Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố hải dương. Thực tiễn áp dụng LHS và các biện pháp đấu tranh phòng chống loại tội phạm này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.82 KB, 24 trang )

Phần 1
Giới thiệu chuyên đề
Ngày nay, cùng với quá trình mở cửa thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng là sự phát triển của nền khoa học kỹ thuật, văn hoá xã hội...
đã kéo theo mặt trái của cơ chế thị trường và sự gia tăng của các loại tội phạm.
Những năm gần đây nước ta đã diễn ra nhiều hoạt động quan trọng như trở
thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, là nước duy nhất trong khu
vực Châu á trở thành Uỷ viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên
Hợp Quốc… góp phần vào việc duy trì hoà bình và an ninh Thế giới, ngày càng
khẳng định vị thế nước ta trên trường Quốc Tế, tình hình an ninh chính trị đất
nước, trật tự an toàn xã hội khá ổn định, song căn cứ vào các số liệu thống kê
thu thập được, chúng ta thấy tình hình về tội phạm vẫn có những diễn biến phức
tạp và có chiều hướng gia tăng, một đặc điểm chung là hành vi phạm tội ngày
càng tinh vi, xảo quyệt hơn, cách thức thực hiện thể hiện sự táo bạo liều lĩnh,
những hành vi này đã ảnh hưởng tới trật tự trị an và tâm lý hoang mang cho
người dân trên địa bàn, xâm phạm trực tiếp tới các quan hệ xã hội được Nhà
nước và pháp luật bảo vệ, cần phải được xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự
nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội cũng như
tạo lòng tin cho nhân dân. Trong các loại tội phạm được quy định trong Bộ luật
hình sự của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thì “Trộm cắp tài sản”
là một loại tội phạm điển hình có thể xảy ra ở mọi lúc, mọi nơi và ở mọi lứa
tuổi, xâm hại đến quyền sở hữu của người khác về tài sản. Vì vậy, với tư cách là
một sinh viên thực tập tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương( TP.
Hải Dương), được tiếp cận với các vụ án về trộm cắp tài sản, em đã chọn chuyên
đề: “Tình hình trộm cắp tài sản tại địa phương , thực tiễn áp dụng LHS và các
biện pháp đấu tranh phòng chống”, vì theo em đây là chuyên đề hay, đang được
dư luận đặc biệt quan tâm và rất sát với thực tế tại địa phương em thực tập.
Chuyên đề gồm 4 phần: Trong đó nêu rõ quá trình tìm hiểu, thu thập
thông tin, thời gian, phương pháp thu thập, nguồn thu thập và kết quả xử lý
thông tin. Trong bài em có đưa ra một số vụ án cụ thể làm dẫn chứng, từ đó
phân tích các đặc điểm, bản chất, nguyên nhân của loại tội phạm này, thực tiễn


áp dụng LHS để giải quyết, từ đó đưa ra những nhận xét, kiến nghị về các biện
pháp đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.
Do thời gian thực tập không dài ( khoảng hơn 3 tháng) , kiến thức còn
hạn chế, việc thu thập, tiếp cận các tài liệu còn ở những giới hạn nhất định, vì
vậy không tránh khỏi những hạn chế trong bài viết, em rất mong nhận được sự
đóng góp, chỉ bảo của các thầy, cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
Phần 2
Quá trình tìm hiểu, thu thập thông tin.
I. Khái quát chung.
Như chúng ta đã biết, sở hữu là một quyền thiêng liêng và bất khả xâm
phạm được Nhà nước bảo vệ và được quy định bảo hộ trong Hiến Pháp và các
văn bản Quy phạm pháp luật như : Bộ luật dân sự, Luật Đầu Tư nước ngoài tại
Việt Nam...đó là toàn bộ các quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu
của mình cũng như các quyền của người khác không phải là chủ sở hữu đối với
chính tài sản đó. Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
thuộc sở hữu của mình. Khi chiếm hữu, sử dụng, định đoạt chủ sở hữu được tự
mình thực hiện các hành vi theo ý chí ( Điều 175 BLDS), ba quyền năng này tạo
thành một thể thống nhất trong nội dung quyền sở hữu, tuy mỗi quyền này mang
một ý nghĩa khác nhau, nhưng chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Còn
đối với những người được chủ sở hữu giao cho quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt mà không kèm theo việc chuyển quyền sở hữu thì việc thực hiện các quyền
đó chỉ được thực thi trong phạm vi nhất định và trong thời gian mà chủ sở hữu
cho phép. Các hành vi xâm phạm quan hệ sở hữu có nghĩa là xâm phạm đến các
quan hệ pháp luật về chế độ sở hữu được pháp luật bảo vệ. Trộm cắp tài sản là
một tội phạm được quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự của nước Cộng Hoà
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, loại tội phạm này xâm hại tới quyền sở hữu tài
sản hợp pháp của công dân, tổ chức khác, mọi hành vi xâm phạm tới quyền sở
hữu tài sản của công dân, tổ chức nếu không được pháp luật cho phép đều là vi
phạm pháp luật cần được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh.

Thành phố Hải Dương nằm ở trung tâm của tỉnh Hải Dương với 2 xã,
11 phường, là một thành phố thuộc tỉnh khá phát triển và sầm uất ở khu vực
miền Bắc, giáp danh với Hưng Yên, Hải Phòng, Thái Bình, có trục đường quốc
lộ 5 chạy qua. Những năm gần đây, TP.Hải Dương cùng với cả nước đang trên
đà phát triển, tình hình xã hội có nhiều biến chuyển: Kinh tế phát triển, đời sống
nhân dân cũng được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần, nhiều khu công
nghiệp và các nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất như: Khu công nghiệp Đại An,
khu công nghiệp Cẩm Thượng, Công ty Ford, nhà máy Sứ... đã tạo ra công ăn
việc làm cho hàng nghìn lao động tại địa phương. Tuy nhiên vẫn còn không ít
người lười lao động, không chịu làm ăn, nghiện hút, thích hưởng thụ, sống
buông thả...để thoả mãn nhu cầu cá nhân không chính đáng đã dấn thân vào con
đường phạm tội, lợi dụng sơ hở của người dân đối với việc quản lý, bảo vệ tài
sản để thực hiện hành vi trộm cắp, nổi lên trong thời gian gần đây trên địa bàn
Thành phố là hiện tượng trộm cắp xe máy. Đối tượng đã có sự chủ động trong
việc thực hiện hành vi phạm tội của mình, mức độ thực hiện thể hiện sự táo bạo
liều lĩnh, có ý thức che giấu hành vi phạm tội gây khó khăn cho các cơ quan bảo
vệ pháp luật. Tuy vậy, bằng sự cố gắng và trách nhiệm của bản thân những
người đại diện cho các cơ quan Nhà nước trong việc bảo vệ pháp luật nên hầu
hết các vụ trộm cắp tài sản đều được phát hiện và xử lý kịp thời.
II. Thời gian thu thập và phương pháp thu thập.
1. Thời gian thu thập.
Để hoàn thành khoá học, trường Đại học Luật Hà Nội có tổ chức cho
những sinh viên không viết khoá luận tham gia đợt thực tập cuối khóa giúp sinh
viên có những kiến thức thực tế cơ bản chuẩn bị cho việc ra trường và để sinh
viên chọn một chuyên đề nghiên cứu viết bài. Được sự phân công của Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Hải Dương em đã được về Viện kiểm sát nhân dân TP. Hải
Dương thực tập. Ngay từ những ngày đầu về thực tập, được sự hướng dẫn, chỉ
bảo và tạo điều kiện của các cán bộ Viện kiểm sát nhân dân TP, em đã tìm hiểu ,
thu thập các số liệu, thông tin về tội trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn TP
thông qua các báo cáo tổng kết, sổ theo dõi các bản án, quyết định, sổ thống kê

kiểm sát điều tra án hình sự và sổ thống kê thực hành quyền công tố và xét xử
các vụ án hình sự của các năm trước nên đã thu được những kết quả nhất định
phục vụ cho việc viết bài về chuyên đề: “Tình hình trộm cắp tài sản tại địa
phương, thực tiễn áp dụng LHS và các biện pháp đấu tranh phòng chống” mà
em đã chọn. Hầu hết trong thời gian thực tập là đọc, nghiên cứu, trích lục hồ sơ
các vụ án về trộm cắp tài sản, thời gian còn lại được các anh, chị trực tiếp hướng
dẫn cho đi tham dự các phiên toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, xuống các
địa bàn nơi xảy ra vụ án khám nghiệm hiện trường, xuống các xã, phường xác
minh, sang trại Tạm giam tống đạt Cáo trạng, sang Thi hành án... Vì vậy giúp
em có thêm các thông tin về tình hình tội phạm nói chung cũng như tội trộm cắp
tài sản nói riêng để em có thể hoàn thành chuyên đề của mình. Tuy nhiên, thời
gian thực tập không dài nên quá trình thu thập tài liệu còn những hạn chế nhất
định.
2. Phương pháp thu thập.
Việc ghi chép, thống kê, tổng kết đầy đủ để dễ quản lý, theo dõi các vụ
án, bị can, bị cáo qua mỗi quý, mỗi năm là việc làm cần thiết của các cơ quan
bảo vệ pháp luật, từ đó mới có thể rút ra những nhận xét, đánh giá và phương
hướng khắc phục, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan rất quan trọng tham gia
vào hầu hết tất cả các hoạt động tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến
thi hành án nên đó lại là một việc làm không thể thiếu trong việc quản lý, theo
dõi, cũng như thực hiện nhiệm vụ, chức năng kiểm sát việc thi hành đúng pháp
luật của mình, nên từ năm 2004 đến 2007 số vụ trộm cắp tài sản cũng đã được
ghi chép, thống kê lại một cách đầy đủ tại các sổ thống kê công tác của ngành.
Tính chất, mức độ, hậu quả của các vụ án về trộm cắp tài sản đã được thể hiện
rõ trong các Bản án đã tuyên mà Viện kiểm sát đã quản lý. Như vậy việc có
được các số liệu, thông tin để phục vụ cho bài viết này chủ yếu thông qua hai
phương pháp chính là phương pháp thống kê và phương pháp tổng hợp.
III. Nguồn thu thập tài liệu và các thông tin thu thập được.
1. Nguồn thu thập tài liệu.
Nguồn thu thập tài liệu là các văn bản pháp luật, các tài liệu, Bản

án… có liên quan đến tội trộm cắp tài sản.
1.1.Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam.
1.2. Bản thống kê những người mới khởi tố, thống kê kiểm sát điều tra án hình
sự, thống kê công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình
sự từ năm 2004 đến năm 2007.
1.3.Sổ theo dõi các bản án, quyết định.
1.4.Báo cáo tổng kết kiểm sát các năm.
1.5. Cáo trạng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân TP.Hải Dương số 115
ngày 30/7/2004, số 30 ngày 25/1/06, số 06 ngày 19/12/2007.
Bản án số 128 ngày 6/9/2004, thụ lý số 110 ngày 31/7/2004, số 32 ngày
26/2/2006, thụ lý số 78 ngày 25/1/2006, số 26 ngày 13/2/2008, thụ lý số 229
ngày 19/12/2007 của Toà án nhân dân TP.Hải Dương.
2. Các thông tin thu thập được.
Qua các nguồn thu thập tài liệu từ năm 2004 đến 2007 của Viện kiểm
sát nhân dân TP.Hải Dương về tội trộm cắp tài sản cho thấy:
+ Năm 2004 Viện kiểm sát nhân dân TP. Hải Dương đã quản lý kiểm sát
việc khởi tố 91 vụ với 103 bị can( trong đó có 6 bị can chưa thành niên) , kiểm
sát điều tra 87 vụ = 97 bị can( có 6 bị can chưa thành niên), bắt tạm giam có phê
chuẩn trước của Viện kiểm sát 15 bị can, kết thúc điều tra Cơ quan Điều tra đề
nghị truy tố 61 vụ = 83 bị can (có 6 bị can chưa thành niên), đình chỉ 2vụ = 2 bị
can, tạm đình chỉ 13 vụ, Viện kiểm sát đã truy tố 61 vụ = 83 bị can, Toà đã xét
xử 61 vụ = 83 bị cáo ( có 6 bị cáo chưa thành niên).
+ Năm 2005 Viện kiểm sát nhân dân TP. Hải Dương đã quản lý kiểm
sát việc khởi tố 102 vụ = 124 bị can, kiểm sát điều tra 95 vụ = 117 bị can ( trong
đó có 13 bị can chưa thành niên), bắt tạm giam có phê chuẩn trước của Viện
kiểm sát 75 bị can, kết thúc điều tra Cơ quan Điều tra đề nghị truy tố 61 vụ = 96
bị can (có 12 bị can chưa thành niên), không có vụ nào đình chỉ, tạm đình chỉ 14
vụ, Viện kiểm sát đã truy tố 60 vụ=95 bị can, Toà đã xét xử 52 vụ =87 bị cáo
( có 7 bị cáo chưa thành niên).

+ Năm 2006 Viện kiểm sát nhân dân TP. Hải Dương đã quản lý kiểm
sát việc khởi tố 106 vụ = 117 bị can, kiểm sát điều tra 98 vụ = 109 bị can (trong
đó có 8 bị can chưa thành niên), bắt tạm giam có phê chuẩn trước của Viện kiểm
sát 71 bị can, kết thúc điều tra Cơ quan Điều tra đề nghị truy tố 68 vụ = 99 bị
can (có 8 chưa thành niên), không có vụ nào đình chỉ, tạm đình chỉ 22 vụ, Viện
kiểm sát đã truy tố 66 vụ=95 bị can(8 chưa thành niên), Toà đã xét xử 66 vụ =
95 bị cáo ( có 8 bị cáo chưa thành niên).
+ Năm 2007 Viện kiểm sát nhân dân TP. Hải Dương đã quản lý kiểm
sát việc khởi tố 99 vụ = 115 bị can, kiểm sát điều tra 83 vụ =103 bị can ( trong
đó có 9 bị can chưa thành niên), bắt tạm giam có phê chuẩn trước của Viện kiểm
sát 73 bị can, kết thúc điều tra Cơ quan Điều tra đề nghị truy tố 58 vụ = 88 bị
can (có 7 bị can chưa thành niên), không có vụ nào đình chỉ, tạm đình chỉ 17 vụ,
Viện kiểm sát đã truy tố 54 vụ=82 bị can (7 bị can chưa thành niên), Toà đã xét
xử 47 vụ =74 bị cáo (7 bị cáo chưa thành niên).
Dưới đây là trích dẫn một vài vụ án điển hình và thực tiễn áp dụng Luật
hình sự để giải quyết.
- Vụ án thứ nhất: Do người chưa thành niên thực hiện:
Trích Cáo trạng số 115 ngày 30/7/2004 của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân TP. Hải Dương. Trên cơ sở kết quả điều tra xác định được như sau:
+ Vụ thứ nhất: Khoảng 24h ngày 30/3/2004 Đinh Hồng Quân, sinh ngày
2/11/1987, trú tại số 5/147 Quang Trung, P. Bình Hàn, TP. Hải Dương đi bộ một
mình lang thang ở phố Quang Trung với mục đích xem ai có tài sản sơ hở thì
trộm cắp. Khi đến số nhà 110 Quang Trung của gia đình ông Nguyễn Đức
Hưng, Quân đi vào phía sau nhà thấy cổng không khoá, quan sát thấy có 01
chiếc xe đạp cào cào liên doanh của chị Trần Như Quỳnh, sinh năm 1986, trị giá
500.000đ và 01 xe đạp mini liên doanh của chị Nguyễn Thị Biển, sinh năm
1987, trị giá 300.000đ cả hai chị đều là học sinh của trường chuyên Nguyễn
Trãi, TP. Hải Dương, hai chiếc xe dựng ở trong bếp không khoá. Quân tìm bên
ngoài ngõ được 01 thanh sắt Φ 6, Quân mở cổng đi vào dùng thanh sắt cậy khoá
cửa bếp vào dắt 02 chiếc xe đạp ra đường, Quân đi một xe và dùng tay dắt theo

chiếc còn lại. Sáng hôm sau, Quân mang 02 chiếc xe này đến nhà Nghiêm Công
Khi, sinh năm 1955 ở khu 4 P. Bình Hàn, TP. Hải Dương bán với giá 350.000đ
hai chiếc, sau đó Quân lấy tiền ăn tiêu hết.
+ Vụ thứ hai: Khoảng 22h ngày 7/6/2004 Quân đi bộ ra khu vực ga Hải
Dương thì gặp bạn là Nguyễn Công Thành, sinh ngày 31/10/1990, trú tại 72
Nguyễn Đức Cảnh, P. Nguyễn Trãi, TP. Hải Dương, Quân rủ Thành đi lang
thang xem có ai có tài sản sơ hở thì trộm cắp, Thành đồng ý. Đến 1h ngày
8/6/2004 cả hai đi đến nhà ông Đào Xuân Hải, sinh năm 1954 ở 8/9/42 Nguyễn
Thị Duệ, P. Thanh Bình, TP. Hải Dương, phát hiện trong sân nhà ông Hải dựng
02 chiếc xe máy, 02 chiếc xe đạp, cổng khoá. Quân và Thành liền trèo tường
vào quan sát thấy có chìa khoá để ở cửa sổ, mọi người trong nhà ngủ. Quân,
Thành dùng chìa khoá mở được cổng, Quân đi chiếc xe mini liên doanh màu đỏ
trị giá 450.000đ, Thành đi chiếc xe cào cào liên doanh màu xanh trị giá
250.000đ ra khỏi sân nhà ông Hải và cùng nhau đi đánh điện tử ở phố Đội Cấn.
Do không có tiền nên Quân và Thành đã mang 02 chiếc xe trên đến nhà Dương
Thị Tuyến, sinh năm 1960, ở 22C Đội Cấn, P. Trần Phú, TP. Hải Dương bán với
giá 380.000đ.
Tại Cơ quan điều tra Đinh Hồng Quân và Nguyễn Công Thành đã khai
nhận hành vi phạm tội của mình ( BLS: 55-59), phù hợp với lời khai bị hại, nhân
chứng(BLS: 34-54), sơ đồ hiện trường(BLS: 33).
Đinh Hồng Quân đã bị Viện kiểm sát nhân dân TP. Hải Dương Truy tố ra
trước Toà án nhân dân TP. Hải Dương để xét xử về tội: Trộm cắp tài sản theo
Điều 138 khoản 1 BLHS. Khi phạm tội Quân chưa đủ 18 tuổi.
Đối với Nguyễn Công Thành đã tham gia trộm cắp tài sản cùng Quân ngày
8/6/2004, nhưng chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, Công an TP. Hải Dương
đã thông báo về gia đình và chính quyền địa phương nơi Thành cư trú biết để
quản lý, giáo dục.
Ngày 6/9/2004, tại trụ sở Toà án nhân dân TP. Hải Dương xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự thụ lý 110 ngày 31/7/2004 đối với Đinh Hồng Quân. Tại phiên toà
Đinh Hồng Quân đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Hải Dương thực hành quyền công tố giữ
nguyên quyết định như truy tố, đồng thời có đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 138,
điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g, n khoản 1 Điều 48, Điều 69 BLHS, xử phạt bị
cáo Đinh Hồng Quân từ 09 đến 12 tháng tù. Đinh Hồng Quân đã bị Toà án nhân
dân TP. Hải Dương xử 09 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản, áp dụng khoản 1
Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g, n khoản 1 Điều 48, Điều 69
BLHS( Bản án số 128 ngày 6/9/2004). Thời hạn kể từ ngày bắt thi hành án.
- Vụ án thứ hai:
Theo Cáo trạng số 30 ngày 25/1/2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân TP. Hải Dương, trên cơ sở kết quả điều tra xác định được như sau:
Khoảng 19h ngày 9/11/2005, Phạm Xuân Châm, sinh năm 1981, trú tại
khu 10, P. Thanh Bình, TP. Hải Dương đang ở nhà một mình thì có anh Trịnh
Xuân Hoàng, sinh năm 1982, trú tại 117 Nguyễn Chế Nghĩa, P. Thanh Bình, TP.
Hải Dương là bạn đến rủ đến nhà bạn anh Hoàng ăn sinh nhật. Sau khi ăn xong
đến khoảng 20h cùng ngày, anh Hoàng rủ Châm đến nhà hàng 77 Cầu Cất để lấy
tiền hàng. Cả hai đi bằng xe máy NOVO (xe chưa đăng ký) của anh Hoàng. Đến
nơi, Châm đứng ngoài chờ còn anh Hoàng vào thanh toán và cầm số tiền là
46.000.000đ đi ra để vào cốp xe máy, rồi cả hai đi đến quán cafe số 24 Đại lộ
Hồ Chí Minh và để xe ở vỉa hè của quán rồi vào uống nước đến khoảng 22h thì
xong. Khi về Châm xuống trước lấy xe, còn Hoàng ở lại thanh toán tiền và
xuống sau. Khi Châm dắt xe của anh Hoàng xuống dưới đường thì phát hiện
thấy cốp xe máy không khoá , thấy sơ hở Châm mở yên xe và lấy số tiền
46.000.000 đ cất vào túi áo khoác và đứng chờ Hoàng. Khi Hoàng ra kiểm tra
thì phát hiện mất số tiền đó đã gọi mọi người cùng đi uống nước quay lại quán
để hỏi, lúc này Châm nói với mọi người phải về xin phép vợ, mục đích là để gửi
số tiền vừa trộm cắp được. Sau đó Châm mang đến nhà anh rể là anh Phùng Văn
Trọng, sinh năm 1971, ở Trần Hưng Đạo, P. Ngọc Châu, TP. Hải Dương và gửi
số tiền trên rồi quay lại quán.
Tại cơ quan điều tra Phạm Xuân Châm đã khai nhận hành vi phạm

×