Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Tổ Chức Cơ Quan Điều Tra Của Công An Nhân Dân Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (733 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

MAI THỊ HỒNG

TỔ CHỨC CƠ QUAN ĐIỀU TRA CỦA
CÔNG AN NHÂN DÂN THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TIẾN SỸ NGUYỄN NGỌC HÀ

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
dẫn chứng thực tiễn trong luận văn là hoàn toàn khách quan, trung thực, có
nguồn trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu luận văn không có sự trùng lặp với
bất kì công trình nghiên cứu khoa học nào đã được nghiệm thu, công bố./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Mai Thị Hồng


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức Cơ quan điều tra của
Công an nhân dân
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tổ chức Cơ quan điều tra của
Công an nhân dân
1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn và nguyên tắc tổ chức Cơ quan điều tra của
Công an nhân dân
1.3. Cơ sở chính trị, pháp lý về kiện toàn tổ chức Cơ quan điều tra
của Công an nhân dân
Chương 2: Thực trạng tổ chức cơ quan điều tra của Công an nhân
dân theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
2.1. Tổ chức cơ quan điều tra của Công an nhân dân trước năm 2015
2.2. Tổ chức cơ quan điều tra của Công an nhân dân theo pháp luật tố
tụng hình sự hiện hành
Chương 3: Dự báo và giải pháp kiện toàn tổ chức cơ quan điều tra
của Công an nhân dân trong thời gian tới
3.1. Dự báo yếu tố tác động đến tổ chức Cơ quan điều tra của Công
an nhân dân trong thời gian tới
3.2. Giải pháp kiện toàn tổ chức Cơ quan điều tra của Công an nhân
trong thời gian tới

1
7

7

15

22


26
26
32

57

57

62

KẾT LUẬN

69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

71

PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ANQG:

An ninh quốc gia

ANĐT:

An ninh điều tra


BLHS:

Bộ luật Hình sự

CAND:

Công an nhân dân

CQĐT:

Cơ quan điều tra

CSĐT:

Cảnh sát điều tra

ĐTV:

Điều tra viên

TTHS:

Tố tụng hình sự

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

VKS:


Viện kiểm sát


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong mô hình TTHS Việt Nam hiện nay, Cơ quan điều tra (CQĐT)
của Công an nhân dân (CAND) là một trong số các cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự (TTHS), được áp dụng các biện pháp do Bộ luật TTHS quy định, tiến
hành điều tra tất cả các tội phạm xảy ra theo thẩm quyền để xác định sự thật
vụ án, tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội, xác định và lập hồ sơ, đề nghị
truy tố người thực hiện tội phạm, yêu cầu cơ quan, tổ chức liên quan áp dụng
các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Kết quả hoạt động điều tra của CQĐT
của CAND là cơ sở để truy tố, xét xử vụ án hình sự, có ý nghĩa quyết định
đến tiến trình TTHS, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Thời gian qua, Đảng, Nhà nước và Bộ Công an đã quan tâm công tác
xây dựng tổ chức bộ máy CQĐT của CAND đảm bảo hoạt động hiệu lực,
hiệu quả. Thực hiện Luật Tổ chức CQĐT hình sự năm 2015, tổ chức CQĐT
đã theo hướng tập trung, thống nhất, chuyên sâu, chuyên trách trong CAND
đối với các loại tội phạm cụ thể; tạo cơ chế huy động được đầu đủ và nhanh
nhất lực lượng, phương tiện khi có yêu cầu điều tra vụ án. Đồng thời, mô hình
tổ chức CQĐT hiện nay đã huy động được nhiều lực lượng tham gia vào hoạt
động điều tra, CQĐT của CAND đã nhận được sự hỗ trợ kịp thời từ phía
VKS, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Kiểm
ngư và một số cơ quan khác trong CAND, Quân đội nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Thực hiện kiện toàn Tổ chức CQĐT của CAND theo mô hình Bộ luật
TTHS 2015 và Luật Tổ chức CQĐT hình sự năm 2015, tổ chức CQĐT bước
đầu đã có sự phân công, phân cấp, phân quyền điều tra tương đối rõ ràng. Tuy

nhiên, so với yêu cầu cải cách tư pháp và diễn biến ngày càng phức tạp khó
1


lường của tình hình tội phạm thì những đổi mới về tổ chức của CQĐT mới chỉ
là bước đầu, quá trình triển khai còn những bất cập, khó khăn: các CQĐT của
CAND đã tập trung thực hiện nhiệm vụ “điều tra hình sự” nhưng chưa chú
trọng nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm; công tác phối hợp với các lực lượng
CAND và lực lượng khác chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; việc thực hiện thẩm
quyền quản lý của Thủ trưởng CQĐT có lúc, có nơi còn gặp khó khăn; còn
chồng chéo giữa chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng lãnh
đạo, chỉ đạo hoạt động TTHS hoặc “thoát ly” vai trò quản lý, điều hành của
Thủ trưởng CQĐT dẫn đến giảm sút năng lực hoạt động điều tra các CQĐT
của CAND. Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục nghiên cứu, đổi mới tổ chức, hoạt
động của CQĐT của CAND đã và đang là đòi hỏi mang tính khách quan.
Trên phương diện lý luận, vấn đề nghiên cứu về tổ chức CQĐT nói
chung và tổ chức CQĐT của CAND nói riêng có ý nghĩa quan trọng. Hiện
nay, Đảng, Nhà nước ta đang đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 48/-NQ/TW,
ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”; Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 và Kết luận số 92-KL/TW ngày 12 tháng 3 năm 2014
của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW và Bộ Công
an triển khai thực Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 15/3/2018 về tiếp tục đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả; triển khai thực hiện luật Tổ chức CQĐT hình sự năm 2015. Cùng với đó,
Bộ Công an đã xây dựng, đề xuất Chính phủ ban hành Nghị định số
01/2018/NĐ-CP ngày 06/8/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Bộ Công an. Do đó, kết quả nghiên cứu nội dung này
chính là những cơ sở lý luận, là các chỉ dẫn khoa học, để thực hiện tốt các

Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, các Bộ luật, Luật, Nghị định của chính phủ có
2


nội dung liên quan công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và chiến
lược cải cách tư pháp.
Với những lý do trên, học viên đã lựa chọn đề tài: “Tổ chức Cơ quan
điều tra trong Công an nhân dân theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt
Nam” để làm Luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về CQĐT của CAND đã có một số công trình khoa học đã
được công bố, đơn cử như:
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Tổ chức, hoạt động điều tra của cơ quan
CSĐT cấp huyện theo pháp lệnh tổ chức CQĐT hình sự năm 2004” của
GS.TS Nguyễn Văn Cảnh – T32 (2007);
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Cải cách tư pháp – Những vấn đề đặt ra đối
với CQĐT trong CAND” của PGS.TS Phùng Thế Vắc – T31 (2009);
- Đề tài khoa học cấp cơ sở “Thẩm quyền của cơ quan an ninh điều tra –
Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Th.S Nguyễn Kim Long – T31 (2017).
- Luận án tiến sĩ “Mối quan hệ tố tụng giữa cơ quan CSĐT và VKSND
trong TTHS hiện nay, Th.S Đào Anh Tới (2018).
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này đã tương
đối lâu, chưa có đề tài, công trình nào nghiên cứu toàn diện về tổ chức CQĐT
trong lực lượng CAND đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Như vậy, việc tổ chức nghiên cứu đề tài “Tổ chức Cơ quan điều tra
trong Công an nhân dân theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam” là cần
thiết trong tình hình thực tế, góp phần đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân, từ đó đưa ra một số giải pháp kiện toàn mô hình tổ chức CQĐT nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động trong thời gian tới.


3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về tổ chức CQĐT của CAND.
- Đề xuất các giải pháp góp phần kiện toàn mô hình tổ chức CQĐT của
CAND trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề cơ bản về tổ chức CQĐT của CAND hiện nay:
khái niệm, vai trò CQĐT, nguyên tắc tổ chức điều tra hình sự, thẩm quyền
CQĐT, chức năng, nhiệm vụ CQĐT; cơ sở chính trị, pháp lý của việc kiện
toàn tổ chức CQĐT trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
- Đánh giá thực trạng tổ chức CQĐT của CAND theo pháp luật TTHS
trước năm 2015 và tình hình tổ chức CQĐT của CAND hiện nay; chỉ ra
những bất cập, vướng mắc và nguyên nhân.
- Dự báo các yếu tố tác động đến tổ chức CQĐT của CAND trong thời
gian tới và đề xuất các giải pháp góp phần kiện toàn tổ chức CQĐT của
CAND hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức CQĐT của
CAND và thực tiễn tổ chức CQĐT của CAND hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu về tổ chức CQĐT của
CAND theo quy định của pháp luật TTHS .
- Phạm vi về chủ thể: CQĐT của CAND.
- Phạm vi địa bàn: toàn quốc.

4



- Phạm vi thời gian: từ năm 2004 đến năm 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử và
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Bộ Công an về xây dựng
lực lượng CAND; các luận điểm chung của khoa học pháp lý tố tụng hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau đây:
+ Phương pháp thống kê, so sánh: được sử dụng khi nghiên cứu và đưa
ra các đánh giá về tổ chức CQĐT của CAND các thời kỳ.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng khi tiến hành thu
thập, phân loại xử lý tài liệu, số liệu từ các CQĐT của CAND... nhằm làm rõ
thực trạng tổ chức CQĐT để đánh giá khách quan những kết quả đạt được
cũng như những tồn tại, hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới.
+ Phương pháp khảo sát thực tiễn: được tiến hành khi nghiên cứu thực tiễn
tổ chức, hoạt động của CQĐT của CAND để đưa ra những nhận định, đánh giá
chính xác về ưu điểm, hạn chế, tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục.
+ Phương pháp chuyên gia: thực hiện khi hoàn thiện dự thảo các phần
cũng như bản thảo của luận văn trước khi đưa ra nghiệm thu. Trên cơ sở đóng
góp ý kiến của các nhà nghiên cứu, chuyên gia đề tài được chỉnh sửa, bổ sung
và tiếp tục hoàn thiện về chất lượng khoa học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Làm rõ thêm cơ sở khoa học và thực tiễn để các cấp có thẩm quyền
nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn xây dựng mô hình tổ chức bộ máy CQĐT
các cấp, góp phần nâng cao hiệu quả của tổ chức bộ máy Bộ Công an, đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự trong tình hình mới. Luận văn

5


không chỉ phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu mà còn trực tiếp phục vụ
công tác xây dựng bộ máy Bộ Công an; luận văn cũng có thể dùng làm tài
liệu tham khảo trong việc bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ
của các cơ quan tiến hành tố tụng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề
tài được cấu trúc làm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức Cơ quan điều tra của Công
an nhân dân.
Chương 2: Thực trạng tổ chức Cơ quan điều tra của Công an nhân dân
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 3: Dự báo và giải pháp kiện toàn tổ chức Cơ quan điều tra của
Công an nhân dân thời gian tới

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
TỔ CHỨC CƠ QUAN ĐIỀU TRA CỦA CÔNG AN NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tổ chức Cơ quan điều tra của
Công an nhân dân
1.1.1. Khái niệm về tổ chức Cơ quan điều tra của Công an nhân dân
Tổ chức là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu các tài liệu, các nghiên cứu cho thấy hiện nay chưa
có khái niệm thống nhất về tổ chức mà trong mỗi phạm vi nghiên cứu, tổ chức
được hiểu theo những cách khác nhau.

Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, tổ chức là hình thức tập hợp, liên kết
các thành viên trong xã hội (cá nhân, tập thể) nhằm đáp ứng yêu cầu, nguyện
vọng, lợi ích của các thành viên, cùng nhau hành động vì mục tiêu chung.
Tổ chức cũng thường được hiểu là tập hợp của nhiều người cùng làm
việc vì những mục đích chung trong hình thái cơ cấu ổn định. Đó có thể là
một cơ quan nhà nước, một đơn vị quân đội, công an, một bệnh viện hay một
trường học…
Cũng có cách hiểu khác về tổ chức như là một hệ thống gồm nhiều
người cùng hoạt động vì mục đích chung (nếu là danh từ); hay là quá trình
triển khai các kế hoạch (động từ theo nghĩa rộng)
Tuy nhiên, tổ chức cần được hiểu ở những góc nhìn nhất định, xem xét
nó một cách độc lập hay trong mối quan hệ với các phạm trù khác để đưa ra
những cách nhìn, cách tiếp cận cho phù hợp.
Thuật ngữ tổ chức CQĐT của CAND được sử dụng thường xuyên
trong các văn bản của Đảng, Nhà nước cũng như của ngành Công an. Tuy
vậy, đến thời điểm này, chưa có một công trình khoa học, bài viết trên báo,
tạp chí, cũng như chưa có một văn bản nào của Đảng, Nhà nước và của ngành
Công an đề cập và đưa ra khái niệm thống nhất về tổ chức CQĐT của CAND.
7


Nghiên cứu về tổ chức CQĐT của CAND, có thể nghiên cứu dưới
nhiều cách tiếp cận khác nhau: nghiên cứu tổ chức CQĐT với tư cách là cơ
quan trong bộ máy Nhà nước, nghiên cứu tổ chức CQĐT với tư cách là cơ
quan tiến hành tố tụng; nghiên cứu tổ chức CQĐT với tư cách là một lực
lượng nghiệp vụ trong lực lượng CAND… Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên
cứu của luận văn là nghiên cứu tổ chức CQĐT của CAND với tư cách là một
cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện giai đoạn khởi tố, điều tra theo pháp luật
TTHS, có thể tiếp cận khái niệm tổ chức CQĐT của CAND dựa trên những
nội dung sau:

Thứ nhất, tổ chức CQĐT của CAND nằm trong hệ thống các cơ quan
tiến hành tố tụng [33, tr.79] thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được quy định
trong BLTTHS và Luật Tổ chức điều tra hình sự. Do đó, CQĐT của CAND
trong phạm vi, thẩm quyền của mình thực hiện những biện pháp theo quy
định của pháp luật để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và những vấn
đề cần phải chứng minh khác trong một vụ án hình sự.
Thứ hai, tổ chức CQĐT của CAND nằm trong hệ thống tổ chức của
cơ quan CAND, gồm có cơ quan ANĐT và cơ quan CSĐT [34, tr.79]. Theo
đó, thực hiện Nghị định số 01/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ của Bộ Công an, khối An
ninh được tổ chức thành 10 đơn vị cấp Cục trực thuộc Bộ trong đó có Cục
ANĐT; khối Cảnh sát được tổ chức lại thành 12 cục trong đó có 04 Cục
CSĐT: Văn phòng cơ quan CSĐT, Cục CSĐT tội phạm về trật tự xã hội,
Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu, Cục CSĐT tội phạm
về ma túy. Tổ chức CQĐT Công an tỉnh bao gồm các phòng điều tra trực
thuộc Công an tỉnh; tổ chức CQĐT Công an huyện bao gồm các đội điều
tra trực thuộc Công an huyện.
Thứ ba, pháp luật TTHS phân cấp thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn theo từng cấp tổ chức: CQĐT cấp huyện điều tra vụ án hình sự về
8


những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện;
CQĐT cấp tỉnh điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều
tra của CQĐT cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phạm tội có
tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra; CQĐT
Bộ Công an điều tra vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại; vụ án hình sự về

tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức
tạp liên quan đến nhiều quốc gia nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Từ những phân tích như trên có thể hiểu: Tổ chức CQĐT của CAND là
một hệ thống các đơn vị trực thuộc Bộ Công an, vừa là một bộ phận cấu thành
của bộ máy tư pháp thực hiện chức năng, nhiệm vụ điều tra tội phạm theo thẩm
quyền quy định trong pháp luật TTHS Việt Nam.
Như vậy, tổ chức CQĐT của CAND là bộ phận cấu thành bộ máy tư
pháp Việt Nam, nhưng được tổ chức trong hệ thống các đơn vị trực thuộc Bộ
Công an, đây là một trong những điểm đặc thù của tổ chức CQĐT của CAND.
Tổ chức CQĐT của CAND bao gồm cơ quan ANĐT và cơ quan CSĐT, thực
hiện chức năng, nhiệm vụ điều tra tội phạm theo thẩm quyền quy định trong
pháp luật TTHS Việt Nam.
1.1.2. Đặc điểm tổ chức Cơ quan điều tra của Công an nhân dân
Với tư cách là một cơ quan tư pháp, hoạt động theo pháp luật TTHS, tổ
chức CQĐT của CAND có những đặc điểm sau đây:
- Tổ chức CQĐT của CAND là một bộ phận cấu thành bộ máy tư pháp
Việt Nam.

9


Cơ quan điều tra của CAND ngoài những những nhiệm vụ riêng được
quy định trong Bộ luật TTHS và Luật tổ chức CQĐT hình sự, còn tham gia
thực hiện nhiệm vụ chung của cả hệ thống tư pháp đó là “bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự,
an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa;
cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế” (Điều 65
Hiến pháp 2013). Việc thực hiện chức năng điều tra tội phạm theo thẩm
quyền của CQĐT là hoạt động quan trọng không thể thiếu trong TTHS, tạo

tiền đề cho các giai đoạn TTHS tiếp theo: cơ sở cho VKS ra quyết định truy
tố vụ án và bị can trước Tòa án, cũng như quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đây
là khâu đột phá, giữ vai trò thành bại đối với cả tiến trình TTHS; những kết
quả đạt được cũng như những sai lầm tố tụng nghiêm trọng như bỏ lọt tội
phạm, làm oan người vô tội…, thường bắt nguồn từ giai đoạn điều tra..
- Tổ chức CQĐT của CAND nằm trong hệ thống tổ chức của lực lượng
CAND
Công an nhân dân gồm có 02 lực lượng chính: An ninh nhân dân, Cảnh
sát nhân dân, trong đó Cơ quan ANĐT trực thuộc lực lượng An ninh nhân
dân, Cơ quan CSĐT trực thuộc lực lượng Cảnh sát nhân dân. Đây là lực
lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an
ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội
phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội [35].
Xét về vị trí trong bộ máy tư pháp Việt Nam, CQĐT của CAND được tổ chức
trong hệ thống cơ quan hành pháp. Vì vậy, CQĐT của CAND là cơ quan tiến
hành TTHS thực hiện hoạt động tư pháp nhưng lại được tổ chức trong hệ
thống cơ quan hành chính, đây là một nét đặc trưng trong tổ chức và hoạt
động của CQĐT của CAND. Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động của
mình, CQĐT của CAND không chỉ phải tuân thủ các nguyên tắc, tổ chức hoạt

10


động của bộ máy nhà nước nói chung mà còn phải tuân thủ theo một số
nguyên tắc riêng của lực lượng vũ trang nhân dân. Hoạt động của CQĐT của
CAND không chỉ mang tính chất tố tụng đơn thuần mà còn chứa đựng bên
trong nó các hoạt động nghiệp vụ, cách thức chuyển hóa kết quả hoạt động
nghiệp vụ thành chứng cứ pháp lý.
- Cơ quan điều tra của CAND có mối quan hệ đa dạng, chặt chẽ với
các cơ quan, ban, ngành và lực lượng khác trong hệ thống chính trị xã hội.

Hiện nay, nhiệm vụ đấu tranh, phòng, chống tội phạm là trách nhiệm
của toàn Đảng, toàn dân, lực lượng CAND làm nòng cốt. Với vị trí là một bộ
phận của công tác đấu tranh, phòng, chống tội, hoạt động điều tra của CQĐT
của CAND có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều lực lượng, cơ quan, ban, ngành
trong hệ thống chính trị xã hội.
+ Quan hệ với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
* Quan hệ với VKS, Tòa án
Trong hoạt động điều tra, thì quan hệ giữa CQĐT và VKS, Tòa án là
mối quan hệ thường xuyên, đặc trưng nhất của hoạt động TTHS. Mối quan hệ
giữa CQĐT của CAND và VKSND trong TTHS là mối quan hệ pháp luật,
được quy định chặt chẽ và cụ thể. Trong giai đoạn khởi tố vụ án, CQĐT của
CAND chịu sự kiểm sát của VKS cùng cấp. Kết quả của hoạt động điều tra
liên quan đến việc khởi tố hay không khởi tố vụ án đều phải được chuyển đến
VKS để kiểm sát việc khởi tố. Trong giai đoạn điều tra, có một số các quyết
định của CQĐT phải được VKS phê chuẩn. Khi việc điều tra hoàn tất, nếu
xác định có tội phạm và bị can, bản kết luận điều tra và hồ sơ vụ án phải được
CQĐT gửi sang VKS để truy tố bị can.
Thực hiện Hiến pháp 2013, Bộ luật TTHS năm 2015, Luật tổ chức
CQĐT năm 2015, Luật tổ chức VKSND năm 2014, Bộ Công an, VKSND tối
cao và các bộ, ngành có liên quan đã ban hành Thông tư liên tịch số
11


01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/11/2017
quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực
hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố cáo,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; Thông tư liên tịch số
02/2017/TTLTVKSNDT-BCA-BQP-TANDTC ngày 27/11/2017 quy định về
sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc trả hồ sơ để điều tra
bổ sung; Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày

19/10/2018 hướng dẫn về phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện
một số quy định của BLTTHS năm 2015 thay thế cho Thông tư liên tịch số
05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP nhiều văn bản liên tịch khác thay thế
hệ thống văn bản hướng dẫn BLTTH năm 2003. Đây là cơ sở pháp lý hiện
hành, trực tiếp, đã làm rõ hơn các quy định về điều tra, truy tố, mối quan hệ
phối hợp giữa CQĐT và VKS, tạo thuận lợi cho hai cơ quan trong quá trình
giải quyết án hình sự.
Mối quan hệ giữa CQĐT của CAND và Tòa án không phải là mối quan
hệ phụ thuộc, có tính khế ước nhau trong hoạt động tố tụng. Tuy vậy, kết quả
hoạt động của CQĐT giúp cho Tòa án đưa vụ án ra xét xử công khai trước
phiên tòa; thông qua hoạt động xét xử, Tòa án công khai kết quả hoạt động
của CQĐT, kiểm tra lại tính xác thực của các chứng cứ trong hồ sơ vụ án.
Mối quan hệ này không chỉ được phản ánh trong giai đoạn xét xử mà còn cả
trong giai đoạn thi hành bản án đã có hiệu lực của Tòa án.
* Quan hệ với các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra
Trong hoạt động TTHS Việt Nam hiện nay, ngoài cơ quan tiến hành tố
tụng là CQĐT, VKS, Tòa án thì còn có các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành một số hoạt
động điều tra được quy định tại Khoản 1, Điều 35 của Bộ luật TTHS năm
12


2015, bao gồm: Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát
Biển, Kiểm ngư và các cơ quan của CAND được giao nhiệm vụ tiến hành một
sô hoạt động điều tra.
Quan hệ giữa các CQĐT, giữa CQĐT với các cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là quan hệ phân công và phối hợp [34,
tr79]. CQĐT có trách nhiệm hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ điều tra đối với cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Cơ quan được

giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động điều tra phải thực hiện têu cầu
bằng văn bản của CQĐT. Cơ quan điều tra có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ vụ
án do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển
giao theo thẩm quyền và thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan đã chuyển
giao hồ sơ vụ án. Đối với sự việc có dấu hiệu phạm tội mà chưa xác định rõ
thẩm quyền điều tra thì Cơ quan điều tra nào phát hiện trước phải áp dụng
ngay các hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật
này; khi đã xác định được thẩm quyền điều tra thì chuyển vụ án cho Cơ quan
điều tra có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS.
+ Quan hệ với các lực lượng khác trong CAND
Cơ quan điều tra của CAND hiện nay vừa là cơ quan tư pháp theo quy
định của Bộ luật TTHS năm 2015, vừa là cơ quan trong tổ chức bộ máy Bộ
Công an (cấp Cục, cấp phòng, cấp huyện). Do vậy, CQĐT của CAND chịu sự
quản lý, điều hành, lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo Bộ Công an, Giám
đốc Công an các tỉnh, lãnh đạo Công an cấp huyện và thực hiện công tác
hướng dẫn, kiểm tra, giám sát hoạt động điều tra của CQĐT cấp trên (ví dụ:
CQĐT cấp huyện chịu sự lãnh đạo của Ban Giám đốc Công an tỉnh; thực hiện
sự hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của CQĐT cấp tỉnh và cấp Bộ…).
Đồng thời, trong công tác điều tra và thực hiện phòng, chống tội phạm,
CQĐT của CAND có trách nhiệm phối hợp vơi các lực lượng CAND khác thực
13


hiện các nhiệm vụ được giao nhằm bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn. Theo
đó, quan hệ giữa đơn vị điều tra và đơn vị trinh sát là quan hệ phối hợp, hỗ trợ
trong phát hiện, ngăn chặn, điều tra, xử lý và phòng ngừa tội phạm [34, tr.79].
+ Quan hệ với các cơ quan, ban, ngành ngoài lực lượng CAND.
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ là cơ quan điều tra và thực hiện công
tác phòng, chống tội phạm, CQĐT của CAND đã thực hiện quan hệ phối hợp
với các cơ quan, ban, ngành ngoài lực lượng CAND như: Mặt trân Tổ quốc,

Hội phụ nữ, Đoàn Thanh niên, cơ quan giám định… nhằm thu thập thông tin,
tài liệu, chứng cứ phục vụ quá trình điều tra vụ án và trao đổi, thông tin, tài
liệu với các cơ quan, ban, ngành trong công tác phòng, chống tội phạm.
1.1.3. Vai trò tổ chức Cơ quan điều tra của Công an nhân dân
Với tư cách là cơ quan nằm trong hệ thống tư pháp, được điều chỉnh
bởi pháp luật TTHS, tổ chức CQĐT giữ vị trí, vai trò rất quan trọng, là một
trong những bộ phận cấu thành bộ máy tư pháp Việt Nam; việc tổ chức lực
lượng, phân công, phân cấp trong thực hiện hoạt động điều tra có ý nhĩa quan
trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
CQĐT. Kết quả của hoạt động điều tra là cơ sở để để truy tố, xét xử vụ án
hình sự, quyết định đến tiến trình TTHS.
Là bộ phận cấu thành bộ máy tư pháp Việt Nam, tham gia giai đoạn
độc lập trong TTHS – giai đoạn điều tra, tổ chức CQĐT của CAND tham gia
nhiệm vụ chung của hệ thống tư pháp là “bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã
hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng
toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế” [31, tr.79]. Từ
việc xác định có hay không có tội phạm để xử lý hình sự, CQĐT của CAND
đem lại sự công bằng, ổn định trong xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích của công
dân. Có thể thấy, việc tổ chức bộ máy, bố trí lực lượng nhằm thực hiện tốt

14


giai đoạn điều tra là tiền đề quan trọng cho những giai đoạn tiếp theo, góp
phần tích cực trong công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm và các hành
vi vi phạm pháp luật khác.
Tố tụng hình sự Việt Nam được chia thành các giai đoạn với nhiều hoạt
động tố tụng, trong đó tiếp nhận, giải quyết nguồn tin tội phạm, khởi tố, điều
tra vụ án là giai đoạn mở đầu, khâu phát động cho cả tiến trình TTHS. Khi

tiến hành hoạt động điều tra, CQĐT thu thập được đầy đủ các các tài liệu,
chứng cứ để xác định có tội phạm xảy ra hay không, nếu có thì là tội gì, thời
gian, địa điểm, tình tiết ra sao. Và cũng thông qua hoạt động điều tra, CQĐT
còn có điều kiện làm rõ tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
VKS chỉ có thể quyết định truy tố bị can khi vụ án đã được điều tra, có bản
kết luận điều tra kèm theo hồ sơ vụ án. Tòa án chỉ có thể xét xử vụ án trên cơ
sở vụ án đã được điều tra, lập hồ sơ và có quyết định truy tố. Kết quả của hoạt
động điều tra càng cụ thể, chính xác càng tạo điều kiện cho Tòa án xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Chính vì vậy, việc sắp xếp, tổ chức bộ
máy, lực lượng thực hiện nhiệm vụ điều tra đóng vai trò quan trọng đến hiệu
quả và chất lượng của hoạt động điều tra.
1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn và nguyên tắc tổ chức của Cơ quan điều
tra của Công an nhân dân
1.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn Cơ quan điều tra của Công an nhân dân
Nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT của CAND được xác định trên cơ sở
nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT nói chung theo quy định của pháp luật TTHS
và phân cấp cụ thể đối với Cơ quan CSĐT và Cơ quan ANĐT.
1.2.1.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan An ninh điều tra
Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an được
quy định tại Điều 16, Điều 17 luật Tổ chức CQĐT hình sự năm 2015, phân
cấp ở Cơ quan ANĐT Bộ Công an và Cơ quan ANĐT Công an tỉnh.
15


- Cơ quan ANĐT Bộ Công an:
+ Tổ chức công tác trực ban hình sự, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố; phân loại và trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc
chuyển ngay đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.
+ Tiến hành điều tra vụ án hình sự về các tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng, phức tạp, liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
hoặc có yếu tố nước ngoài thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan An ninh
điều tra Công an cấp tỉnh quy định tại khoản 2 Điều 17 của Luật này nếu xét
thấy cần trực tiếp điều tra; vụ án đặc biệt nghiêm trọng thuộc thẩm quyền điều
tra của Cơ quan An ninh điều tra của CAND do Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hủy để điều tra lại.
+ Hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ điều tra và kiểm tra việc chấp hành
pháp luật, nghiệp vụ trong hoạt động điều tra, xử lý tội phạm của Cơ quan An
ninh điều tra Công an cấp tỉnh; hướng dẫn các cơ quan của lực lượng An ninh
nhân dân thuộc CAND được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra thực hiện hoạt động điều tra.
+ Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc
phục nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm.
+Tổ chức sơ kết, tổng kết công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố và công tác điều tra, xử lý tội phạm trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan An ninh điều tra của CAND.
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của BLTTHS [34].
- Cơ quan ANĐT Công an cấp tỉnh:
+ Tổ chức công tác trực ban hình sự, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố; phân loại và trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về

16


tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc
chuyển ngay đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.
+ Tiến hành điều tra vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại Chương
XIII, Chương XXVI và các tội phạm quy định tại các điều 207, 208, 282, 283,
284, 299, 300, 303, 304, 305, 309, 337, 338, 347, 348, 349 và 350 của
BLHS khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân; tiến

hành điều tra vụ án hình sự về tội phạm khác liên quan đến an ninh quốc gia
hoặc để bảo đảm khách quan theo sự phân công của Bộ trưởng Bộ Công an.
+ Hướng dẫn các cơ quan của lực lượng An ninh nhân dân thuộc Công
an cấp tỉnh được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện
hoạt động điều tra.
+ Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc
phục nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm.
+ Tổ chức sơ kết, tổng kết công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố và công tác điều tra, xử lý tội phạm của lực
lượng An ninh nhân dân thuộc Công an cấp tỉnh báo cáo Thủ trưởng Cơ quan
An ninh điều tra Bộ Công an.
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của BL TTHS [34].
1.2.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan CSĐT
Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan CSĐT được quy định tại Điều 19,
Điều 20, Điều 21 luật Tổ chức CQĐT hình sự năm 2015, phân cấp ở Cơ
quan CSĐT Bộ Công an, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh, Cơ quan CSĐT
Công an huyện.
- Cơ quan CSĐT Bộ Công an:
+ Tổ chức công tác trực ban hình sự, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố; phân loại và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc chuyển ngay
đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.
17


+ Tiến hành điều tra vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ
quan CSĐT Công an cấp tỉnh về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức
tạp, xảy ra trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc tội
phạm có tổ chức xuyên quốc gia nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra; các vụ án
đặc biệt nghiêm trọng thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều

tra do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại.
+ Hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ điều tra và kiểm tra việc chấp hành
pháp luật, nghiệp vụ trong công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và công tác điều tra, xử lý tội phạm đối với các cơ
quan CSĐT Công an cấp tỉnh, Công an cấp huyện; hướng dẫn các cơ quan
của lực lượng Cảnh sát nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra thực hiện hoạt động điều tra.
+ Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc
phục nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm.
+ Tổ chức sơ kết, tổng kết công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố và công tác điều tra, xử lý tội phạm thuộc
nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan CSĐT của CAND.
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của BLTTHS [34].
- Cơ quan CSĐT Công an cấp tỉnh:
+ Tổ chức công tác trực ban hình sự, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố; phân loại và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc chuyển ngay
đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.
+ Tiến hành điều tra vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại khoản 2
Điều 21 của Luật này khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc các tội phạm thuộc
thẩm quyền điều tra của Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện xảy ra trên địa
18


bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành
phố trực thuộc trung ương, phạm tội có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài
nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra.
+ Hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ điều tra và kiểm tra việc chấp hành
pháp luật, nghiệp vụ trong công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố và công tác điều tra, xử lý tội phạm đối với Cơ quan
CSĐT Công an cấp huyện; hướng dẫn các cơ quan của lực lượng Cảnh sát
nhân dân thuộc Công an cấp tỉnh được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra thực hiện hoạt động điều tra.
+ Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc
phục nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm.
+ Tổ chức sơ kết, tổng kết công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố và công tác điều tra, xử lý tội phạm trong phạm
vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan CSĐT Công an cấp tỉnh, Cơ
quan CSĐT Công an cấp huyện.
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của BLTTHS [34].
- Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện:
+ Tổ chức công tác trực ban hình sự, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố; phân loại và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc chuyển ngay
đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.
+ Tiến hành điều tra vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các
chương từ Chương XIV đến Chương XXIV của Bộ luật Hình sự khi các tội
phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, trừ các tội
phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKS nhân dân tối cao và Cơ
quan An ninh điều tra của CAND.

19


+ Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc
phục nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm; Kiểm tra, hướng dẫn
Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận,
kiểm tra, xác minh sơ bộ tố giác, tin báo về tội phạm; Tổ chức sơ kết, tổng kết
công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

và công tác điều tra, xử lý tội phạm của Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện;
Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của BLTTHS [34].
1.2.2. Nguyên tắc tổ chức của Cơ quan điều tra Công an nhân dân
Nguyên tắc tổ chức của CQĐT CAND là những định hướng mang tính
chỉ đạo trong việc tổ chức bộ máy của CQĐT CAND được xác định trong
pháp luật TTHS nhằm đảm bảo cơ quan này hoạt động hiệu quả, đúng quy
định pháp luật, bao gồm:
Một là, tổ chức CQĐT phải theo quy định của pháp luật TTHS
Nhiệm vụ của CQĐT trong TTHS chính là điều tra, làm rõ tội phạm;
hoạt động điều tra này có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi
ích cơ bản của công dân như: quyền được sống, quyền được bảo đảm về sở
hữu tài sản hợp pháp, quyền được bảo đảm về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm… Do đó, tổ chức CQĐT phải tuân thủ những quy định rất chặt
chẽ của pháp luật TTHS để đảm bảo bộ máy được tổ chức hiệu quả nhằm
thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Nguyên tắc này đòi hỏi CQĐT phải được tổ chức tuân thủ những
nguyên tắc chung của Hiến pháp và những quy định cụ thể của của pháp luật:
nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ, … cũng như các quy
định trong Bộ luật TTHS, Luật Tổ chức CQĐT hình sự. Việc tuân thủ những
nguyên tắc và các quy định này sẽ đảm bảo cho bộ máy cơ quan điều tra được
tổ chức, vận hành nhịp nhàng trong bộ máy tư pháp nói riêng, bộ máy nhà
nước nói chung; góp phần bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ các quyền và lợi ích
20


hợp pháp của công dân, giáo dục công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật
và tôn trọng các quy tắc của cuộc sống XHCN.
Hai là, tổ chức cơ quan điều tra phải bảo đảm ự ch đạo, ch huy tập
trung thống nhất, hiệu lực, hiệu quả; phân c ng, phân cấp rành mạch, chuy n
âu, tránh ch ng ch o và được i m oát chặt chẽ

Đây là nguyên tắc rất quan trọng xuất phát từ đặc điểm và vị trí của tổ
chức CQĐT trong TTHS. Do tổ chức CQĐT nằm trong hệ thống tư pháp,
thực hiện giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng với nhiệm vụ chính là thu
thập chứng cứ chứng minh có hay không có tội phạm xảy ra, một người có
phải là người phạm tội; kết quả của hoạt động điều tra là cơ sở để VKS truy tố
và Tòa án xét xử. Vì vậy, tổ chức CQĐT không đảm bảo sự chỉ đạo, phân
công, phân cấp rành mạch sẽ dẫn đến điều tra phiến diện, nhận định chủ quan,
không đúng thẩm quyền, gây hậu quả nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ
án như việc làm oan người vô tội, để lọt tội phạm.
Nội dung nguyên tắc này thể hiện ở quá trình điều tra vụ án phải bảo
đảm sự chỉ đạo, tập trung thống nhất, phân công, phân cấp rành mạch và được
kiểm soát chặt chẽ để không bỏ lột tội phạm và làm oan người vô tội. Quá
trình điều tra vụ án cũng phải xuất phát từ thực tế khách quan mà không bị
ảnh hưởng bởi ý thức chủ quan của ĐTV hoặc CQĐT.
Ba là, tổ chức CQĐT cấp dưới chịu ự hướng dẫn, ch đạo nghiệp vụ
của tổ chức CQĐT cấp tr n.
Điều này xuất phát từ việc CQĐT của CAND được tổ chức nhiều cấp
từ Trung ương đến địa phương (Cơ quan CSĐT tổ chức ở 3 cấp: cấp Bộ, cấp
tỉnh và cấp huyện; Cơ quan ANĐT tổ chức ở 2 cấp: cấp Bộ và cấp tỉnh); mặt
khác, CQĐT của CAND nằm trong hệ thống lực lượng vũ trang Nhà nước. Vì
vậy, Cơ quan CSĐT cấp dưới chịu sự chỉ đạo của Cơ quan CSĐT cấp trên là
điều tất yếu khách quan. Sự chỉ đạo của CQĐT cấp trên đối với CQĐT cấp
21


×