Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.75 KB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ KĨ THUẬT CÔNG NGHIỆP
------ oOo ------

TIỂU LUẬN 1

ĐỀ TÀI:

“ Thực trạng tình hình hoạt động của hệ thống

ngân hàng thương mại việt nam “

Họ tên : Nguyễn Thị Tuyết Anh
Mã sv : 18108100152
Chuyên ngành : Tài chính - ngân hàng
GVHD : Phạm Đức Tài

MỤC LỤC
1


A Phần mở đầu
B Phần nội dung nghiên cứu
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại Việt Nam
1.1.1 Khái niệm:
1.1.2 Chức năng của ngân hàng thương mại:
1.1.2.1 Chức năng làm trung gian tín dụng:
1.1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán và quản lý phương tiện thanh toán:
1.1.2.3 Chức năng cung ứng các dịch vụ ngân hàng:
1.1.2.4 Chức năng tạo tiền (bút tệ hay tiền ghi sổ):


1.1.3 Các nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàngthương mại:
1.1.3.1 Nghiệp vụ tài sản nợ:
Vốn tự có
Vốn huy động
Vốn đi vay





1.1.3.2 Nghiệp vụ tài sản có:





Nghiệp vụ ngân quỹ ( dự trữ tiền mặt )
Nghiệp vụ cho vay
Nghiệp vụ đầu tư vào chứng khoán
Nghiệp vụ khác

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT
NAM
2.1. Hoạt động huy động vốn
2.2. Hoạt động tín dụng
2.3. Hoạt động thanh toán
2.4. Hoạt động ngoại hối
CHƯƠNG 3 : ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM
3.1 Những kết quả đạt được

3.2 Những khó khăn tồn tại
3.3 Nguyên nhân của những kết quả đạt được và khó khăn tồn tại
3.3.1 Nguyên nhân của những kết quả đạt được
3.3.2 Nguyên nhân của những khó khăn tồn tại

2


CHƯƠNG 4 VỊ THẾ CỦA NHTM VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
QUỐC TẾ
4.1. Điểm mạnh
4.1.1 Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định
4.1.2 Mạng lưới rộng khắp và vị thế thị trường
4.1.3 Mối quan hệ khách hàng truyền thống
4.1.4 Về đối tác chiến lược
4.2. Điểm yếu
4.2.1 Qui mô vốn còn nhỏ bé
4.2.2 Năng lực nhân sự chưa cao
4.2.3 Dịch vụ ngân hàng còn đơn giản, chưa đa dạng
4.2.4 Công nghệ ngân hàng còn yếu kém
4.2.5 Thể chế chưa hoàn thiện
C Kết luận

DANH MỤC VIẾT TẮT
Ký hiệu viết tắt

Tên đầy đủ

VN


Việt Nam

NHTM

Ngân hàng thương mại

NHTMCP

Ngân hàng thương mại cổ phần

Vietinbank

Ngân hàng thương mại cổ phần công thương

NHNN

Ngân hàng nhà nước

ATM

Máy rút tiền tự động

A : PHẦN MỞ ĐẦU
3


1. LÝ DO NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
Trong thời gian gần đây, thuật ngữ hiện đại hoá ngân hàng bắt đầu xuất hiện với ý nghĩa là
tìm cách “thiết lập một hệ thống tập trung hoá và tự động hoá trong các giao dịch với mục đích lấy
khách hàng là trung tâm”. Còn nói theo ngôn ngữ hội nhập thì hiện đại hoá ngân hàng giống như

việc các doanh nghiệp VN đang tìm cách hoà nhập vào cùng với các luật chơi của thế giới, hệ thống
ngân hàng cũng tương tự như thế. Trên thế giới các ngân hàng luôn luôn lấy khách hàng làm trung
tâm, và tìm mọi cách thoả mãn các nhu cầu đa dạng của khách hàng.
Ở VN, một nhà nhập khẩu muốn xin ngân hàng bảo lãnh thanh toán lô hàng nhập khẩu, nhà
nhập khẩu đó phải đến phòng nhập khẩu của ngân hàng đưa ra yêu cầu của mình, sau đó phòng
nhập khẩu phải qua các bộ phận tiền gửi, tiền vay, và các bộ phận khác để điều tra xem hiện nay
khách hàng cuả mình đang ở vị thế nào trong các mối quan hệ với ngân hàng. Sau đó, nếu thoả
đáng, bộ phận tín dụng của ngân hàng mới đồng ý bảo lãnh, tất nhiên trước đó quy trình này còn
phải trình lãnh đạo ký duyệt. Mãi cho đến khi lô hàng nhập về đến cảng, doanh nghiệp còn phải đến
phòng kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng trình các hoá đơn cần thiết để được mua ngoại tệ thanh
toán. Toàn bộ quy trình này, cho dù ngân hàng có cải tiến cách mấy đi nữa cũng tiêu tốn không ít thì
nhiều thời gian chờ đơị của khách hàng. Hiện đại hoá ngân hàng chính là lấy khách hàng làm trung
tâm, theo đó giờ đây, các doanh nghiệp chỉ cần đưa ra yêu cầu của mình, sau đó toàn bộ các vấn đề
từ A đến Z sẽ được xử lý hoàn toàn tự động và tập trung về một đầu mối thống nhất, không còn
chuyện mỗi bộ phận chỉ có thông tin riêng khách hàng của mình. Trên thế giới, hệ thống ngân hàng
của thiên hạ là như thế, do đó hội nhập cũng đòi hỏi ngân hàng của ta cũng phải như thế, không thể
khác được, “hiện đại hoá ngân hàng chính là một ngôn ngữ của hội nhập kinh tế quốc tế”.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng đều nhắm đến
mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. NHTM là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực “đặc biệt” và
nhạy cảm, đó là lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, là người “đi vay để cho vay” với
chất liệu kinh doanh chính là tiền tệ.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức
của WTO thì việc minh bạch hoá chính sách là điều kiện cần thiết và bắt buộc. Cũng giống như các
lĩnh vực khác, lĩnh vực tài chính ngân hàng chịu sự tác động mạnh mẽ của tiến trình hội nhập với
những cam kết quốc tế và lộ trình thực hiện cụ thể, đòi hỏi mở cửa thị trường, đối xử bình đẳng, ban
hành luật lệ công khai minh bạch, cạnh tranh công bằng, v.v....
Sự khác biệt quá ít về sản phẩm giữa các ngân hàng đã dẫn tới hệ lụy là các ngân hàng phải
cạnh tranh về giá, dẫn đến sự phân tách thị trường, và đây chính là sự bất cập của thị trường tiền tệ
hiện nay. Bên cạnh đó, các tập đoàn tài chính, ngân hàng lớn đều mong muốn được vào đầu tư tại
Việt Nam. Điều này xảy ra là cơ hội, đồng thời là thách thức của các doanh nghiệp nước ta, nhất là

các đơn vị tài chính ngân hàng. Do vậy, hệ thống các NHTM (Ngân hàng thương mại) phải nâng

4


cao khả năng cạnh tranh, kiểm soát rủi ro, phát triển dịch vụ mới và niêm yết cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán nhằm tăng nguồn vốn.
Từ những lí do trên , việc nghiên cứu đề tài “ Thực trạng tình hình hoạt động của hệ
thống ngân hàng thương mại việt nam “ sẽ có ý nghĩa giúp cho các nhà hoạch định chính sách tài
chính tiền tệ và những người hoạt động thực tiễn trong hệ thống ngân hàng thương mại việt nam
hình dung được cơ hội, khó khăn sẽ gặp phải và các giải pháp nhằm hạn chế những tác động không
mong muốn tới hoạt động của hệ thống ngân hàng ở Việt Nam trong lộ trình hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới

2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI:
Trọng tâm nghiên cứu đề tài ở các điểm như sau:
- Nghiên cứu những lý luận cơ bản về NHTM và các sản phẩm dịch vụ tài
chính ngân hàng. Trong đó, nghiên cứu sâu các vấn đề liên quan đến việc
quản lý và khả năng phát triển các sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng cùng
các tác động của nó đến nền kinh tế.
- Đi sâu phân tích các thực trạng sản phẩm dịch vụ tài chính của NHTM cổ
phẩn Nam Việt, phân tích nguyên nhân chủ yếu gây ra sự phát triển chậm chạp
về sản phẩm dịch vụ tài chính.
- Đề nghị một số giải pháp phát triển sản phẩm dịch vụ tài chính ngân
hàng cho ngân hàng TMCP Nam Việt.
- Giúp cho cán bộ nhân viên ngân hàng nhận thức được những kinh
nghiệm và dự kiến được những khả năng có thể xảy ra sự tụt hậu, sụt giảm
khách hàng, thị phần mà họ đang quản lý. Dễ dàng nhận biết những dấu hiệu
cảnh báo rủi ro trong quá trình công tác và góp phần cải tiến sản phẩm dịch vụ
phục vụ và thỏa mãn nhu cầu của khách hàng ngày một tốt hơn.


3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
-Phạm vi nghiên cứu của đề tài tiểu luận này là :. Thực trạng tình hình hoạt động của hệ thống ngân
hàng thương mại việt nam

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trong đề tài tiểu luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau :
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu
+ Phương pháp quan sát để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu

5


+ Phương pháp phân tích – tổng hợp

5. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

* Phần mở đầu
- Chương 1: Tổng quan về ngân hàng thương mại Việt Nam
- Chương 2 : Thực trạng của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
- Chương 3: Đánh giá về thực trạng năng lực cạnh tranh và hoạt động
NHTM
- Chương 4 :Vị thế của NHTM Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

*Phần kết luận
6 Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài có các ý nghĩa thực tiễn như sau:
-

Góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ tài chính cho


NAVIBANK và các NHTM
Góp phần tạo dựng uy tín và lòng tin về sản phẩm dịch vụ của
NAVIBANK đối với khách hàng.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh của NHTM
Góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế Việt Nam

6


PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại Việt Nam
1.1.1 Khái niệm:
Do tập quán luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ khác nhau đã
dẫn đến những quan niệm về Ngân hàng thương mại (NHTM) không đồng nhất
giữa các khu vực trên thế giới. Vì vậy, trong quá trình hình thành và phát triển
từ thế kỷ 15 đến nay, đã có rất nhiều khái niệm về NHTM như sau:
Theo Luật Ngân hàng của Pháp năm 1941: “NHTM là những xí nghiệp hay
cơ sở thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức khác các số tiền mà
họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Theo Pháp lệnh Ngân hàng Việt Nam năm 1990: “ NHTM là một tổ chức
kinh doanh tiền tệ mà nghiệp vụ chủ yếu là thường xuyên nhận tiền gửi của
khách hàng (dân cư và các doanh nghiệp), có trách nhiệm hoàn trả và sử dụng
để cho vay, thanh toán, chiết khấu,v.v...”.
Theo Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng năm 1997:
“NHTM là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường
xuyên nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này dể cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ
thanh toán. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm

NHTM, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân
hàng hợp tác xã và các loại hình ngân hàng khác”.
Như vậy, NHTM là tổ chức tín dụng vay tiền của người gửi và cho các công
ty và cá nhân vay lại và có cùng mục tiêu lợi nhuận như các doanh nghiệp khác
trong nền kinh tế. Hoạt động kinh doanh của NHTM gắn liền với các hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế.
Trong quá trình đó, NHTM thực hiện vai trò tham gia điều tiết vĩ mô đối
với nền kinh tế thông qua các chức năng của mình, biểu hiện các mối quan hệ
giữa NHTM với các tổ chức kinh tế, cá nhân về mặt tín dụng, tiền mặt, các dịch
vụ thanh toán không dùng tiền mặt, v.v..., đảm bảo hoạt động của ngân hàng
và nền kinh tế được bình thường

1.1.2 Chức năng của ngân hàng thương mại
: 1.1.2.1 Chức năng làm trung gian tín dụng:

7


Trong nền kinh tế bao giờ tại một thời điểm luôn tồn tại tình trạng: có một
số lượng vốn tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể chưa cần dùng đến, mặt khác
lại có một số lượng chủ thể khác tạm thời thiếu vốn để hoạt động, kinh doanh,
đầu tư hoặc tiêu dùng, v.v.... Để giải quyết tình trạng này thì NHTM với vai trò là
trung gian, là nhịp cầu nối liền chủ thể thừa và thiếu vốn trong nền kinh tế lại
với nhau, là người “ đi vay để cho vay”.
Có thể nói ngân hàng là một xí nghiệp kinh doanh sản phẩm là đồng vốn.
Ngân hàng vừa là người “cung cấp” đồng thời cũng là người “tiêu thụ” đồng
vốn của khách hàng. Tất cả những hoạt động “mua, bán” này thường thông qua
một số công cụ và nghiệp vụ ngân hàng từ truyền thống cho đến hiện đại.
Chính nhờ các nghiệp vụ đa dạng do ngân hàng cung cấp mà nhiều nghiệp vụ
kinh doanh ngân hàng hiện đại ra đời, phát triển và gắn với chức năng trung

gian tín dụng.
Hoạt động tín dụng của NHTM đã góp phần khắc phục các hạn chế trong
quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thế có tiền chưa sử dụng và chủ thể có nhu
cầu tiền tệ bổ sung. Với chức năng này NHTM làm trung gian chuyển vốn tiền tệ
từ nơi thừa đến nơi thiếu cho các chủ thể tham gia không có mối liên hệ trực
tiếp với nhau và điều này có vai trò to lớn đối với nền kinh tế vì:
Một mặt, ngân hàng tập trung hầu hết những nguồn vốn nhàn rỗi trong
nền kinh tế và biến nó từ chỗ là phương tiện tích lũy thành nguồn vốn lớn cho
nền kinh tế. Mặt khác, sử dụng nguồn vốn này cung ứng cho nền kinh tế với
tính luân chuyển của nó gấp nhiều lần. Như vậy, NHTM vừa là người đi vay vừa
là người cho vay, hay nói cách khác, nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng là ngân
hàng tập hợp tài lực của khách hàng này đem cho khách hàng khác vay lại.
Chức năng trung gian tín dụng được hình thành ngay từ lúc các NHTM
hình thành. Ngày nay, thông qua chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã và
đang thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng
lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế,
cải thiện đời sống của nhân dân.
1.1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán và quản lý phương tiện thanh toán:
Xuất phát từ chức năng là người thủ quỹ của các doanh nghiệp, ngân
hàng có đủ điều kiện để thực hiện các dịch vụ thanh toán theo sự ủy nhiệm của
khách hàng. Kế thừa và phát triển chức năng “thủ quỹ của các doanh nghiệp”
nên hầu hết NHTM thực hiện nhập tiền vào tài khoản hay chi trả tiền hàng hoá

8


và dịch vụ các cá nhân, doanh nghiệp, v.v... theo lệnh của chủ tài khoản. Khách
hàng sẽ mở tài khoản tại các NHTM và ra lệnh cho ngân hàng thực hiện các
khoản chi trả hoặc ủy nhiệm cho ngân hàng thu các khoản từ người mua, v.v...
Như vậy, các doanh nghiệp không phải thực hiện các công việc mất nhiều thời

gian và công sức mà vẫn không đảm bảo an toàn như đếm tiền, nhận tiền, v.v...
trong quá trình thanh toán với các đối tác trong nền kinh tế.
Chức năng làm trung gian thanh toán của NHTM ngày nay không chỉ đơn
thuần và mang tính truyền thống như trước, mà cùng với sự phát triển của tiến
bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại, v.v... đã tạo điều kiện cho các NHTM
thanh toán bù trừ, thanh toán điện tử trực tuyến, v.v ... với nhau nhanh chóng
và chính xác hơn, tiết kiệm chi phí lưu thông cho xã hội, thúc đẩy luân chuyển
vốn và quá trình lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển.
Đối với khách hàng thuộc các tầng lớp dân cư, việc mở tài khoản và ký gửi
tiền tại ngân hàng, ngoài việc được ngân hàng cung cấp một sổ check để thuận
tiện việc chi trả, còn được ngân hàng cung ứng một loạt dịch vụ đa dạng về tài
chính có sinh lợi khác như các chương trình khuyến mại về phí dịch vụ, liên kết
thanh toán, v.v...
1.1.2.3 Chức năng cung ứng các dịch vụ ngân hàng:
Ngân hàng với những ưu thế của mình như hệ thống mạng lưới chi nhánh
rộng khắp trong và ngoài nước, mối quan hệ với các khách hàng, hệ thống
trang thiết bị thông tin hiện đại về kho quỹ, v.v... nên có thể cung cấp các dịch
vụ ngày càng đa dạng cho khách hàng như: tư vấn tài chính và đầu tư cho
doanh nghiệp, làm đại lý phát hành cổ phiếu, trái phiếu đảm bảo hiệu quả cao
và tiết kiệm chi phí, dịch vụ cho thuê két sắt, bảo quản an toàn vật có giá, lưu
trữ và quản lý chứng khoán cho khách hàng, làm dịch vụ thu lãi chứng khoán,
chuyển lãi đó vào tài khoản cho khách hàng, v.v... từ đó hỗ trợ cho NHTM thực
hiện tốt hơn hai chức năng nêu trên.
1.1.2.4 Chức năng tạo tiền (bút tệ hay tiền ghi sổ):
Quá trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng
và thanh toán trong hệ thống ngân hàng và trong mối quan hệ chặt chẽ với hệ
thống ngân hàng trung ương của mỗi quốc gia. Với một hệ thống ngân hàng
hoàn chỉnh, với một số lượng tiền gửi ban đầu là A và cùng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
nhất định thì các NHTM có thể tạo một số lượng tiền ghi sổ lớn hơn lượng tiền
ban đầu gấp nhiều lần thông qua hệ số tạo tiền .


9


1.1.3 Các nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàngthương mại:
Hoạt động của NHTM có thể khác nhau về phạm vi vàcông nghệ, nhưng
nói chung hoạt động của NHTM bao gồm 3 lĩnh vực nghiệp vụ: nghiệp vụ tài sản
có, nghiệp vụ tài sản nợ và nghiệp vụ môI giới trung gian.
1.1.3.1 Nghiệp vụ tài sản nợ:
Nghiệp vụ tài sản nợ bao gồm các hoạt động liên quan với việc nhận vốn
từ người gửi tiền và những người cho vay khác nhau tự quyết định mức góp vốn
của mình, một cách thích hợp, vào một ngân hàng đặc biệt nào đó. Nghiệp vụ
tài sản nợ còn liên quan đến việc cung cấp cho các nhu cầu về thanh khoản
thông qua việc chủ động kiếm thêm vốn vay, khi cần thiết hoặc bán các chứng
chỉ tiền gửi, trái phiếu chính phủ, chứng khoán, v.v... ở thị trường thứ cấp.


Vốn tự có :

Nguồn vốn tự có chiếm tỷ trọng nhỏ, từ 1/10 đến 1/100, trong tổng số
nguồn vốn hoạt động kinh doanh của một ngân hàng, nhưng lại là nguồn vốn
rất quan trọng, vì nó thấy được thực lực, quy mô của ngân hàng và vì nó là cơ
sở để thu hút các nguồn vốn khác, là vốn khởi đầu tạo uy tín của ngân hàng đối
với khách hàng. Chính vì vậy, quy mô vốn là yếu tố quyết định quy mô huy
động vốn và tài sản có.
Hiện nay ở Việt Nam, các NHTM đều có quy mô nhỏ, vốn tự có và vốn điều
lệ ở mức thấp, tỷ lệ vốn tự có/tài sản có của phần lớn các ngân hàng đều dưới
5%, so với mức tối thiểu của quốc tế là 8% .
Ngày nay, các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng dựa trên cơ sở vốn vay
mượn gồm nghiệp vụ ký thác và tiết kiệm, vay các ngân hàng và các tổ chức tài

chính khác, phát hành các giấy tờ có giá, v.v...
 Vốn huy động
Ngân hàng thực hiện huy động vốn dưới các hình thức như sau:
a/ Tiền gửi giao dịch không hưởng lãi: cho phép khách hàng phát hành check
không hạn chế và không được ngân hàng thanh toán lãi suất.
b/ Tiền gửi tiết kiệm: ngân hàng cung cấp lãi suất thấp nhất, không giới hạn
về quy mô tiền gửi và cho phép khách hàng rút ra theo ý muốn dưới nhiều hình
thức khác nhau như tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, dự thưởng, lãi suất bậc
thang, v.v.
c/ Tiền gửi có kỳ hạn: Là khoản tiền được gửi sẽ có thời gian gửi tối thiểu

10


theo thỏa thuận giữa ngân hàng và thân chủ, và không được rút ra trước hạn kỳ
đã định nói trên.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định: (i) Tiền gửi không kỳ hạn: bao gồm (a)
Tiền gửi thanh toán áp dụng cho khách hàng là cá nhân và tổ chức có thể gửi
thêm vào hoặc rút ra bất cứ thời điểm nào, sử dụng phát hành check và thực
hiện các giao dịch thanh toán mua bán hàng hóa dịch vụ; (b) Tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn áp dụng cho khách hàng là cá nhân. (ii) Tiền gửi có kỳ hạn: (a)
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn áp dụng cho khách hàng là cá nhân, giao dịch được
thực hiện trực tiếp trên tài khoản tiền gửi của khách hàng qua đó Ngân hàng
cấp cho khách hàng Chứng nhận tiền gửi có kỳ hạn (CDs) xác nhận số dư, liệt
kê các giao dịch liên quan đến khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn; (b) tiền gửi
có kỳ hạn áp dụng cho khách hàng là tổ chức, giao dịch được thực hiện trực tiếp
trên tài khoản của khách hàng trên cơ sở các thỏa thuận, hợp đồng tiền gửi có
kỳ hạn hoặc các hình thức khác giữa Ngân hàng và khách hàng phù hợp quy
định của pháp luật.
 Vốn đi vay

Vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ có thể chấp nhận trong kết cấu nguồn
vốn, nhưng nó rất cần thiết và quan trọng để đảm bảo cho ngân hàng hoạt
động kinh doanh một cách bình thường. Các ngân hàng có thể đi vay Ngân
hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương); NHTM khác, vay thị trường tiền tệ, vay
các tổ chức nước ngoài, v.v...
Giải pháp phát triển sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng tại Ngân hàng TMCP
Nam Việt
a/ Vay Ngân hàng Nhà nước: dưới hai hình thức
- Tái chiết khấu (hoặc chiết khấu) hay còn gọi là tái cấp vốn: trái phiếu kho bạc,
thương phiếu, khế ước mà các ngân hàng cho khách hàng vay chưa đáo hạn.
- Thế chấp hay ứng trước có đảm bảo hay không có đảm bảo.
- Bổ sung thanh toán bù trừ của các tổ chức tín dụng.
b/ Vay ngắn hạn dự trữ tại NHNN:
Đây là hình thức vay qua đêm nhằm đảm bảo dự trữ trong ngày theo quy định
của
Ngân hàng Nhà nước giữa các NHTM thừa hoặc thiếu dự trữ.
c/ Vay trên thị trường tiền tệ (TTTT):

11


Theo mô hình của các nước phát triển, TTTT bao gồm thị trường mua bán các
chứng từ có giá ngắn hạn (tín phiếu kho bạc ngắn hạn, kỳ phiếu thương mại, tín
phiếu công ty tài chính, kỳ phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm, khế
ước giao hàng, v.v...), thị trường liên ngân hàng, thị trường hối đoái góp phần sử
dụng hiệu quả các nguồn vốn hiện có tại các ngân hàng.
d/ Vay từ công ty mẹ:
Các công ty mẹ của ngân hàng phát hành trái phiếu, cổ phiếu công ty hoặc các
loại thương phiếu, rồi chuyển vốn đã huy động được về cho các ngân hàng hoạt
động. Hình thức này được các ngân hàng vận dụng khi bị NHNH quản lý và ràng

buộc về lãi suất, dự trữ và thủ tục. Ở các nước phát triển, NHTM luôn luôn là
con đẻ của mội công ty kinh doanh, công ty tài chính hoặc ít nhất là có mối
quan hệ mật thiết với các đối tượng trên.
e/ Vay nước ngoài:
Các NHTM có thể phát hành phiếu nợ để tìm kiếm nguồn vốn từ nước ngoài,
đây chính là hình thức vay nợ nước ngoài.

1.1.3.2 Nghiệp vụ tài sản co:
Từ tài nguyên là các nguồn vốn có được từ nghiệp vụ tài sản nợ, NHTM sử dụng
chúng để đầu tư, cho vay, v.v... Do đó, nghiệp vụ này phản ánh việc sử dụng
vốn của ngân hàng theo định hướng đảm bảo an toàn và sinh lời, cụ thể như
sau:
 Nghiệp vụ ngân quỹ ( dự trữ tiền mặt )
Nhằm duy trì khả năng thanh khoản của ngân hàng để đáp ứng nhu cầu rút
tiền mặt và thanh toán thường xuyên của khách hàng. Mức dự trữ cao hay
thấp tùy
thuộc vào quy mô hoạt động của ngân hàng, mối quan hệ thanh toán bằng
tiền mặt và chuyển khoản, thời vụ của các khoản chi tiền mặt. Có 3 loại dự
trữ:
a/ Tiền mặt tại kho của ngân hàng: Ở các nước phát triển, các ngân hàng
duy trì xấpxỉ1đến2%tổngtàisảncó.
b/ Tiền mặt ký gửi tại NHNN: bao gồm một bộ phận của dự trữ bắt buộc và
ký gửi không lãi nhằm phục vụ cho việc thanh toán bù trừ hoặc chuyển
nhượng liên ngân hàng.
c/ Tiền đang trên đường thu hồi: Đây là khoản tiền trôi nổi và đang trên
đường thu hồi về như tiền mặt đã được các đơn vị vay, có trách nhiệm trả
nợ ký cam kết và hiện đang thu về hoặc tiền mặt được thu lại do một số tờ

12



check của ngân hàng phát ra không được chấp nhận hoặc không thanh toán
được và phải trả lại cho ngân hàng.
 Nghiệp vụ cho vay
NHTM vận dụng các loại hình cho vay khác nhau để tái phân phối quỹ cho
vay nhằm cung ứng vốn tín dụng cho các chủ thể trong nền kinh tế, phục vụ
nhu cầu sản xuất, lưu thông hàng hóa, dịch vụ, đời sống với mục đích thu
được các khoản lợi nhuận chủ yếu để trang trải chi phí. Các nghiệp vụ cho
vay cụ thể:
- Cho vay ứng trước (cho vay trực tiếp hay cho vay tiền);
- Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền: chiết khấu thương phiếu
(hối phiếu, lệnh phiếu, ký hóa phiếu); bao thanh toán hay mua ủy nhiệm
thu;
- Cho vay thấu chi;
- Cho vay theo thời vụ;
- Cho vay qua chữ ký : Bảo lãnh ngân hàng, tín dụng chấp nhận, đảm bảo
ngân
hàng, tín dụng chứng từ;
- Cho vay tiêu dùng;
- Cho vay vốn lưu động;
- Cho vay thuê mua (leasing) hay tài trợ cho thuê;
- Tài trợ ngoại thương ;
- Cho vay kinh doanh bất động sản;
- Cho vay cầm cố;
- Hùn vốn kinh doanh;
 Nghiệp vụ đầu tư vào chứng khoán
NHTM thực hiện nghiệp vụ này bằng nguồn vốn tự có còn lại sau khi đã dùng
vào các yêu cầu thiết yếu khi thành lập ngân hàng. Nghiệp vụ đầu tư mang lại
nhiều lợi nhuận đáng kể cho ngân hàng thông qua các loại hình đầu tư trực tiếp
và đầu tư tài chính.

Đầu tư trực tiếp: Ngân hàng bỏ vốn để góp vốn liên doanh, mua cổ phần với các
tổ chức, ngân hàng trong và ngoài nước hoặc thành lập các công ty con như
công ty quản lý nợ, công ty cho thuê tài chính, công ty chứng khoán, công ty
bảo hiểm, v.v....
Đầu tư tài chính (Đầu tư chứng khoán): là việc ngân hàng lựa chọn danh mục
đầu tư có hiệu quả tạo mức sinh lời ổn định ví dụ trái phiếu kho bạc ngắn và
trung dài hạn, trái phiếu của chính quyền địa phương hoặc cổ phiếu có độ an
toàn cao. Do các loại chứng khoán này có tính thanh khoản cao nên đây là
khoản vốn dự trữ thứ cấp cho ngân hàng.
 Nghiệp vụ khác

13


Một số nghiệp vụ mang tính dịch vụ và mang lại thu nhập cho ngân hàng là
các khoản phí dịch vụ góp phần bổ sung và thúc đẩy sự phát triển của
NHTM, làm cho hoạt động của ngân hàng ngày càng hoàn thiện hơn, bao
gồm dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ thanh toán, dịch vụ thu
– chi hộ, dịch vụ ủy thác, bảo lãnh, tư vấn, đầu tư phát triển, thẩm định dự
án, thu đổi ngoại tệ, chi trả kiều hối, v.v.

1.2 Ngân hàng thương mại Việt Nam
1.2.1 Hoạt động huy động vốn

Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM, nó đóng vai trò

quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng
huy động vốn từ các nguồn chủ yếu
Vốn chủ sở hữu: Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho
phép) chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định.

Nguồn vốn hình thành ban đầu: Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng
mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc
sở hữu Nhà nước, ngân sách Nhà nước cấp (vốn của Nhà nước). Nếu là ngân
hàng cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu.
Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp; ngân hàng tư nhân là vốn
thuộc sở hữu tư nhân.
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt
động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau
tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể:
Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện nguồn thu nhập ròng lớn hơn
không, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển
một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư.
Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để
mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng
yêu cầu gia tăng vốn của chủ do ngân hàng Nhà nước quy định…
Các quỹ: Ngân hàng có nhiều quỹ: Quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo
toàn vốn, quỹ thặng dư, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng… mỗi quỹ có mục
đích riêng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng.
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: Các khoản vay trung
và dài hạn của NHTM có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể
được coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng do nguồn này có một số
đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể
không phải hoàn trả khi đến hạn.

14


Nguồn tiền gửi: Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng
nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng.
Tiền gửi thanh toán: Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào

ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho
phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng
thực hiện. Nhìn chung lãi suất của khoản tiền này rất thấp (hoặc bằng không),
thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức
phí thấp.
Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: Nhiều khoản
thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau
một thời gian xác định. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền,
ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kì hạn. Tuy không thuận lợi cho
tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kì hạn được
hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kì hạn.
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Các tầng lớp dân cư đều có các khoản
thu nhập tạm thời chưa sử dụng. Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với
ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo
toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn.
Tiền gửi của các ngân hàng khác: Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ
và một số mục đích khác, NHTM này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy
nhiên quy mô này thường không lớn.
Nguồn đi vay: Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM, tuy nhiên,
khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm.
Vay NHNN: Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong
chi trả của NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, NHTM thường vay
NHNN. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu (hoặc tái cấp
vốn).

Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn

lẫn nhau và vay các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng.
Nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi
trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn

vay mượn từ NHNN.
Vay trên thị trường vốn: Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân
hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu,
trái phiếu) trên thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư
trung và dài hạn.

15


Ngoài dịch vụ viết luận văn tốt nghiệp của Luận Văn Việt, bạn có thể
tham khảo dịch vụ làm báo cáo thuê, dịch vụ xử lý dữ liệu , nhận viết essay
thuê , thuê viết tiểu luận giá rẻ

1.2.2. Hoạt động tín dụng và đầu tư

Hoạt động tín dụng: Hoạt động chủ yếu của NHTM là tài trợ cho khách

hàng trên cơ sở tín nhiệm (tín dụng). Hình thức tín dụng truyền thống của
NHTM là cho vay ngắn hạn có đảm bảo bằng tài sản, giúp khách hàng mua
hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu; sau đó mở rộng thành nhiều hình thức
khác nhau như cho vay thế chấp bằng bất động sản, bằng các chứng khoán,
giấy tờ có giá… hoặc không cần thế chấp.
Các NHTM lớn hiện nay thực hiện đa dạng các hình thức tín dụng từ
cho vay ngắn, trung và dài hạn, bảo lãnh cho khách (để khách hàng có thể
phát hành các chứng khoán huy động vốn, mua hàng mà chưa cần trả tiền
ngay, hoặc vay của người thứ ba…), mua các tài sản để cho thuê… Các hình
thức tín dụng này, một mặt mang lại thu nhập, mặt khác chứa đựng rủi ro
cho ngân hàng.
Hoạt động đầu tư: NHTM được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp
vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong

nước theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, NHTM còn được góp vốn, mua
cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng
liên doanh.
Bên cạnh đó, NHTM được tham gia thị trường tiền tệ, theo quy định
của NHNN, thông qua các hình thức mua bán các công cụ của thị trường tiền
tệ.

1.2.3. Hoạt động dịch vụ khác

Hoạt động thanh toán và ngân quỹ: Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân
quỹ của NHTM bao gồm các hoạt động sau
+ Cung cấp các phương tiện thanh toán.
+ Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
+ Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
+ Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN.
+ Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép.
+ Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên
ngân hàng trong nước.
Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép.
Kinh doanh ngoại hối: NHTM được phép trực tiếp kinh doanh hoặc thành
lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong
nước và thị trường quốc tế.

16


Uỷ thác và nhận uỷ thác: NHTM được uỷ thác, nhận uỷ thác làm đại lý
trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài
sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng uỷ

thác, đại lý.
Cung ứng dịch vụ bảo hiểm: NHTM được cung ứng dịch vụ bảo hiểm,
được thành lập công

ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm

theo quy định của pháp luật.
Tư vấn tài chính: NHTM được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền
tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư
vấn trực thuộc ngân hàng.
Bảo quản vật có giá: NHTM được thực hiện các dịch vụ bảo quản vật quý,
giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác có liên quan theo
quy định của pháp luật.

1.3. Đặc trưng của ngân hàng thương mại
- Hoạt động của ngân hàng thương mại gắn bó mật thiết với hệ thống lưu
thông tiền tệ
Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng từ người cho vay sang người
đi vay các NHTM đã tự tạo ra những công cụ tài chính thay thế cho tiền làm
phương tiện thanh toán. Trong đó, quan trọng nhất là tài khoản tiền gửi
không kỳ hạn thanh toán bằng séc một công cụ chủ yếu để tiền vận động
qua ngân hàng Hoạt động này đưa lại kết quả là đại bộ phận tiền giao dịch
trong giao lưu kinh tế là tiền qua ngân hàng.
Do đó, hoạt động của hệ thống ngân hàng gắn bó mật thiết với hệ
thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước đồng thời có mối
liên hệ quốc tế rộng rãi. Như vậy, sự phát triển ổn định của hệ thống NHTM
tác động tích cực đến hiệu lực và hiệu quả của chính sách tiền tệ của NHTW
và là cơ sở để tạo ra sự ổn định và phát triển lành mạnh cho nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại là chủ thể thường xuyên nhận và kinh doanh
tiền gửi

Tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất của các NHTM là các khoản cho vay và
đầu tư. Nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất là vốn huy động. Doanh thu
chính của các NHTM là doanh thu từ hoạt động cho vay và chi phí lớn nhất
-

của NHTM là lãi phải trả cho tiền gửi của khách hàng.
Hoạt động của ngân hàng thương mại là hoạt động cung cấp các dịch vụ
Sản phẩm của hoạt động ngân hàng là các dịch vụ. Chất lượng của những
sản phẩm này chủ yếu được đánh giá qua sáu tiêu chí: tính đúng thời gian

17


thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng, tính đồng nhất, sự thuận tiện để
có được sản phẩm tính hoàn chỉnh của sản phẩm dịch vụ, tính chính xác,
không sai sót.
Những yêu cầu trên tác động mạnh mẽ đến hoạt động của NHTM.
Hoạt động cung cấp dịch vụ của NHTM càng đáp ứng được nhiều tiêu chí,
được khách hàng đánh giá tốt thì NHTM không những giữ được khách hàng
cũ mà còn lôi kéo thêm nhiều khách hàng mới. Từ đó, các hoạt động này
-

đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Hoạt động ngân hàng thương mại phong phú đa dạng và có phạm vi rộng
lớn
Hoạt động của NHTM ngày càng tăng về số lượng cùng với sự phát triển của
nền kinh tế. Bên cạnh những hoạt động truyền thống như: nhận tiền gửi,
cấp tín dụng và thanh toán, NHTM còn thực hiện tư vấn tài chính, làm đại lý
tài trợ xuất nhập khẩu, bảo lãnh, đầu tư chứng khoán, kinh doanh ngoại tệ…
Các ngân hàng đang có xu hướng chuyển từ ngân hàng chuyên doanh sang

ngân hàng đa năng.
Sự gia tăng về khối lượng nghiệp vụ ngân hàng kéo theo sự gia tăng về đối
tượng và số lượng khách hàng. Mọi chủ thể trong nền kinh tế đều có thể là
khách hàng của ngân hàng: doanh nghiệp, cá nhân, nhà đầu tư trong nước,
nước ngoài…
Các ngân hàng đều có mạng lưới chi nhánh lớn và do đó đã mở rộng phạm
vi hoạt động của mình không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn vươn
ra khu vực và quốc tế.

1.3.1 Các loại rủi ro trong ngân hàng thương mại
1.3.1.1Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được
đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay. Nói cách khác, “rủi ro tín dụng là khả
năng xảy ra do khách hàng không thực hiện trả nợ theo các điều khoản đã
thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng”.
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi bên đi vay, trong
một giao dịch nào đó, không thực hiện được.
Việc thanh toán tiền vay theo thời hạn và điều kiện trong hợp đồng làm
cho người cho vay phải gánh chịu tổn thất tài chính.
Rủi ro tín dụng có muôn hình muôn vẻ, với nhiều hình thái, cung bậc khác
nhau, chúng tiềm ẩn trong suốt quá trình trước, trong và sau khi cho vay và
biểu hiện ra bên ngoài là món vay không thu hồi được, nợ quá hạn, nợ khó
đòi, mất vốn…

18


Để xem xét thực trạng rủi ro tín dụng của một ngân hàng, người ta
thường phải xét đến tỷ trọng nợ quá hạn cao hay thấp. Trong tỷ trọng nợ

quá hạn, người ta lại chia ra tỷ trọng nợ quá hạn dưới sáu tháng, nợ quá hạn
dưới một năm, nợ quá hạn trên một năm, nợ quá hạn khó đòi, nợ không có
khả năng thu hồi… Các tỷ trọng này càng cao thì khả năng bảo toàn vốn tín
dụng của ngân hàng càng thấp.

1.3.1.2Rủi ro lãi suất

Rủi ro lãi suất là rủi ro phát sinh khi có sự biến động của chênh lệch lãi

suất giữa lãi suất cho vay của ngân hàng với lãi suất phải trả cho việc đi
vay, dẫn đến làm giảm thu nhập của ngân hàng.
Rủi ro này là hậu quả của những thay đổi lãi suất. Trong nền kinh tế, lãi
suất là yếu tố rất nhạy cảm đối với biến động của nền kinh tế; hơn nữa, nó
là công cụ trong việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ. Vì
vậy, rủi ro lãi suất là rủi ro xuất hiện thường xuyên trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng.
Như vậy, rủi ro lãi suất là những tác động do biến động lãi suất đối với
hoạt động của ngân hàng. Rủi ro lãi suất bắt nguồn từ mối quan hệ qua lại
của tài sản Có, tài sản Nợ và các hợp đồng ngoại bảng.
Cơ cấu tài sản Có, tài sản Nợ sẽ quyết định tình trạng rủi ro lãi suất của
một ngân hàng. Tình trạng rủi ro lãi suất phụ thuộc vào mức độ cân đối giữa
tài sản Có và tài sản Nợ mà điển hình là khi ngân hàng dùng tài sản Nợ ngắn
hạn hoặc với lãi suất thay đổi để đầu tư vào tài sản Có dài hạn hơn với lãi
suất cố định.
Ngân hàng sẽ gặp rủi ro khi lãi suất ngắn hạn tăng, chi phí ngân hàng
tăng lên trong khi thu nhập ở tài sản Có dài hạn hơn vẫn giữ nguyên. Nếu
chênh lệch thu nhập ở tài sản Có không bù đắp chi phí nghiệp vụ kinh doanh
thì ngân hàng sẽ bị ăn mòn vào vốn. Ngược lại, khi nhận lại vốn với một thời
hạn và lãi suất ấn định, lợi nhuận ngân hàng sẽ bị giảm khi lãi suất thị
trường bị giảm xuống.


1.3.1.3 Rủi ro hối đoái
Rủi ro hối đoái là rủi ro xuất hiện trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối do
sự biến động về tỷ giá giữa các đồng tiền.
Nếu tỷ giá hối đoái bán ra lớn hơn tỷ giá mua vào thì nhà kinh doanh có
lãi, ngược lại thì bị lỗ.
Trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá luôn biến động, với biến đổi của tỷ giá
hối đoái, bất kỳ một khoản nợ nào cho dù dài hay ngắn, đối với một đồng

19


tiền nhất định, đều có thể tạo cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro tỷ giá
hối đoái.
Sự thay đổi tỷ giá dẫn đến sự thay đổi giá trị ngoại hối, cụ thể:
Nếu ngân hàng có dư dật về ngoại tệ nào đó, khi ngoại tệ đó lên giá,
ngân hàng sẽ có lãi, ngược lại ngân hàng sẽ lỗ khi ngoại tệ đó xuống giá.
Nếu ngân hàng ở vị đoản về loại ngoại tệ nào đó, khi ngoại tệ đó lên giá,
ngân hàng sẽ lỗ và ngược lại ngân hàng sẽ có lãi nếu ngoại tệ đó xuống giá.
Một trạng thái ngoại hối dù ở thế trường hay thế đoản đều có nguy cơ
gây tổn thất cho các nhà giao dịch. Dư dật về ngoại tệ càng lớn thì rủi ro
càng cao khi tỷ giá giảm; ngược lại, đoản về ngoại tệ nào đó càng mạnh thì
rủi ro cũng không ít khi tỷ giá giảm.
Khi phân biệt tình hình lãi, lỗ ngoại hối theo vị thế ngoại hối, người ta so
sánh số lỗ, lãi thực tế xảy ra so với mức lỗ, lãi dự kiến, qua đó đánh giá chất
lượng quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái của một ngân hàng.

1.3.1.4. Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu
rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Trong những trường hợp như vậy,

ngân hàng phải đi vay bổ sung nguồn vốn thanh toán hoặc phải bán tài sản
Có của mình để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi tiền.
Mọi ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng
thanh toán. Khả năng chi trả là khả năng đáp ứng được nhu cầu chi trả hiện
tại, đột xuất, và trong tương lai.
Khi ngân hàng thiếu khả năng chi trả, nếu không được giải quyết kịp thời
có thể dẫn đến mất khả năng chi trả. Khi ngân hàng thừa khả năng chi trả
sẽ dẫn đến đọng vốn, làm giảm khả năng sinh lời, thu nhập của ngân hàng
giảm.
Rủi ro thanh toán nảy sinh do những nguyên nhân sau:
Do mất cân bằng giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn dư thừa quá
lớn, trong khi đó thị trường đầu ra hạn hẹp, nên một số ngân hàng đã dùng
vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn quá mức, dẫn đến
thiếu hụt khả năng chi trả tạm thời cho người gửi tiền.
Khi đến hạn, các khoản cho vay khó thu hồi được, uy tín của ngân hàng
giảm sút, người gửi tiền và người đi vay thường phản ứng trước những khó
khăn của ngân hàng bằng cách sử dụng hết hạn mức tín dụng để đảm bảo
có tiền cho những nhu cầu về sau hoặc rút hết số dư tiền gửi vì sợ có thể
không rút được.
Tất cả những khía cạnh trên dẫn đến những rủi ro trong thanh toán của
ngân hàng. Các nhà chuyên môn khẳng định rằng đây là loại rủi ro riêng của

20


ngân hàng và liên quan đến sự sống còn của ngân hàng. Rủi ro này thường
là hậu quả của một hay nhiều loại rủi ro mà ngân hàng không lường trước
được.
Trong trường hợp này, vốn tự có của ngân hàng không có khả năng bù
đắp hết tất cả các khoản mất mát, thiệt hại, ngân hàng dễ rơi vào tình trạng

vỡ nợ hay phá sản.

1.3.1.5. Rủi ro về nguồn vốn
Rủi ro về nguồn vốn thường xảy ra dưới hai hình thức: rủi ro thiếu vốn và
rủi ro thừa vốn. Trước hết, chúng ta cần phải hiểu rõ về khái niệm thừa và
thiếu vốn trong kinh doanh ngân hàng.
Thừa vốn là tình trạng vốn tồn đọng ở quỹ nghiệp vụ, bao gồm cả quỹ
thanh toán tiền gửi ở ngân hàng Nhà Nước, quỹ tiền mặt, quỹ dự trữ của
ngân hàng.
Thiếu vốn là tình trạng xuất hiện trong các bộ phận thanh toán của ngân
hàng.
Rủi ro về nguồn vốn thường xảy ra dưới hai hình thức: rủi ro thiếu vốn và
rủi ro thừa vốn. Trước hết, chúng ta cần phải hiểu rõ về khái niệm thừa và
thiếu vốn trong kinh doanh ngân hàng.
Thừa vốn là tình trạng vốn tồn đọng ở quỹ nghiệp vụ, bao gồm cả quỹ
thanh toán tiền gửi ở ngân hàng Nhà Nước, quỹ tiền mặt, quỹ dự trữ của
ngân hàng.
Thiếu vốn là tình trạng xuất hiện trong các bộ phận thanh toán của ngân
hàng.
Rủi ro do thừa vốn: Ngân hàng Thương mại thông qua hình thức “đi vay
để cho vay” nhằm kiếm lợi nhuận, còn nguồn vốn tự có ”chỉ là cái đệm
chống đỡ sự sụt giá của các tài sản Có”. Khi nguồn vốn huy động của ngân
hàng bị ứ đọng có nghĩa là ngân hàng không cho vay ra được hoặc không sử
dụng hết, trong khi đó ngân hàng vẫn phải trả lãi cho người gửi tiền, chi các
chi phí nghiệp vụ, các chi phí quản lý. Nếu không khắc phục tình trạng này
thì đến một chừng mực nào đó, mức độ thua lỗ lớn sẽ dẫn đến việc đóng
cửa ngân hàng.
Rủi ro do thiếu vốn: Thừa vốn đã gây khó khăn cho ngân hàng thì việc
thiếu vốn còn tệ hại hơn nhiều. Rủi ro thiếu vốn không thể lường hết mức độ
của nó gây ra vì vốn của ngân hàng phần lớn là vốn huy động (vốn đi vay)

của xã hội để cho vay ra. Nếu thiếu vốn trong thanh toán ngân hàng không
thể thanh toán cho khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền.

21


Nếu với các ngành kinh tế khác thì việc thanh toán chỉ là một phần vốn
của đơn vị và có thể sẽ không khó khăn trong việc khất nợ với khách hàng
(tất nhiên việc làm này không thể kéo dài và thường xuyên), nhưng với hoạt
động của ngân hàng, khi một khách hàng bị khất nợ sẽ kéo theo hàng loạt
khách hàng sẽ đến ngân hàng để rút tiền. Điều xảy ra khi đó sẽ là hoạt
động của ngân hàng bị xáo trộn, mà khả năng cao nhất có thể xảy ra đó là
tuyên bố mất khả năng thanh toán và phá sản.
Như vậy, loại rủi ro này rất nguy hiểm, khó lường hết được hậu quả, thậm
chí nó còn nguy hiểm hơn cả loại rủi ro bất khả kháng do thiên tai, địch hoạ
gây ra bởi lẽ với các loại rủi ro đó ngân hàng vẫn còn khả năng phục hồi với
các loại rủi ro thiếu vốn thì khả năng xấu nhất của một doanh nghiệp có thể
xảy ra.

1.3.1.6 Rủi ro hoạt động ngoại bảng
Một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ trong hoạt động của một ngân
hàng hiện đại là việc mở rộng các nghiệp vụ ngoại bảng. Theo định nghĩa,
hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bảng cân đối tài sản
(nội bảng), bởi vì các hoạt động này không liên quan đến việc nắm giữ các
chứng khoán hay giấy nhận nợ thứ cấp. Tuy nhiên, các hoạt động ngoại
bảng có thể ảnh hưởng đến trạng thái tương lai của bảng cân đối tài sản nội
bảng bởi vì các hoạt động ngoại bảng có thể tạo ra những tài sản Có và tài
sản Nợ bổ sung cho bảng cân đối nội bảng.
Xuất phát từ tính chất của các hoạt động ngoại bảng là ngân hàng thu
được phí trong khi không phải sử dụng đến vốn kinh doanh cho nên đã

khuyến khích phát triển các hoạt động ngoại
Tuy nhiên, hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chẳng hạn, trong
trường hợp công ty phát hành trái phiếu phá sản thì ngân hàng phải đứng ra
thanh toán toàn bộ gốc và lãi chứng khoán do công ty phát hành. Trong thực
tế, những trường hợp thua lỗ nghiêm trọng trong các hoạt động ngoại bảng
đã trở thành nguyên nhân chính khiến cho ngân hàng có thể phá sản.
Ngày nay, hoạt động ngoại bảng rất phong phú và đa dạng. Trong khi
một số hoạt động ngoại bảng được sử dụng tích cực vào việc phòng ngừa rủi
ro lãi suất, rủi ro ngoại hối và rủi ro tín dụng…thì nếu việc quản trị điều hành
không hiệu quả hoặc không đánh giá đúng được tác dụng của các nghiệp vụ
ngoại bảng có thể dẫn đến những tổn thất to lớn.

1.3.1.7. Rủi ro công nghệ và hoạt động
22


Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công
nghệ không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính. Rủi ro
về công nghệ có thể gây nên hậu quả là khả năng cạnh tranh của ngân
hàng giảm xuống đáng kể và là nguyên nhân tiềm ẩn của sự phá sản ngân
hàng trong tương lai.
Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể
phát sinh bất cứ khi nào nếu hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc là khi hệ
thống hỗ trợ bên trong ngừng hoạt động.

1.3.1.8. Rủi ro quốc gia
Ngoài các loại rủi ro ngoại hối, rủi ro lãi suất ngoại tệ… như đã trình bày ở
trên thì ngay cả trong trường hợp ngân hàng đầu tư bằng bản tệ cho các
công ty nước ngoài có trụ sở ở nước ngoài cũng có thể chịu rủi ro đầu tư
nước ngoài, đó là rủi ro Quốc gia.

Rủi ro Quốc gia còn nghiêm trọng hơn cả trường hợp tín dụng mà ngân
hàng gặp phải khi đầu tư cho các công ty nội địa. Trong trường hợp ngân
hàng đầu tư cho công ty nước ngoài thì ngay cả trong trường hợp công ty có
khả năng và sẵn sàng hoàn trả vốn vay, nhưng cũng có thể không thực hiện
được, bởi vì Chính phủ nước này cấm hoặc hạn chế việc thanh toán cho
nước ngoài do dự trữ ngoại hối hạn hẹp hoặc vì lí do chính trị.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
2.1. Hoạt động huy động vốn
Đến cuối tháng 12/2009, tổng nguồn vốn huy động từ nền kinh tế của toàn hệ thống các TCTD
đạt 1.904.194 tỷ đồng, tăng 28,52% so với năm 2008; cuối năm 2010 vốn đạt 2.448.451 tỷ đồng,
tăng 28,58% so với cuối năm 2009, trong đó tăng mạnh nhất là khối các NHTMCP. Khối NHTMNN
và khối NHTMCP hiện vẫn đang chiếm thị phần chi phối trên các mảng hoạt động chính và huy
động được nhiều vốn nhất. Tuy nhiên thị phần của khối NHTMNN đang có xu hướng thu hẹp vì sự
cạnh tranh mạnh mẽ từ khối các NHTMCP và khối NHLD, NHNNg. Thực tế số lượng các
NHTMNN và NHTMNN đã được cổ phần hóa chỉ có 5 NH, trong khi các NH khác chiếm số lượng
lớn nên tính bình quân thì ưu thế vẫn thuộc 5 NH đó. Cụ thể năm 2009, khối NHTMNN đạt 943.434
tỷ đồng; năm 2010 đạt 988.013 tỷ, tăng so với năm trước lần lượt là 11,94%; 4,73%. Đối với khối
NHTMCP năm 2009 đạt 741.217 tỷ, năm 2010 đạt 1.188.273 tỷ; tăng 60,29% và 60,31%. Đối với
các NHNNg, NHLD và các TCTD khác tuy đạt tốc độ cao nhưng vẫn chiếm tỷ trọng thấp. Chẳng
hạn năm 2010 NHLD, NHNNg chiếm tỷ trọng 7%, trong khi đó NHTMNN là 40,35%; NHTMCP
chiếm 48,53%.

23


2.2. Hoạt động tín dụng
Đến cuối tháng 12/2009, tổng dư nợ đối với nền kinh tế đạt 1.755.225 tỷ đồng, tăng so với năm
2008 37,87%. Trong đó khối NHTMNN đạt 949.652 tỷ đồng, tăng 28,27%, khối NHTMCP đạt

560.565 tỷ đồng, tăng 66,06%. Tính đến cuối năm 2010, tổng dư nợ toàn hệ thống đạt 2.321.973 tỷ
đồng, tăng 32,29% so với cuối năm 2009. Trong đó khối NHTMNN đạt 1.090.998 tỷ đồng, tăng
14,88% so với 2009; khối NHTMCP đạt 895.919 tỷ đồng, tăng 59,82%. Rõ ràng tuy với số lượng
NH ít nhưng dư nợ của hệ thống NHTMNN vẫn chiếm ưu thế và tỷ trọng lớn nhất (46,99%). Điều
đó cũng cho thấy khả năng cạnh tranh và thị phần của hệ thống ngân hàng này là rất lớn. Các
NHTM nhà nước vẫn tiếp tục nắm giữ thị phần chủ yếu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, cung
cấp 47% dư nợ tín dụng toàn hệ thống tính tới cuối năm 2010.

2.3. Hoạt động thanh toán
Dịch vụ thanh toán đã có bước phát triển quan trọng trong những năm trở lại đây. Để đáp ứng
nhu cầu ngày càng đa dạng của người sử dụng, nhiều dịch vụ thanh toán mới đã ra đời. Triển khai
tích cực Trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất, kết nối thành một hệ thống thống nhất hệ thống
ATM, POS trên toàn quốc, trong đó 03 liên minh thẻ banknet – VNBC – Smartlink đã kết nối liên
thông 38 thành viên (VNBC: 2 thành viên; Banknet: 11 thành viên; Smartlink: 25 thành viên) là các
các NHTM có 75% số lượng ATM trên toàn quốc và số lượng thẻ phát hành chiếm 87% tổng số thẻ
phát hành của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán là nền tảng quan trọng cho việc phát triển
dịch vụ thanh toán.
Đến cuối năm 2010, đã có trên 24,5 triệu thẻ với 53 tổ chức phát hành thẻ và hơn 198 thương
hiệu thẻ. Các dịch vụ tiện ích đi kèm ngày càng được đa dạng hóa như thẻ mua xăng dầu, thẻ mua
hàng qua mạng, thanh toán tiền điện, nước …
Việc phát triển mạnh mẽ thanh toán điện tử trong thời gian qua tạo thói quen thanh toán không
dùng tiền mặt cho người dân. Tỷ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán có xu hướng giảm từ
20,3% năm 2004 10 xuống còn 14,6% năm 2008; 14,5% năm 2009 và 14,2% vào năm 2010. Tài
khoản cá nhân có mức tăng trưởng cao hàng năm: 150% xét về số tài khoản và 120% xét về số dư.
Số lượng các tài khoản cá nhân đã tăng từ 135.000 năm 2000 lên khoảng 5 triệu vào năm 2005, trên
8 triệu vào năm 2007 và 14 triệu vào cuối năm 2009 và gần 17 triệu vào cuối năm 2010. So với các
nước trong khu vực và trên thế giới thì số ATM và POS tính trên đầu người vẫn còn một khoảng
cách khá xa

2.4. Hoạt động ngoại hối

Trên lĩnh vực ngoại hối với cơ chế chính sách ngày càng thông thoáng, phù hợp với thông lệ
quốc tế. Với những điều chỉnh, thay đổi linh hoạt phù hợp với tình hình thực tế như thay đổi trong
hoạt động xác nhận vay trả nợ, chuyển tiền cá nhân, kinh doanh mua bán ngoại tệ, nghiệp vụ Option

24


mua bán ngoại tệ, vàng ... đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho khách hàng. Nổi bật trong thời gian
vừa qua là một số NHTM đã mạnh dạn thực hiện dịch vụ quyền chọn ngoại tệ - Option.
Đây là một hình thức bảo hiểm tỷ giá cho các doanh nghiệp. Thị trường tài chính Việt Nam
hiếm có các công cụ phòng ngừa rủi ro cho các nhà đầu tư nước ngoài vốn rất hay có thói quen sử
dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh quốc tế. Trên thực tế, thị trường hiện nay
cũng tồn tại một số các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá như các giao dịch kỳ hạn (forward), hoán
đổi (swap), quyền chọn tiền tệ và vàng. Nhưng hầu như các công cụ phòng ngừa rủi ro trên chỉ tồn
tại cho có, và hầu như cũng rất ít các nhà đầu tư sử dụng các công cụ trên. Khi hội nhập quốc tế,
NHNN cho phép các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam tham gia thực hiện dịch vụ
quyền chọn ngoại tệ - Option, điều này sẽ làm phát triển thị trường Option của Việt Nam vì họ có bề
dày kinh nghiệm.

CHƯƠNG 3 : ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA NHTM
3.1 Những kết quả đạt được
- Thời gian qua, các NHTM đã liên tục tăng vốn thông qua thị trường chứng khoán và bán cổ
phần cho các đối tác chiến lược là các tổ chức tài chính nước ngoài. - Cơ sở vật chất, trang thiết bị,
công nghệ ngân hàng ngày càng được nâng cấp. Đồng thời, trình độ đội ngũ nhân viên NH ngày
càng nâng lên, có tính 11 chuyên nghiệp hơn ... giúp việc xử lý, tác nghiệp được chính xác. Các NH
đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ và nâng cao năng lực quản trị, điều hành trên cơ sở tăng cường áp
dụng các thông lệ quốc tế về quản trị doanh nghiệp và từng bước thiết lập các định chế quản trị rủi
ro. Các nghiệp vụ ngân hàng cơ bản không ngừng được chuẩn hoá và tích hợp thống nhất dựa trên
nền tảng công nghệ thông tin hiện đại để hỗ trợ cho quá trình quản lý, điều hành tập trung của các

NH. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng được đưa vào vận hành năm 2002 và hạ tầng công
nghệ thông tin của ngành ngân hàng được hiện đại hoá một bước góp phần quan trọng thúc đẩy phát
triển các dịch vụ ngân hàng mới, đặc biệt các dịch vụ thanh toán và ngân hàng điện tử (internet
banking, telephone banking, ATM, thẻ tín dụng, thẻ thanh toán…). Các NH Việt Nam ngày càng
hoạt động mang tính chuyên nghiệp và có uy tín hơn với quốc tế.
- Tổ chức bộ máy của các NHTM được hiện đại hoá.
Hiệu quả kinh doanh của các TCTD đã được cải thiện rõ rệt, hầu hết các TCTD kinh doanh có lãi,
ngày càng đi vào nề nếp và có hiệu quả ... góp phần làm tăng uy tín với dân chúng trong giao dịch,
ký thác. - Mạng lưới giao dịch được mở rộng, đều khắp tại các vùng kinh tế trọng điểm nhằm cung

25


×