Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Phòng Ngừa Tình Hình Tội Trộm Cắp Tài Sản Trên Địa Bàn Thành Phố Phan Rang - Tháp Chàm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.6 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN PHONG

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ PHAN RANG – THÁP CHÀM,
TỈNH NINH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN PHONG

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ PHAN RANG – THÁP CHÀM,
TỈNH NINH THUẬN

Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH THỊ MAI

HÀ NỘI, 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN XUÂN PHONG


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CAND

: Công an nhân dân

CQCA

: Cơ quan công an

CQĐT

: Cơ quan điều tra

TAND

: Tòa án nhân dân


VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

RPTC

: Phan Rang – Tháp Chàm


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tổng quan tình hình tội phạm và tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa
bàn Thành phố Phan Rang - Tháp Chàm giai đoạn 2014 – 2018
Bảng 2.2: Cơ cấu theo độ tuổi của người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
Thành phố Phan Rang - Tháp Chàm giai đoạn 2014 – 2018
Bảng 2.3: Cơ cấu theo giới tính của người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
Thành phố Phan Rang - Tháp Chàm giai đoạn 2014 – 2018
Bảng 2.4: Cơ cấu theo học vấn của người phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
Thành phố Phan Rang - Tháp Chàm giai đoạn 2014 – 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ......................................................................................7
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản .....7
1.2. Nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản ......................................14
1.3. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản ............................................19
1.4. Các loại biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản ...........................28
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ PHAN RANG – THÁP CHÀM,

TỈNH NINH THUẬN ..............................................................................................33
2.1. Thực trạng nhận thức về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận .............................................33
2.2. Thực trạng áp dụng về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận .............................................39
2.3. Đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành
phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua ...............................49
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ PHAN RANG – THÁP CHÀM,
TỈNH NINH THUẬN TRONG THỜI GIAN TỚI ...............................................55
3.1. Dự báo tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang- Tháp
Chàm trong thời gian tới ...........................................................................................55
3.2. Các giải pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố
Phan Rang- Tháp Chàm trong thời gian tới. .............................................................58
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta
khởi xướng lãnh đạo đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng, có ý nghĩa lịch
sử. Cùng với sự phát triển của cả nước, tỉnh Ninh Thuận nói chung, thành phố Phan
Rang - Tháp Chàm nói riêng đã có bước tiến phát triển vượt bậc: Kinh tế tăng
trưởng khá, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của tỉnh, thành phố Phan Rang
- Tháp Chàm có tốc độ đô thị hóa nhanh, dần trở thành một đô thị văn minh, hiện
đại. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường và sự tác động của
những yếu tố tiêu cực khác, tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố diễn ra phức

tạp, có chiều hướng gia tăng, trong đó đáng chú ý là tội trộm cắp tài sản.
Theo thống kê của Cơ quan CSĐT Công an thành phố trong 05 năm từ 2014 –
2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố đã khởi tố điều tra 636 vụ án hình
sự, khởi tố 985 bị can. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án cho thấy thủ đoạn
của đối tượng phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, thậm chí đã hình thành nên
những băng nhóm hoạt động manh động, liều lĩnh. Số lượng vụ án tăng nhanh, hành
vi phạm tội cũng khá đa dạng, từ giết người, cướp tài sản, cướp giật tài sản, cố ý
gây thương tích, gây rối trật tự công cộng, hiếp dâm, các loại tội phạm về ma túy…
Trong đó, tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ cao nhất trong cơ cấu tội phạm của thành
phố Phan Rang - Tháp Chàm với 298 vụ/321 bị can (chiếm tỷ lệ 45% tổng số vụ án
khởi tố). Thủ đoạn phạm tội của các đối tượng trộm cắp tài sản không còn đơn giản,
cơ hội mà nhiều vụ cho thấy đã có sự tính toán, chuẩn bị kỹ càng và khá tinh vi,
thậm chí đã hình thành các nhóm tội phạm trộm cắp có tính nguy hiểm cao, có phân
công nhiệm vụ cho thành viên trong nhóm. Số lượng các vụ án tăng nhanh, tính chất
của các vụ án ngày càng phức tạp, thủ đoạn tinh vi, tài sản thiệt hại lớn, để lại những
hậu quả nghiêm trọng, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Cùng với chủ trương
đầu tư phát triển du lịch, tình hình trộm cắp theo lễ hội, đột nhập khách sạn, nhà nghỉ
để trộm cắp tài sản của khách du lịch gia tăng làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh địa

1


phương, đến việc phát triển du lịch của tỉnh Ninh Thuận. Đây thực sự là một vấn đề
rất đáng báo động.
Thời gian qua, công tác phòng, chống tội phạm nói chung và phòng, chống tội
phạm trộm cắp tài sản của Công an Thành phố Phan Rang - Tháp Chàm và các cơ
quan chức năng nói riêng đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, tội phạm
trộm cáp tài sản vẫn diễn biến phức tạp, tỷ lệ điều tra khám phá loại án này vẫn còn
thấp (khoảng 50%); hoạt động đấu tranh phòng, chống đối với loại tội phạm này
vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, thiếu sót chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực

tiễn, làm cho quần chúng nhân dân hoài nghi về tính công minh của pháp luật và
chưa thực sự tin tưởng vào các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản đòi hỏi
phải nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề của thực tiễn, diễn
biến tình hình tội phạm trộm cắp tài sản và đánh giá đúng thực trạng hoạt động của
các cơ quan chức năng trong phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản, đề xuất các giải
pháp nâng cao hiệu quả trong phòng ngừa loại tội phạm này.
Chính vì lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài "Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp
tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận” làm luận
văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đấu tranh, phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm trộm cắp tài sản nói
riêng là vấn đề đã được quan tâm nghiên cứu. Các công trình khoa học nghiên cứu
có liên quan về lĩnh vực này như:
- Nguyễn Xuân Yêm (2001), Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
- Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, NXB.
Công an Nhân dân, Hà Nội.
- Phạm Hồng Cử (2004), Tội phạm trộm cắp tài sản và công tác phòng ngừa,
đấu tranh tại Thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp,
Trường đại học Cảnh sát nhân dân, Thành phố Hồ Chí Minh.

2


- Đề tài khoa học cấp bộ “Tội phạm trộm cắp xe gắn máy có tổ chức tại các
tỉnh, thành phố phía Nam - thực trạng và giải pháp phòng ngừa, đấu tranh” do tác
giả Vũ Anh Sơn làm chủ nhiệm.
- Luận án tiến sĩ “Trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng chống tội phạm này ở
Việt Nam” của tác giả Hoàng Văn Hùng;

- Luận văn thạc sĩ “Điều tra các vụ án trộm cắp tài sản tại nơi ở của công dân
trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh” của tác giả Đinh Trần Ngọc Tiên.
- Luận văn thạc sĩ “Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn quận
Tân Bình, Thành Phố Hồ Chí Minh” của tác giả Tô Lan Phương.
Các công trình trên về cơ bản đã đánh giá khái quát được tình hình tội trộm
cắp tài sản trên phạm vi cả nước hoặc trên một số địa bàn nhất định, xác định các
nguyên nhân của tội phạm và từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm này.
Tuy nhiên, trên địa bàn thành Phố Phan Rang - Tháp Chàm chưa có công trình
khoa học nào nghiên cứu về vấn đề trên. Xuất phát từ tổng quan tình hình nghiên
cứu như trên, tác giả luận văn cho rằng, việc nghiên cứu các vấn đề về tình hình,
phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp để
giảm số lượng các vụ án về trộm cắp tài sản trên địa bàn thành Phố Phan Rang Tháp Chàm trong tương lai là hết sức cần thiết, nhất là trong tiến trình cải cách tư
pháp, hội nhập quốc tế như hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu cơ bản, hệ thống những vấn đề chung về lý luận và
đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn thành phố
Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, tác giả chỉ ra những vướng mắc, hạn
chế trong nhận thức về vấn đề này, đồng thời phân tích những bất cập, hạn chế
trong hoạt động thực tiễn phòng ngừa. Từ đó đề xuất các phương hướng, các biện
pháp phòng ngừa nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn Thành phố trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

3


Để đạt được mục đích trên, cần thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Phân tích những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản.
+ Đánh giá thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, cụ thể là tổ chức
phòng ngừa và thực trạng áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm.
+ Làm rõ những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế này trong hoạt
động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Trên cở sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
phòng ngừa tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố.
+ Dự báo tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang –
Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn
thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, dựa trên các số liệu thống kê
của các cơ quan tiến hành tố tụng của thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh
Ninh Thuận giai đoạn từ năm 2014 – 2018.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: các vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tình hình tội
trộm cắp tài sản; thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.
- Về không gian: Địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh
Thuận.
- Về thời gian: Số liệu được thu thập liên quan đến tội trộm cắp tài sản từ năm
2014 đến năm 2018 xảy ra trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh
Ninh Thuận.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở quan điểm nhận thức của chủ nghĩa

4


duy vật biện chứng vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác LêNin về Nhà

nước và Pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về lý luận tội phạm học
nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các báo cáo sơ kết, tổng kết từ năm 2014 đến năm 2018 của
các cơ quan chức năng trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, qua đó
dùng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,
nghiên cứu hồ sơ … để xem xét vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận:
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, học tập và nghiên cứu
khoa học trong lĩnh vực khoa học pháp lý hình sự; đồng thời, luận văn còn góp phần
làm rõ hơn lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm trên một địa bàn cụ thể. Kết
quả nghiên cứu có thể làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận về phòng ngừa tình hình tội
phạm trên địa bàn thành Phố Phan Rang –Tháp Chàm.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Một số giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản được trình
bày trong luận văn có thể được nghiên cứu, sử dụng trong thực tiễn chỉ đạo và tiến
hành hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm trên địa bàn thành phố Phan Rang
– Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Luận văn còn là tài liệu để các chủ thể phòng ngừa
tội phạm, đặc biệt là trong hoạt động của các cơ quan trực tiếp đấu tranh phòng
chống tội phạm (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án) tham khảo, rút kinh nghiệm nhằm
xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận
nói riêng một cách khoa học và hiệu quả hơn trong tương lai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, luận văn được chia làm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản.

5



Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn
thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài
sản trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp
tài sản
1.1.1.Khái niệm phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
Trong lý luận về tội phạm học, các nhà khoa học đã sử dụng hai thuật ngữ
“Phòng ngừa tội phạm” và “Phòng ngừa tình hình tội phạm”, hai thuật ngữ này đều là
phòng ngừa tội phạm ở các mức độ khác nhau như: tình hình tội phạm nói chung,
từng loại tội phạm và từng tội phạm cụ thể nhằm hạn chế và loại trừ tội phạm ra khỏi
đời sống xã hội, không phân biệt loại tội phạm (hoặc tội phạm) nào. Có thể thấy,
phòng ngừa tình hình tội phạm chính là một trong những nội dung quan trọng và
chiếm một vị trí đặc biệt của lý luận về tội phạm học. Do đó, phòng ngừa tình hình tội
phạm vừa là bộ phận cấu thành quan trọng của tội phạm học, vừa là mục tiêu, chức
năng cơ bản của tội phạm học. Hơn nữa, mục đích của ngành khoa học về tội phạm
học chính là để phòng ngừa tình hình tội phạm, để cho tội phạm không xảy ra, không
gây ra các hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Theo Từ điển Luật học: “Phòng ngừa tội phạm là ngăn ngừa tội phạm và loại
trừ các nguyên nhân phát sinh tội phạm bằng toàn bộ những biện pháp liên quan
với nhau do cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội tiến hành” [31, tr.156]. Phòng

ngừa tội phạm là việc áp dụng một cách tổng thể các biện pháp kinh tế, chính trị, tư
tưởng, pháp luật do các cơ quan, các tổ chức và công dân tiến hành dưới sự lãnh đạo
của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vô hiệu hóa các nguyên nhân, điều kiện phạm tội;
không để cho tội phạm xảy ra; làm giảm và tiến tới loại trừ tình hình tội phạm ra
khỏi đời sống xã hội.
Theo Giáo trình Tội phạm học của trường Đại học Luật Hà Nội, “Phòng ngừa
tình hình tội phạm là việc áp dụng một cách tổng thể các biện pháp kinh tế, chính
trị, tư tưởng, pháp luật… do các cơ quan, các tổ chức và công dân tiến hành dưới
sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vô hiệu hóa các nguyên nhân, điều kiện

7


phạm tội; không để cho tội phạm xảy ra; làm giảm tội phạm và tiến tới loại trừ
hoàn toàn tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội”[34, tr.210].
Theo quan điểm của GS.TS Nguyễn Xuân Yêm: “phòng ngừa tội phạm là
không để tội phạm xảy ra và gây hậu quả cho xã hội, không để con người sống
trong xã hội phải đối mặt và gánh chịu những hình phạt nghiêm khắc của pháp luật.
Nếu con người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức phải chịu hình
phạt theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành thì phải được phát hiện kịp thời,
điều tra khám phá để truy tố, xét xử theo quy định, tiến hành các biện pháp quản lý,
giáo dục cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội” [36, tr.147]
Theo quan điểm GS.TS Võ Khánh Vinh, “Phòng ngừa tình hình tội phạm là
hệ thống nhiều mức độ và biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà nước
– xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô
hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ
tình hình tội phạm. Trong đấu tranh với tình hình tội phạm có hai phương hướng
liên kết chặt chẽ với nhau, đó là phòng ngừa và phát hiện điều tra, truy tố, xét xử
các tội phạm, đảm bảo người phạm tội phải chịu các hình phạt thích đáng, tương
xứng với hành vi phạm tội của mình và được giáo dục, cải tạo để trở thành một

công dân có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Các biện pháp pháp lý –
hình sự của cuộc đấu tranh với tình hình tội phạm có vị trí, vai trò quan trọng trong
những trường hợp chuẩn bị và thực hiện các tội phạm cụ thể. Phòng ngừa là việc
khắc phục hoặc vô hiệu hóa các nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm trước
khi nó gây ra việc thực hiện tội phạm” [34, tr.154].
Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 thuộc Chương XVI, nhóm các
tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017).
Theo đó, trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản của chủ sở hữu hoặc người có
trách nhiệm quản lý tài sản.
Để phòng ngừa loại tội này một cách có hiệu quả cần làm sáng tỏ dấu hiệu
pháp lý của tội trộm cắp tài sản như sau:
- Khách thể của tội trộm cắp tài sản

8


Hành vi trộm cắp tài sản là hành vi xâm phạm vào quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ là quyền sở hữu tài sản; đó là các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và
quyền định đoạt tài sản. Vì vậy, hành vi gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu là hành vi
xâm phạm các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của người khác. Đối
tượng tác động của tội phạm trộm cắp tài sản là tài sản của người khác; tài sản này
có thể thuộc quyền sở hữu của công dân Việt Nam, của người nước ngoài, của các
tổ chức trong nước và quốc tế tại Việt Nam, của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam cũng như của các nước khác tại Việt Nam đều được pháp luật hình
sự Việt Nam bảo vệ.
- Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt khách quan là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, đối với tội trộm
cắp tài sản được thể hiện ở hành vi lén lút, bí mật để chiếm đoạt tài sản của người
khác hoặc đang do người khác quản lý. Dấu hiệu có tính chất đặc thù của tội trộm
cắp tài sản là hành vi “lén lút, bí mật”, đây cũng là điểm riêng để phân biệt tội trộm

cắp tài sản với những tội chiếm đoạt tài sản khác. “Lén lút, bí mật“ được hiểu là
người thực hiện hành vi phạm tội có ý thức che giấu hành vi của mình, sự “lén lút,
bí mật” này chỉ cần đối với người chủ sở hữu tài sản hoặc người đang quản lý đối
với tài sản đó, mà không cần “lén lút, bí mật” đối với những người khác. Tuy nhiên,
đa số những hành vi trộm cắp tài sản, ý thức chủ quan của người phạm tội vẫn là lén
lút, bí mật che giấu hành vi đối với bất kì người nào khác, ý thức che giấu này có
thể là: Che giấu toàn bộ hành vi phạm tội, như che giấu đối với chủ tài sản hoặc chỉ
che giấu tính chất phi pháp của hành vi phạm tội. “Lén lút, bí mật“ với người có thể
là chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản và còn có thể đối với người khác
mà người phạm tội cho rằng có thể cản trở hành vi phạm tội của mình. Đây là hành
vi của một người cố ý thực hiện một việc làm bất minh, vụng trộm, giấu giếm
không để lộ cho người khác biết, nhằm mục đích chiếm đoạt trái phép tài sản của
họ. Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Để xác
định tội phạm đã hoàn thành hay không phải dựa vào đặc điểm, vị trí của tài sản bị
chiếm đoạt trong từng trường hợp cụ thể.

9


Dấu hiệu hậu quả của hành vi đã được quy định tại điều luật cụ thể về định
lượng, đó là giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ hai triệu đồng trở lên, nếu dưới hai
triệu thì phải thuộc một trong các trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt mà còn vi phạm; Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy
định tại các điều 168 (Tội cướp tài sản), 169 (Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản),
170 (Tội cưỡng đoạt tài sản), 171 (Tội cướp giật tài sản), 172 (Tội công nhiên
chiếm đoạt tài sản) , 174 (Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản), 175 (Tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản) và 290 (Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản) của Bộ luật hình sự năm
2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật
tự, an toàn xã hội; Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia

đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối
với người bị hại. [18, tr.207]
- Chủ thể của tội trộm cắp tài sản
Chủ thể của tội trộm cắp tài sản là bất cứ người nào có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật và đạt độ tuổi theo quy định (từ đủ 16
tuổi đối với khoản 1, 2 [18, tr.207]; từ đủ 14 tuổi đới với khoản 3, 4 [18, tr.208]).
Năng lực trách nhiệm hình sự là trạng thái tâm lý bình thường của con người ở thời
điểm người đó thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được hành vi do
mình thực hiện và điều khiển hành vi đó. Khả năng con người phải chịu trách nhiệm
hình sự bởi hành vi của mình gây ra trước xã hội gắn với trạng thái tâm lý tại thời
điểm thực hiện hành vi đó.
- Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp nhằm mục đích vụ lợi. Cố ý trực
tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó,
mong muốn hậu quả xảy ra [29,tr.236]. Mục đích của người phạm tội là mong muốn
chiếm đoạt được tài sản.
Từ khái niệm và phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về phòng ngừa tình

10


hình tội trộm cắp tài sản như sau:
Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản là quá trình hoạt động của các cơ
quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân sử dụng tổng hợp các biện
pháp nhằm mục đích loại trừ hướng đến triệt tiêu các nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội trộm cắp tải sản để ngăn chặn, hạn chế và từng bước tiến tới loại bỏ
tình hình tội trộm cắp tài sản ra khỏi đời sống xã hội.
Việc nghiên cứu khái niệm và những yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản là
cơ sở để xác định đúng các phương pháp phòng ngừa phù hợp, hiệu quả với sự điều

kiện phát sinh loại tội này trong thực tế.
1.1.2. Mục đích của của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
Phòng ngừa tình hình tội phạm là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp,
tuy nhiên xuất phát từ nhận thức con người sinh ra vốn có bản chất hướng thiện và
đều có thể trở thành công dân có ích. Đảng và Nhà nước ta ta đặc biệt quan tâm đến
vấn đề phòng ngừa tội phạm. Đảng ta đã ban hành chỉ thị số 48/CT/TW ngày
22/10/2010 “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm trong tình hình mới” qua đó đã khẳng định rõ công tác phòng chống
tội phạm có mục đích là “phải kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm, nhất là các
loại tội phạm nghiêm trọng, tội phạm mới, tạo môi trường lành mạnh phục vụ có
hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc và bình
yên của nhân dân”.
Phòng ngừa tình hình tội phạm cũng như phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài
sản hướng tới các mục đích sau:
- Mục đích đầu tiên là hạn chế, khắc phục, xóa bỏ các nguyên nhân điều kiện
của tình hình tội trộm cắp tài sản. Đây cũng chính là nội hàm của công tác phòng
ngừa chung đối với tội phạm này, để phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản đạt
hiệu quả, cần phải cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội, hạn chế, làm giảm các
nguyên nhân và điều kiện phạm tội và tiến tới xóa bỏ, thủ tiêu hiện tượng này khỏi
đời sống xã hội góp phần đảm bảo an ninh trật tự của đất nước. Phòng ngừa tình
hình tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng là phải hướng tới việc

11


không để hình thành và tồn tại các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, tức là phải
hạn chế, cô lập, tiến tới loại trừ những mầm mống tội phạm, tìm ra được những biện
pháp tác động vào quá trình hình thành, tồn tại và phát triển các nguyên nhân và
điều kiện của tình hình phạm tội, bao gồm những yếu tố về tâm sinh lý con người,
yếu tố môi trường tác động và đặc biệt là cuộc sống xã hội luôn luôn thay đổi, phát

triển và thường xuyên xuất hiện những mâu thuẫn chưa kịp thời giải quyết được.
- Hai là, ngăn chặn, không để xảy ra các hành vi phạm tội trộm cắp tài sản.
Đây là hoạt động tác động đến đối tượng trước khi đối tượng có ý định thực hiện
hành vi phạm tội, làm cho tội phạm không xẩy ra, không gây ra hậu quả, tác hại trên
thực tế. Hoạt động này có tính tức thời, cấp bách, kịp thời khi đối tượng mới nảy
sinh ý định và chuẩn bị các bước cần thiết thực hiện hành vi phạm tội. Việc ngăn
chặn hành vi phạm tôi trộm cắp tài sản là tác động trực tiếp đến đối tượng, môi
trường, hoàn cảnh cụ thể có khả năng phát sinh hành vi vi phạm, làm cho đối tượng
tự giác từ bỏ hoặc không thể thực hiện được hành vi trộm cắp tài sản của mình từ đó
ngăn chặn được những hậu quả xẩy ra.
- Ba là, phòng ngừa người phạm tội tái phạm: là việc ngăn ngừa những con
người đã có tiền án tiền sự, vẫn còn những khả năng, điều kiện, cơ hội để có thể dẫn
đến tiếp tục thực hiện những hành vi phạm tội trộm cắp tài sản mới. Đối với những
người này, nếu không có biện pháp phòng ngừa phù hợp thì sau khi bị xử lý các đối
tượng này lại rất dễ dàng thực hiện lại hành vi phạm tội. Thậm chí, hành vi tái phạm
sẽ có tính chất nguy hiểm, manh động, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và gây hậu quả
nghiêm trọng hơn cho xã hội.
Nhiều biện pháp tác động của Nhà nước, xã hội, gia đình và phòng ngừa
nghiệp vụ của các cơ quan chuyên môn được thực hiện để hạn chế việc tái phạm
của người phạm tội trộm cắp tài sản. Nhà nước đã có những chính sách như tạo
công ăn việc làm thuận lợi cho người phạm tội sau khi bị xử lý hình sự; sự tác động
của cơ quan chức năng về giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý chặt chẽ những diễn
biến, động thái của đối tượng khi mãn hạn thi hành án về sống với cộng đồng; nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật, giáo dục pháp luật, yêu cầu gia đình,bạn bè thường

12


xuyên động viên,giúp đỡ đối tượng nhận thức được hành vi sai trái, từ bỏ tư tưởng
lệch lạc, tạo điều kiện cho người đã chấp hành xong bản án tái hòa nhập cộng đồng;

hướng nghiệp, tạo việc làm giáo dục thanh thiếu niên chậm tiến, quản lý những đối
tượng bị quản chế, cấm đi khỏi nơi cư trú, bị kết án tù nhưng cho hưởng án treo,
không để họ phạm tội trở lại.
1.1.3. Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
Tình hình tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng gây thiệt hại lớn
cho các quan hệ xã hội, dó đó phòng ngừa tình hình tội phạm là hoạt động mang
tính tất yếu nhằm loại bỏ các yếu tố tiêu cực làm phát sinh tội phạm và hạn chế làm
giảm tới mức thấp nhất việc xảy ra tội phạm trong xã hội. Nghiên cứu về việc
phòng ngừa tình hình tội phạm là một chiến lược, lâu dài. Chúng được thực hiện
một cách có hệ thống toàn bộ, kết cấu chặt chẽ thông qua hoạt động phối hợp, sự tác
động lẫn nhau, sự giúp đỡ lẫn nhau của các chủ thể phòng ngừa.
Việc thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn
bảo vệ tài sản của xã hội, công dân, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của
mọi người dân mà còn tác động nhất định đến các lĩnh vực khác trong quá trình xây
dựng và bảo vệ đất nước như kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh quốc phòng…
Thông qua việc làm tốt công tác phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản sẽ tạo ra
những điều kiện thuận lợi cho các mặt công tác phòng ngừa tình hình tội phạm
khác, góp phần huy động sức mạnh tổng thể, đồng bộ trong đấu tranh phòng, chống
tội phạm, làm giảm sự gia tăng của tội phạm và vi phạm pháp luật như hỗ trợ công
tác tấn công trấn áp có hiệu quả cao, hỗ trợ công tác bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự
an toàn xã hội tốt hơn. Đặc biệt đối với lĩnh vực điều tra, xử lý tội phạm, làm tốt
công tác phòng ngừa, phát động quần chúng nhân dân có ý thức tham gia đấu tranh
phòng chống tội phạm, huy động sức mạnh tổng thể, đồng bộ trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm, làm giảm sự gia tăng của tội phạm và vi phạm pháp luật,
quản lý chặt chẽ các đối tượng điều tra giúp cho công tác điều tra vụ án nhanh
chóng và đem lại hiệu quả cao.

13



Bên cạnh đó, thực hiện tốt các hoạt động phòng ngùa tình hình tội phạm nói
chung và tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng còn có ý nghĩa nhất định về mặt nhân
đạo và tiến bộ xã hội. Khi các hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài
sản phát huy tốt, đạt hiệu quả thì việc cải thiện điều kiện kinh tế xã hội để mọi
người sống trong môi trường an toàn, ngăn ngừa rủi ro phạm tội sẽ tạo trạng thái
tâm lý ổn định, bình an trong người dân, an toàn cho cộng đồng và dân cư, làm tăng
niềm tin, hy vọng của nhân dân vào nền pháp chế Xã hội chủ nghĩa, tạo sự ổn định
có trật tự pháp luật, qua đó nâng cao sự tín nhiệm vào khả năng, hiệu quả hoạt động
của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Điều này sẽ tạo được hiệu ứng tích cực, hăng say
và nhiệt tình tham gia của nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
tạo ra sự hưởng ứng của xã hội, cộng đồng chống lại những hành vi tiêu cực, vi
phạm pháp luật hoặc lệch chuẩn.
Làm tốt và có hiệu quả đối với công tác phòng ngừa tội trộm cắp tài sản sẽ
mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc, đem lại hiệu quả kinh tế nhất định và ngăn chặn
những thiệt hại to lớn về kinh tế do tội phạm này gây ra, kể cả những thiệt hại gián
tiếp mà cơ quan Nhà nước và xã hội phải chi trả để điều tra, khám phá, khắc phục
những hậu quả do tội phạm để lại. Bên cạnh đó, nếu tỷ lệ phạm tội trộm cắp tài sản
giảm thì tiết kiệm ngân sách Nhà nước, sức lao động của các nhân viên Nhà nước
và của công dân trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, giáo dục cải tạo người
phạm tội cũng như trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến tội phạm.
Bênh cạnh đó, hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản nâng
cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, đồng thời tăng hiệu quả trong hoạt động
chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Mặt khác, các biện pháp
phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản góp phần duy trì trật tự xã hội bằng các
biện pháp chuyên môn nghiệp vụ, biện pháp pháp luật... Vì vậy, nghiên cứu phòng
ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản còn mang nhiều ý nghĩa về mặt quản lý xã hội.
1.2. Nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
Theo từ điển tiếng Việt, nguyên tắc là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải
tuân theo trong một việc làm”; là “Những quy định, phép tắc làm cơ sở để xem xét,


14


làm việc”.
Như vậy, nguyên tắc có thể được hiểu là tư tưởng chỉ đạo, quy tắc cơ bản định
hướng một hoạt động nào đó. Trong tội phạm học, để hoạt động phòng ngừa tình
hình tội phạm đạt được mục đích của mình thì bên cạnh quy định các trình tự thủ
tục tiến hành các hoạt động cụ thể, tội phạm học còn định ra những nguyên tắc
phòng ngừa với tư cách là những tư tưởng và quan điểm chủ đạo đối với toàn bộ
tiến trình được thể hiện bằng pháp luật, hợp thành thể thống nhất, có ý nghĩa quyết
định đối với việc xác định và thực hiện các hoạt động phòng ngừa. Các nguyên tắc
này thể hiện chính sách hình sự, quan điểm giải quyết vụ án hình sự của Đảng và
Nhà nước ta, gắn liền với nhiệm vụ, mục đích của phòng chống tội phạm và mang
tính định hướng cho mọi hoạt động và hành vi đòi hỏi các cơ quan, tổ chức và mọi
người dân phải phải tuân thủ. Những nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm
phản ánh các quy luật khách quan và những kinh nghiệm thực tiễn của hoạt động
phòng ngừa tình hình tội phạm. Cụ thể, phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài
sản cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
1.2.1. Nguyên tắc dân chủ trong phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội trộm cắp nói riêng là
một hoạt động mang tính xã hội rộng rãi. Trong phòng ngừa tội trộm cắp tài sản,
nguyên tắc dân chủ được thể hiện là hoạt động phòng ngừa phải có sự tham gia tích
cực và có hiệu quả của tất cả các cơ quan Nhà nước, đoàn thể, tầng lớp và lực lượng
trong xã hội, đặc biệt là quần chúng nhân dân lao động. Mặt khác, có thể thấy
không một cá nhân, tổ chức, cơ quan nào có khả năng giải quyết có hiệu quả nhiệm
vụ phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản một cách độc lập, đây là công việc
chung của toàn xã hội, của tất cả các cơ quan Nhà nước và của mọi công dân. Chính
từ sự phối hợp tùy theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các khả năng, lợi thế
riêng hiện có của các chủ thể này đã mang lại sự hiệu quả nhất định trong hoạt động

phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình trộm cắp tài sản
nói riêng.
Cần có những quy định về cơ chế hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả

15


các chủ thể tham gia phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản để cho các chủ thể
phát huy được tối đa những lợi thế của mình trong hoạt động phòng ngừa tình hình
tội phạm trên thực tế, giúp cho hoạt động này có hiệu quả cao nhất. Do đó, để
nguyên tắc này được áp dụng trong thực tiễn thì cần thiết phải quy định các nội
dung này trong các văn bản pháp luật về phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu nói
chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. Bên cạnh đó, chủ thể phòng ngừa tội phạm
là nhân dân, nhưng họ không có công cụ, phương tiện nhằm đấu tranh trực tiếp với
tội phạm. Cho nên, nhân dân cần được hướng dẫn, tạo điều kiện từ các chủ thể
chuyên trách là cơ quan nhà nước. Sự hướng dẫn, tạo điều kiện cho quần chúng
nhân dân tham gia phòng ngừa tội phạm thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau như:
xây dựng, triển khai các chương trình phòng, chống tội phạm có sự tham gia nhiệt
tình của nhân dân; tiếp nhận xử lý và có hiệu quả các tin báo, tố giác về tội phạm;
hướng dẫn, huấn luyện cho các tổ chức nhân dân tự quản các biện pháp cần thiết
trong việc phát hiện, xử lý các hành vi có dấu hiệu vi phạm. Thực hiện, tuân thủ
nguyên tắc này sẽ phát huy được hết sức mạnh của các tầng lớp nhân dân đối với
trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản.
1.2.2. Nguyên tắc pháp chế trong phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên tắc Hiến
định, bao trùm nhất được thể hiện trong tất cả quy định của pháp luật, từ những quy
định chung cho đến những quy định cụ thể. Đây là nguyên tắc pháp lý cơ bản,
chung nhất trong mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công
dân được Điều 8 của Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Nhà nước tổ chức và hoạt động
theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”.

Để tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật, Nhà nước ta đã khẩn trương cụ
thể hóa Hiến pháp bằng một hệ thống pháp luật phù hợp với tiến trình đổi mới của
đất nước. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo cho cuộc đấu tranh chống
tội phạm được kiên quyết, triệt để, kịp thời nhằm giáo dục kẻ phạm tội đồng thời
ngăn chặn việc xử oan người vô tội, hạn chế các quyền tự do dân chủ của công dân
một cách trái pháp luật. Nguyên tắc này xuyên suốt toàn bộ họat động phòng ngừa

16


tình hình tội phạm của các chủ thể tiến hành hoạt động phòng ngừa. Việc tuân thủ
nguyên tắc pháp chế nhằm đảm bảo cho hoạt động các chủ thể tham gia tuân thủ
nghiêm ngặt những quy định của pháp luật, tôn trọng những quyền mà pháp luật
quy định đối với người bị tình nghi thực hiện tội phạm.
Nội dung nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động phòng ngừa
tình hình tội trộm cắp tài sản biểu hiện ở chỗ các chủ thể tiến hành hoạt động phòng
ngừa và áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm phải có cơ sở, phù
hợp và tuân thủ các quy định của pháp luật. Trong quá trình tiến hành các hoạt động
nhằm phòng ngừa tình hình tội phạm, các chủ thể phải tuân thủ nghiêm chỉnh, nhất
quán các quy định của pháp luật về hoạt động đó. Các chủ thể của quá trình này chỉ
được hành động theo đúng quy định của pháp luật, trong phạm vi mà pháp luật cho
phép hay nói cách khác là thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền đã được
pháp luật quy định nhằm xử lý nhanh chóng, kịp thời mọi hành vi vi phạm, tôn
trọng và đảm bảo thực hiện các quyền của người phạm tội. Nếu nguyên tắc pháp
chế được tôn trọng thì quyền con người trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm nói chung, phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản nói riêng sẽ được bảo vệ,
trách nhiệm, hiệu quả của các chủ thể phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
được tăng cường.
Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản mang tính quyền lực nhà nước. Do
đó, việc phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài

sản nói riêng phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Đồng thời, khi và chỉ khi thực hiện đúng các quy định của pháp luật, thì việc phòng
ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản mới đảm bảo mục đích của nó là bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và mọi công dân.
1.2.3. Nguyên tắc nhân đạo trong phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
Phòng ngừa tội phạm là hoạt động nhằm hướng đến không để cho tội phạm
xảy ra, không để cho một công dân nào có ý định thực hiện hành vi phạm tội; bên
cạnh đó, đối tượng của hoạt động phòng ngừa tình hình trộm cắp tài sản là con
người nói chung và người phạm tội trộm cắp tài sản nói riêng nên cần tuân thủ

17


nguyên tắc nhân đạo. Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản là không để các
hành vi trộm cắp xảy ra; đồng thời không để các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
và công dân phải gánh chịu hậu quả do hành vi phạm tội trộm cắp tài sản. Vì vậy,
đòi hỏi hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản phải có hiệu quả, hiệu
quả càng cao thì tính nhân đạo càng được đảm bảo.
Nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc chủ chốt, xuyên suốt quá trình và toàn bộ
hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm. Nguyên tắc này đòi hỏi các biện pháp
phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản được xây dựng và áp dụng trong thực tiễn
không có tính chất làm nhục, không tổn thương con người, đối xử tàn bạo hay hạ
thấp nhân phẩm, danh dự, các quyền cơ bản của con người mà phải hướng đến việc
sửa chữa sai sót nhân cách con người, định hướng hành vi, lối sống cho họ theo
hướng hòa nhập với xã hội, làm những việc có ích cho xã hội. Suy cho cùng, mục
đích của phòng ngừa tình hình tội phạm là nhằm bảo vệ con người, chính vì vậy khi
thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm, các chủ thể phòng ngừa
không được gây tổn thương đến con người. Khi triển khai, áp dụng các biện pháp
phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, chủ thể phòng ngừa có thể sẽ áp dụng các
biện pháp vô tình gây tổn thương đến con người, mà ở đây là bị can, bị cáo, nạn

nhân trực tiếp gián tiếp của tội phạm… Vì vậy, ngoài việc tuân thủ pháp luật, chủ
thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản cần cân nhắc
xem biện pháp đó có nguy cơ gây tổn thương đến đối tượng nào trong xã hội hay
không. Nguyên tắc này còn đòi hỏi phải kết hợp hài hòa, đúng tính chất, mức độ
giữa biện pháp cưỡng chế với thuyết phục theo hướng tăng cường sự thuyết phục,
giáo dục.
Để nguyên tắc này được thực hiện trên thực tế thì yêu cầu nội dung của
nguyên tắc phải được thể hiện trong các văn bản pháp luật, cần quy định hệ thống
các biện pháp chế tài đa dạng, có tính nhân đạo cùng với những điều kiện áp dụng
chặt chẽ. Bên cạnh đó, các chủ thể phòng ngừa tội phạm khi xây dựng chương trình,
thiết kế các chương trình phòng ngừa tội phạm, đặc biệt là các biện pháp phòng
ngừa tội phạm cần ưu tiên xây dựng các biện pháp mang tính xã hội, hạn chế các

18


biện pháp mang tính cưỡng chế hoặc tước bỏ lợi ích của những người được áp dụng
các biện pháp đó. Tuân thủ nguyên tắc nhân đạo, hoạt động phòng ngừa tình hình
tội trộm cắp tài sản sẽ đạt được kết quả cao, đồng thời, hạn chế những tổn thương
cho toàn xã hội. Suy cho cùng, các biện pháp này mục đích cuối cùng là phòng
ngừa tình hình tội phạm, nhưng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm cũng
cần không gây tổn thương cho con người, khi đó mới đạt được mục đích nhân đạo.
1.2.4. Nguyên tắc khoa học và tiến bộ của hoạt động phòng ngừa tình hình tội
trộm cắp tài sản
Hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản là hoạt động có tính chất
phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro khó khắc phục; bên cạnh đó hoạt động này cũng là
hoạt động của cả xã hội bao gồm nhiều lực lượng tham gia với rất nhiều các biện
pháp, do đó đòi hỏi hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trộm cắp tài sản phải
được tiến hành một cách khoa học; đồng thời phải luôn được cải tiến kết hợp khai
thác, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiến bộ và công nghệ trong việc xây

dựng các biện pháp phòng ngừa để hoạt động phòng ngừa ngày càng phát huy tính
hiệu quả, giúp cho việc giảm số lượng phạm tội trộm cắp tài sản. Muốn vậy cần
phải có nghiên cứu đưa ra được quy trình, phương pháp trong hoạt động phòng
ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản làm sao cho việc điều hành, thực hiện các hoạt
động phòng ngừa tình hình tội phạm đảm bảo khả năng thành công, tiết kiệm sức
lực, tiền bạc và hạn chế được các rủi ro, tổn thất.
1.3. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
Chủ thể của hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội trộm
cắp tài sản nói riêng là những người và tổ chức tham gia phòng ngừa tình hình tội
phạm này một cách thường xuyên và có hệ thống, gồm các cơ quan Nhà nước, các
tổ chức xã hội, các tập thể và công dân. Mỗi chủ thể có các nhiệm vụ, quyền hạn và
nghĩa vụ nhất định trong hoạt động phòng ngừa tình hinh tội phạm trộm căp tài sản,
cụ thể các chủ thể sau:
1.3.1. Đảng cộng sản Việt Nam
Quy định tại Khoản 1 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 thể hiện: “Đảng cộng sản

19


×