỗ giữa chúng trong từng điều kiện cụ thể nhất định.
Có thể nhìn nhận các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế từ các yếu tố đầu
vào, đầu ra hoặc từ các ngành kinh tế. Ở góc độ các yếu tố đầu vào, cụ thể là xét
trên giác độ sử dụng các nguồn lực và hiệu quà sử dụng chúng, người ta thường
phân định mô hình tăng trưởng kinh tế thành 2 loại chủ yếu là mô hình tăng trường
kinh tế theo chiều rộng và mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu.
- Các mô hình tăng trưởng kinh tế:
+ Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng.
Tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng là tăng trưởng kinh tế dựa trên cơ sở gia
tăng số lượng các yếu tố đầu vào như vốn, lao động, tài nguyên mà không kèm theo
tiến bộ công nghệ. Nói đến mô hình tăng trường kinh tế theo chiều rộng là nói đến
phương thức tăng trưởng sử dụng nhiều vốn, công nghệ lạc hậu, với đa số lao động
tay nghề thấp, chủ yếu làm gia công, lắp ráp, khai thác và bán rẻ tài nguyên thô
hoặc sơ chế.
Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng có đặc trưng là: (i) sự gia tăng về
lượng các yếu tố đầu vào tạo ra trên 50% thu nhập của nền kinh tế; (ii) không
thường xuyên sử dụng các nguồn lực có hiệu quả cao hơn; (iii) chỉ chú trọng phát
triển các loại công nghệ và nguồn lực sản xuất truyền thống.
Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng có những lợi thế như: giải phóng
mọi nguồn lực của đất nước; thu hút được nguồn lực từ nước ngoài; giải phóng sức
lao động, phát triển thị trường lao động; đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nhanh trong
giai đoạn đầu phát triển của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, mô hình tăng
trưởng kinh tế theo chiều rộng có nhiều hạn chế như: các nguồn lực vốn, lao động,
tài nguyên là có hạn, vì thế nếu áp dụng mô hình tăng trưởng này kéo dài sẽ dẫn
đến giới hạn, làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường, gia tăng chi

phí cho một đơn vị sản phẩm, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, tiềm
ẩn nguy cơ lạm phát, bội chi ngân sách, gây bất ổn kinh tế vĩ mô.
+ Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu.
Tăng trường kinh tế theo chiều sâu là tăng trưởng kinh tế dựa trên cơ sở nâng
cao hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào. Tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu dựa
trên cơ sở của khoa học - công nghệ hiện đại, với đa số lao động có trình độ học
vấn và kỳ năng nghề nghiệp cao, có khả năng đi vào lĩnh vực thiết kế, chế tạo thuộc
các ngành kinh tế mũi nhọn, làm ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Tăng trưởng
kinh tế theo chiều sâu không chỉ gia tăng khối lượng sản phẩm, mà còn gia tăng cả
4


chất lượng sản phẩm nền kinh tế.
Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu có đặc trưng là: (i) hoàn thiện về
chất các yếu tố sản xuất và nâng cao hiệu quả sử dụng chúng đạt mức chiếm trên
50% tổng thu nhập tăng thêm của nền kinh tế; (ii) thường xuyên, liên tục sử dụng
nguồn lực có hiệu quả cao hơn; (iii) sử dụng các loại công nghệ và nguồn lực tiên
tiến.
Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu có các lợi thế như: nhân tố TFP
dường như là vô hạn, nên có khả năng khắc phục được tình trạng khan hiếm nguồn
lực; tiết kiệm nguồn lực, giảm chi phí, tăng hiệu quả và tăng sức cạnh tranh của nền
kinh tế; giảm ô nhiễm, bảo vệ môi trường; ít gây bất ổn kinh tê vĩ mô và tăng
trường kinh tế bền vững, dài hạn.
Cần lưu ý rằng việc phân định mô hình tăng trường kinh tế thành 2 loại như trên
chỉ là tương đối. Trong thực tế không tồn tại mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều
rộng hoặc theo chiều sâu thuần túy.
Điều kiện tiên quyết đề chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng
sang chiều sâu đó là: phải dựa vào tiến bộ khoa học - công nghệ và dựa vào nguồn
nhân lực chất lượng cao.
- Các nguyên tắc, giải pháp đổi mới Mô hình kinh tế ở Việt Nam:

+ Các nguyên tắc đối mới mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
Thứ nhất, chuyển dần tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng sang tăng trường kinh
tế theo chiều sâu.
Thứ hai, phải coi trọng hiện đại hóa, lấy hiện đại hóa làm nền tảng để đạt được
tăng trường kinh tế cao, ổn định và dài hạn.
Thứ ba, phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và phát triển tất
cả các vùng.
Thứ tư, phải hài hòa vai trò Nhà nước và thị trường trong phân bổ các nguồn lực
tăng trưởng.
Thư năm, phải gắn kết tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội và bảo vệ môi trường.
Thứ sáu, phải đổi mới mô hình tăng trưởng một cách toàn diện, đồng bộ và có
hệ thống.
+ Giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
Thứ nhất, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn kết với phát triển
và ứng dụng khoa học và công nghệ. Đây được coi là chìa khóa của quá trình đổi
mới mô hình tăng trưởng kinh tế của nước ta trong thời gian tới.
Thứ hai, tái cấu trúc nền kinh tế bắt đầu từ khu vực nhà nước, trước hết là hệ
5


thống ngân sách, đầu tư công và hệ thống doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, tái cấu trúc đầu tư theo hướng giảm quy mô và tăng hiệu quả đầu tư
toàn xã hội. Để thực hiện nội dung này cần ưu tiên thực hiện một số chính sách sau:
giảm quy mô, đồng thời tăng hiệu quả của đầu tư công; giảm quy mô, đồng thời
tăng hiệu quả của khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Thứ tư, thực hiện kỷ luật tài khóa. Để thay đổi cơ cấu kinh tế, cần bắt đầu với
chính sách tài khóa, thực hiện nghiêm kỷ luật tài khóa.
Thử năm, tái cấu trúc khu vực tài chính, trong đó trọng tâm là hệ thống ngân
hàng.

Thứ sáu, thực hiện cơ chế thị trường cho các loại giá cơ bản như lãi suất, tỷ giá,
giá đất, năng lượng, v.v...
Thứ bảy, xây dựng khu vực dân doanh thành động lực tăng trưởng của nền kinh
tế. Muốn vậy cần có cơ chế phân bổ nguồn lực bình đẳng đối với khu vực kinh tế
này.
Thứ tám, đổi mới quản lý nhà nước cho phù hợp với nền kinh tế. Tách bạch
chức năng hành pháp chính trị và hành chính công vụ, cải cách thể chế, cải cách
cách làm kế hoạch, v.v...
Câu 3. Trình bày mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc trong chính sách đối ngoại
của Việt Nam hiện nay? Đồng chí hiểu như thế nào về hợp tác và cạnh tranh
trong giao lưu quốc tế?
Trả lời:
Về mục tiêu đối ngoại.
Trong thời kỳ đổi mới, việc xác định mục tiêu đối ngoại của Đảng và Nhà nước
Việt Nam luôn dựa trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc, đồng thời quan tâm đúng
mức đến nghĩa vụ quốc tế của Đảng với tư cách một đảng cộng sản cầm quyền. Đối
với Việt Nam hiện nay, lợi ích quốc gia dân tộc cơ bản và cao nhất về đối ngoại là
giữ vững hòa bình để phát triển. Do đó, mục tiêu đối ngoại là phải tạo lập được môi
trường quốc tế hòa bình thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Giữ vững hòa bình, tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi, một mặt sẽ góp phần
bảo vệ độc lập, chủ quyền an ninh quốc gia, mặt khác tranh thủ được sự ủng hộ,
giúp đỡ, hợp tác của quốc tế cho sự phát triển của đất nước. Đây cũng là điều kiện
thuận lợi để Việt Nam nâng cao uy tín quốc tế, đồng thời đóng góp nhiều hơn đối
với phong trào cách mạng thế giới.
Tư tưởng chỉ đạo
6



Xuất phát từ lợi ích và mục tiêu đối ngoại đã được xác định, Đảng Cộng sản
Việt Nam đề ra tư tưởng chỉ đạo đối ngoại là giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống
nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp
với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, cũng như diễn biến của tình
hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng mà Việt Nam có quan hệ.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới sau sự kiện ngày 11-9-2001,
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã bổ sung và làm sâu
sắc thêm tư tưởng chỉ đạo đối ngoại với quan điểm: trong bất kỳ tình huống nào
cũng tránh không để rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc, củng cố hòa bình, an
ninh, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục làm sâu sắc thêm tư
tưởng chỉ đạo đối ngoại với việc khẳng định quan điểm: “Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình và hợp tác phát triển; chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực
khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham
gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. Quan điểm của Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng kế
thừa, bổ sung và phát triển toàn diện hơn khi xác định: “Thực hiện nhất quán đường
lối đổi ngoại độc lập, tự chủ,hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất
nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu
mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế,
góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
thế giới”. Quán triệt các quan điểm nêu trên là cơ sở quan trọng đê bảo vệ lợi ích
quốc gia, dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế, trước hết là giữ vững độc lập, tự
chủ, chủ quyền quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, Việt Nam có
thể tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế quốc tế, tranh thủ được các
nguồn lực bên ngoài như: vốn đầu tư, khoa học - công nghệ hiện đại, kinh nghiệm
quản lý tiên tiến, phục vụ cho xây dựng vàphát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ

quốc.
Trên cơ sở thế và lực mới của đất nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
Đàng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh quan điểm tăng cường sự chủ động, tích cực
của Việt Nam đối với quá trình hội nhập quốc tế ngày càng đầy đủ và toàn diện,
không chỉ hội nhập trong lĩnh vực kinh tế, mà còn trong các lĩnh vực khác. Việt
Nam cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong việc tham gia giải quyết các vấn
đề khu vực và quốc tế từ đó có thể đóng vai trò là thành viên tích cực của cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
Nguyên tắc đối ngoại
Đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn dựa
7


trên sự kiên trì giữ vừng nguyên tắc đối ngoạicơ bản, bao trùm là vì hòa bình, độc
lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, đặt lợi
ích dân tộc lên hàng đầu. Cụ thể hóa nguyên tắc này, Đảng và Nhà nước Việt Nam
nêu 4 nguyên tắc đối ngoại chủ yếu: Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; Hai là, không dùng
vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế;Ba là, giải quyết các bất
đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; Bốn là, tôn trọng lẫn nhau,
bình đẳng và cùng có lợi. Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam xác định rõ cơ sở của
sự hợp tác là hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
- Hợp tác và cạnh tranh trong trong giao lưu quốc tế:
+ Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
Khái niệm và chủ trương hội nhập quốc tế
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan niệm rằng, trước sự phát triển mạnh mẽ
của cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hóa, tất cả các nước, không phân
biệt giàu hay nghèo, phát triển hay đang phát triển, nếu muốn phát triển, không bị
tụt hậu đều phải chủ động, tích cực tham gia vào quá trình hợp tác, phân công lao

động quốc tế. Điều đó có nghĩa là tất cả các quốc gia đều nỗ lực tìm kiếm những
giải pháp thích hợp để hội nhập vào xu thế chung, ra sức cạnh tranh kinh tế vì mục
tiêu phát triển.
Mặt khác, quá trình hội nhập quốc tế của các nước luôn hàm chứa hai mặt “vừa
có hợp tác, vừa có đấu tranh”. Trước hết, các nước tiến hành hội nhập quốc tế đều
hướng tới mục tiêu đẩy mạnh hợp tác, thực hiện tự do hóa thương mại, đầu tư và
dịch vụ, tạo lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế. Tuy nhiên, do tác động của toàn
cầu hóa, cuộc đấu tranh và cạnh tranh nhằm giành giật thị trường cũng như các lợi
ích khác cũng trở nên quyết liệt hơn giữa các quốc gia và giữa các thực thể kinh tế
quốc tế.
Trong thời kỳ đổi mới, xuất phát từ nhận thức về tính tất yếu của hội nhập kinh
tế quốc tế nói riêng, hội nhập quốc tế nói chung, Đảng và Nhà nước Việt Nam coi
đây là một nội dung quan trọng trong đường lối, chính sách đối ngoại của mình.
Qua các kỳ đại hội, Đảng ngày càng bổ sung, hoàn thiện và phát triển chủ trương
hội nhập quôc tế cũng như khái niệm về hội nhập quốc tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng mở ra bước ngoặt trong tư duy
và thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng ta. Xác định phương hướng và nội
dung của quan hệ kinh tế đối ngoại trong thời kỳ mới, Đại hội chỉ rõ: Muốn kết hợp
sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân
công lao động quốc tế; trước hết và chủ yếu là với Liên Xô, Lào và Campuchia, với
các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời tranh thủ mở mang
quan hệ kinh tế và khoa học – kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công
8


nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình
đẳng cùng có lợi. Đi theo hướng này, Luật Đầu tư nước ngoài được thông qua
(1987), tạo khung khổ pháp lý thuận lợi để Việt Nam mở rộng quan hệ kinh tế quốc
tế, thu hút nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ nước ngoài phục vụ phát triển kinh tế,
khai thác những tiềm năng nội lực trong nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) tạo ra bước đột phá trong việc
thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội nêu chủ trương gắn thị
trường trong nước với thị trường thế giới, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ sản xuất nội địa. Đây được coi là
một trong những nội dung chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Đại
hội cũng xác định nguyên tắc cơ bản trong hội nhập kinh tế quốc tế là: “mở rộng,
đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững
độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi”.
Quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng tiếp tục được Ban Châp hành
Trung ương và Bộ Chính trị bô sung, làm rõ và cụ thể hơn. Nghị quyết của Hội
nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VII ngày 29-6-1992 nhấn mạnh
chủ trương mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, trong đó: cố gắng khai thông
quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triên châu Á (ADB), mở rộng quan hệ
với các tổ chức hợp tác khu vực, trước hết ở châu Á - Thái Bình Dương. Bộ Chính
trị ban hành Quyết định số 1005 CV/VPTW (22-11-1994) giao cho Chính phủ soạn
thảo và gửi đơn xin gia nhập WTO. Theo Quyết định của Bộ Chính trị (số 493
CV/VPTW ngày 14-6-1996), Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn APEC.
Trên cơ sở những thành tựu đạt được, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
(1996) nêu chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở",“đấy nhanh quá trình hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới”. Đại hội nhấn mạnh quan điểm đa phương hóa và đa
dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế
nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả, tranh thủ vốn, công
nghệ và thị trường quốc tế; mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song
phương và đa phương với các nước, các tố chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc
tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, v.v...
Bước sang thế kỷ mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001)
đã bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối hội nhập kinh tế quốc tế khi xác
định: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa

nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc, bảo vệ môi trường. Nhằm cụ thể hóa đường lối “chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế”, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 07-NQ/TW ngày 27-11-2001 về hội nhập
kinh tế quốc tế, trong đó làm rõ hơn mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nội dung và
9


nhiệm vụ cụ thể của hội nhập kinh tể quốc tế.
Chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được hoàn thiện thêm tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006). Cùng với việc nhấn mạnh sự
cần thiết phải đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiêu sâu, ổn định,
bền vững, Đại hội khẳng định quan điểm: Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Tổng kết 20
năm đổi mới, Đại hội nêu 5 bài học lớn, trong đó bài học thứ 3 là bài học về hội
nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nên kinh tế độc lập tự chủ. Theo đó, hội nhập
kinh tế quôc tế là yêu cầu khách quan; phải chủ động, có lộ trình với bước đi tích
cực, vững chắc, không do dự chần chừ, nhưng cũng không được nóng vội, giản
đơn. Phải tích cực mở rộng thị trường bên ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời
phải chủ động mở cừa thị trường trong nước, kể cà thị trường dịch vụ, để thu hút
mạnh vốn đầu tư, công nghệ và kỷ năng quản lý tiên tiến từ bên ngoài, nâng cao
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, v.v...
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã làm rõ hơn khái niệm về chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Theo đó, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là
hoàn toàn chủ động quyết định đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói
chung, chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng. Chủ động nắm
vững quy luật, tính tất yếu của sự vận động kinh tế toàn cầu, phát huy đầy đủ năng
lực nội sinh, xác định lộ trình, nội dung, quy mô, bước đi phù hợp, đa dạng hóa, đa
phương hóa các quan hệ kinh tế quốc tế. Chủ động còn bao hàm sự sáng tạo, lựa
chọn phương thức hành động đúng, dự báo được những tình huống trong hội nhập.

Còn tích cực hội nhập là khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đối mới bên trong từ
phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt động thực tiễn; từ trung ương đến địa
phương, doanh nghiệp; khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, v.v...
Tích cực hội nhập còn là không duy trì quá lâu các chính sách bảo hộ của Nhà
nước, khắc phục nhanh tình trạng trông chờ, ỷ lại sự bao cấp của Nhà nước, tích
cực hội nhập nhưng phải thận trọng, vững chắc.

10



×