Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ NĂNG LỰC KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CỦA MỘT QUỐC GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.33 MB, 41 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu:..............................................................................................................1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN VÀ NĂNG LỰC KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CỦA MỘT QUỐC GIA
...................................................................................................................................2
1. Tổng quan về Đầu tư phát triển.....................................................................2
1.1. Khái niệm, bản chất của đầu tư phát triển............................................2
1.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển...............................................................3
1.3. Vai trò của đầu tư phát triển...................................................................4
1.4. Nguồn vốn đầu tư phát triển...................................................................6
2. Tổng quan về năng lực KHCN.....................................................................10
2.1. Khái niệm:...............................................................................................10
2.2. Vai trò:.....................................................................................................10
2.3. Các chỉ tiêu ảnh hưởng đến năng lực khoa học công nghệ của một
quốc gia...........................................................................................................12
3. Lý luận về mối quan hệ giữa đầu tư phát triển và năng lực khoa học công
nghệ của một quốc gia.......................................................................................13
3.1. ĐTPT ảnh hưởng đến NLKHCN..........................................................13
3.2. NLKHCN ảnh hưởng đến ĐTPT..........................................................16
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ ĐTPT VÀ NLKHCN TẠI
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN (2014-2018).................................................19
1. Tình hình đầu tư phát triển tại việt nam trong giai đoạn 2014 – 2018.....19
2. Tình hình khoa học công nghệ tại Việt Nam trong giai đoạn 2014 – 2018.
.............................................................................................................................21
3. Mối quan hệ Đầu tư phát triển – Năng lực khoa học công nghệ tại Việt
Nam.....................................................................................................................23

4.

3.1


. Đầu tư phát triển tác động đến Năng lực khoa học công nghệ.....23

3.2.

Năng lực khoa học công nghệ ảnh hưởng đến đầu tư phát triển.. .25

Đánh giá chung về mối quan hệ ĐTPT – NLKHCN..............................29


4.1. Tích cực đến năng lực khoa học công nghệ..........................................29
4.2.

Tiêu cực................................................................................................30

CHƯƠNG III: Đề xuất giải pháp nhằm tăng cường tác động tích cực và hạn
chế tác động tiêu cực trong mối quan hệ giữa đầu tư phát triển và năng lực
khoa học công nghệ của Việt Nam.......................................................................31
1. Định hướng Đầu tư phát triển và NLKHCN của Việt Nam trong thời gian
tới........................................................................................................................31
2. Biện pháp tích cực hóa..................................................................................33
3. Hạn chế tiêu cực.............................................................................................34
4. Kết luận:.........................................................................................................35
Tài liệu tham khảo.................................................................................................36


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNH

Công nghiệp hóa


HĐH

Hiện đại hóa

KHCN

Khoa học công nghệ

NLKHCN

Năng lực khoa học công nghệ

DN

Doanh nghiệp

KHKT

Khoa học kĩ thuật

ĐTPT

Đầu tư phát triển

NSNN

Ngân sách nhà nước

KTQT


Kinh tế quốc tế


Lời mở đầu:
Khoa học công nghệ là một phần không thể thiếu ở tất cả các lĩnh vực như giáo
dục, y tế, kinh tế v.v. Đặc biệt KHCN đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Nhờ có KHCN mà năng suất lao
động của thế giới đã tăng gấp trăm gấp nghìn lần so với 100 năm về trước khi mà
con người vẫn còn lao động thủ công bằng tay chân. Chính vì vậy KHCN là quốc
sách hàng đầu, đòn bẩy chính thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển bền vững. Bất kì
một quốc gia nào trên thế giới muốn thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội một cách
nhanh chóng thì đều phải chú trọng vào KHCN.
Chính vì thế nên các hoạt động đầu tư phát triển hiện nay hầu hết tập trung vào
đầu tư về KHCN. Chúng ta sẽ lấy Nhật Bản là một ví dụ. Nhật Bản là một trong
những cường quốc đi đầu về công nghệ thông tin và chính việc phát triển công
nghệ thông tin và tầm nhìn của người Nhật đã giúp cho đất nước Nhật trở thành
một quốc gia lớn mạnh hàng đầu thế giới. Khi mà bây giờ cả thế giới đang ở trong
bối cảnh của cuộc các mạng công nghiệp 4.0 thì Nhật đã nói tới và đề ra nhiệm vụ
xã hội 5.0. Với Xã hội 5.0, có bốn yếu tố kỹ thuật đóng vai trò quan trọng nhất trí
tuệ nhân tạo (AI), big data, tự động hóa (robot) và IoT (internet vạn vật). Trong Xã
hội 5.0, một lượng dữ liệu vô cùng lớn được thu thập từ rất nhiều nguồn khác nhau,
thông qua IoT, từ các cảm biến, camera v.v. trong không gian thực được tích lũy
vào “không gian đám mây” (có thể gọi là không gian ảo). Tại không gian ảo đó, trí
tuệ nhân tạo với khả năng phân tích, dự đoán vượt cả trí tuệ của con người sẽ phân
tích khối dữ liệu khổng lồ nói trên, và truyền kết quả phân tích trở lại cho không
gian thực dưới rất nhiều hình thức khác nhau. Trước đây, trong xã hội thông tin (Xã
hội 4.0), dữ liệu được thu thập về sẽ do con người phân tích, còn trong Xã hội 5.0,
con người, vạn vật và các hệ thống được kết nối với nhau tại không gian ảo, siêu
thông minh. Có thể ví von một cách hình tượng cho dễ hiểu là không gian ảo có trí
tuệ nhân tạo là bộ não, robot-tự động hóa là cơ bắp và IoT và các dữ liệu lớn được

phân tích làm nên hệ thần kinh, và kết quả phân tích được kỳ vọng là những kết
quả tối ưu, vượt quá cả khả năng phân tích của con người. Nếu trong xã hội 4.0,
người máy thực hiện, thao tác theo sự điều khiển của con người, thì trong Xã hội
5.0, sẽ có người máy siêu thông minh, biết cảm thụ và nhận thức, có thể đưa ra các
quyết định thay cho con người. Từ đây rút ra được rằng KHCN và phát triển kinh

1


tế xã hội là tỉ lệ thuận với nhau. Năng lực KHCN và đầu tư phát triển có mỗi quan
hệ không thể tách rời trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN VÀ NĂNG LỰC KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CỦA MỘT QUỐC GIA
1. Tổng quan về Đầu tư phát triển.
1.1. Khái niệm, bản chất của đầu tư phát triển
Đầu tư là quá trình sử dụng phối hợp các nguồn lực trong một khoảng thời
gian xác định nhằm đạt được kết quả hoặc một tập hợp các mục tiêu xác định trong
điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là phương thức đầu tư trực
tiếp nhằm duy trì và tao ra giá trị và năng lực sản xuất, năng lực phục vụ của tài
sản. Qua hoạt động đầu tư này, năng lực sản xuất và năng lực phục vụ của nền kinh
tế cũng gia tăng.
Tìm hiểu cụ thể, thì bản chất của đầu tư phát triển bao gồm các nội dung chủ
yếu sau:
- Đầu tư phát triển đòi hỏi rất lớn nhiều loại nguồn lực như: tiền vốn, đất đai, lao
động, máy móc, thiết bị, tài nguyên…
- Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn
thực hiện nhằm đạt những mục tiêu nhất định: Trên góc độ phân công lao động xã
hội thì hai nhóm đối tượng là đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ. Trên góc
độ tính chất và muc đích đầu tư, đối tượng là công trình vì mục tiêu lợi nhuận và

công trình phi lợi nhuận. Trên góc độ mức độ quan trọng, đối tượng đầu tư gồm
loại được khuyến khích đầu tư, loại không được khuyến khích đầu tư và loại cấm
đầu tư. Trên góc độ tài sản, đối tượng là tài sản vật chất (tài sản thực: tài sản cố
định sử dụng cho sản xuất kinh doanh và tài sản lưu động) và tài sản vô hình (phát
minh sáng chế, uy tín, thương hiệu)
- Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản: gồm tài sản vât chất
(nhà xưởng, thiết bị…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ
thuật…) và tài sản vô hình (phát minh sáng chế, bản quyền…)
- Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc gia,
cộng đồng và nhà đầu tư: Đầu tư nhà nước nhằm thúc đầy tăng trưởng kinh tế,
2


tăng thu nhập quốc dân, góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống của các
thành viên trong xã hội. Đầu tư của doanh nghiệp nhằm tối thiểu chi phí, tối đa lợi
nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực…
- Đầu tư phát triển thường được thực hiện bởi môt chủ đầu tư nhất định: Theo
Luật đầu tư năm 2005, chủ đầu tư là người sở hữu vốn hoặc được giao quản lý, sử
dụng vốn đầu tư. Bởi vậy, chủ đầu tư là người ra quyết định đầu tư hoặc được giao
quản lý quá trình thực hiện, vận hành kết quả đầu tư và được hưởng lợi từ thành
quả đầu tư đó; đồng thời chủ đầu tư cũng chịu trách nhiệm kiểm tra giám sát đầu
tư, chịu trách nhiệm toàn bộ về những sai phạm và hậu quả do ảnh hưởng của đầu
tư đến môi trường, trực tiếp ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả đầu tư.
- Hoạt động đầu tư phát triển là một quá trình, diễn ra trong thời kỳ dài và tồn tại
vấn đề “độ trễ” thời gian: Độ trễ thời gian là sự không trùng hợp giữa thời gian
đầu tư với thời gian vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư trong hiện tại nhưng kết
quả đầu tư có “độ trễ” do thời gian vận hành nằm ở tương lại.

1.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển
Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi vốn lớn, vốn này nằm khê đọng trong suốt

quá trình thực hiện đầu tư: Đặc điểm này liên quan đến quyết định bỏ vốn của chủ
đầu tư. Do quy mô vốn lớn nên đòi hỏi phải có giải pháp tạo và huy động vốn hợp
lý, xây dựng chính sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý vốn đầu tư
chặt chẽ, bố trí vốn theo đúng tiến độ đầu tư, thực hiện đầu tư đúng trọng tâm trọng
điểm. Bên cạnh đó, trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, cần nghiên cứu kỹ từ luật pháp
liên quan đến hoạt động đầu tư, nghiên cứu nhu cầu thị trường, môi trường đầu tư
đến yếu tố đầu vào, công nghệ sử dụng,… để đảm bảo nguồn vốn lớn được sử
dụng đúng mục đích và đạt hiệu quả tối ưu.
Hoạt động đầu tư phát triển có tính chất lâu dài: Tính lâu dài thể hiện trong cả
thời gian thực hiện đầu tư kéo dài cho đến thời gian vận hành các kết quả đầu tư
cũng kéo dài.
- Thời gian thực hiện đầu tư được tính từ khi khởi công thực hiện dự án
đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Do thời gian này có thể
kéo dài hàng chục năm cùng với lượng vốn lớn nằm khê đọng dưới dạng
các công trình xây dựng dở dang, nên cần xem xét và phân tích kỹ lưỡng
để đưa ra các quyết định sử dụng vốn hợp lý, khắc phục tình trạng thiếu
3


vốn, nợ đọng đồng thời nghiên cứu sự thay đổi các chính sách pháp luật,
hay môi trường đầu tư để kịp thời điều chỉnh hoạt động đầu tư phù hợp.
- Thời gian vận hành các kết quả đầu tư được tính từ khi công trình đưa
vào hoạt động đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Trong
quá trình vận hành, công trình luôn chịu sự tác động, cả về mặt tiêu cực
lẫn mặt tích cực, của các yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội, ...
Kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian: Kết quả là sự so
sánh những gì đạt được với mục tiêu đã đề ra. Hiệu quả là sự so sánh thành quả đạt
được với chi phí sử dụng. Hoạt động đầu tư luôn diễn ra trong môi trường biến
động theo thời gian và không gian, nên đôi khi mục tiêu đề ra hay chi phí sử dụng

sẽ thay đổi theo sự biến động đó, cho nên thành quả đạt được cũng sẽ khác với dự
kiến ban đầu. Bởi vậy, kết quả và hiệu quả cũng đồng thời thay đổi linh hoạt theo
sự biến đổi của không gian và thời gian, nơi diễn ra hoạt động đầu tư.
Thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng, thường
phát huy tác dụng ở ngay nơi nó được tạo dựng nên, do đó quá trình thưc hiện đầu
tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân
tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng: Đặc điểm này liên quan đến việc lựa chọn địa
điểm cho việc thực hiện dự án với nhiều vấn đề cần xem xét như: vấn đề quy hoạch
địa phương nơi đặt dự án; vấn đề giá thuê đất, mua đất và giá thành xây dựng công
trình; vấn đề tiêu thụ sản phẩm, chi phí vận chuyển.
Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao: Do qui mô vốn đầu tư lớn, hoạt động đầu tư
có tính chất lâu dài, … nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường
cao. Nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư như: quản lý kém, chất lượng
sản phẩm không đạt yêu cầu, … Nguyên nhân khách quan như giá nguyên liệu
tăng, giá bán sản phẩm giảm, công suất sản xuất không đạt công suất thiết kế, …
Vì vậy, cần đề ra các biện pháp quản lý rủi ro, gồm: nhận diện rủi ro đầu tư, đánh
giá mức độ rủi ro, xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro nhằm hạn chế tối
thiểu các thiệt hai có thể xảy ra.

1.3. Vai trò của đầu tư phát triển
a. Ở phạm vi nền kinh tế.
- Tác động đến tổng cầu, tổng cung của nền kinh tế
4


+ Tác động đến tổng cầu: Xét mô hình kinh tế vĩ mô: AD = C + I + G + NX
Đầu tư là một bộ phận quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu. Tác
động của đầu tư thể hiện rõ nét nhất trong ngắn hạn. Khi tổng cung chưa kịp thay
đổi, gia tăng đầu tư (I) sẽ làm tổng cầu (AD) tăng.
+ Tác động đến tổng cung: Cung trong nước phụ thuộc các yếu tố sản xuất:

vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ, …: Q = F (K, L, T, R…)
Khi tăng qui mô đầu tư, sẽ làm gia tăng trực tiếp tổng cung của nền kinh tế
khi các yếu tố khác không đổi. Đầu tư còn mang lại tác động nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ, … gián tiếp làm tăng tổng cung.
- Tác động đến tăng trưởng kinh tế
Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng
tăng trưởng. Tăng qui mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý góp phần nâng
cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, nâng cao sức cạnh
tranh của nền kinh tế, … từ đó làm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Biểu hiện cụ thể mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thông qua hệ số
ICOR (tỷ số gia tăng của vốn so với sản lượng) là tỷ số giữa qui mô vốn đầu tư
tăng thêm với mức gia tăng sản lượng hay là suất đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn
vị sản lượng (GDP) tăng thêm.
Đầu tư ảnh hưởng đến chất lượng tăng trưởng thông qua các nhân tố chính:
vốn (K), lao động (L) và năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Trong đó, TFP
phản ảnh sự gia tăng chất lượng lao động, chất lượng máy móc, vai trò của quản lý
và tổ chức sản xuất. TFP phụ thuộc tiến bộ công nghệ và hiệu quả sử dụng vốn, lao
động.
- Tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đầu tư tác động làm cơ cấu kinh tế chuyển dịch phù hợp với qui luật và
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo ra sự cân
đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân, giữa các ngành, vùng và phát huy được
nội lực của nền kinh tế.
Đối với cơ cấu ngành, đầu tư vốn vào ngành nào, qui mô nhiều hay ít, hiệu
quả sử dụng vốn cao hay thấp, … đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, khả năng
tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề vật chất để phát triển các
ngành mới, … do đó làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành.
5



Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư góp phần giải quyết những mất cân đối về
phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đảm bảo chất lượng cho quá trình đô thị hóa…
Đối với cơ cấu theo thành phần kinh tế, đầu tư góp phần khuyến khích các
thành phần kinh tế, động viên mọi nguồn lực tham gia phát triển kinh tế xã hội.
- Tác động đến sự tăng năng lực khoa học công nghệ của đất nước
Đầu tư là nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát triển khoa học
công nghệ của một doanh nghiệp và quốc gia. Tùy vào mỗi thời kỳ phát triển mà
các quốc gia sẽ có các chiến lược khác nhau để đầu tư phát triển công nghệ.
- Tác động tới tiến bộ xã hội và môi trường
Đầu tư là nhân tố gián tiếp góp phần xây dựng xã hội tiến bộ. Đầu tư đúng
trọng tâm trọng điểm và đồng bộ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững, qua đó nâng cao thu nhập người dân, cài thiện mức sống vật chất, tiếp
cận các dịch vụ cơ bản của xã hội như y tế, giáo dục. Hoạt động đầu tư cũng trực
tiếp cung cấp công ăn việc làm cho người dân, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Đầu tư tác động tới môi trường: Ở góc độ tích cực, thông qua mục tiêu, kế
hoạch đặt ra trong công tác huy động vốn và nguồn lực vào các vùng kinh tế, các
ngành, thông qua hoạt động sử dụng vốn, đầu tư đã góp phần khắc phục và giảm
bớt sự ô nhiễm, cân bằng lại môi trường sinh thái. Những hình thức đầu tư phát
triển sản xuất đã sử dụng nguyên liệu tái chế, tận dụng, tiết kiệm tài nguyên môi
trường.
Ở góc độ tiêu cực, hoạt động đầu tư trên cơ sở các nguồn lực sẵn có, không
thể tái tạo đang ngày càng cạn kiệt; sử dụng đầu vào là nguồn tài nguyên có khả
năng tái tạo không hợp lý dẫn đến mất cân bằng sinh thái; thải chất độc hại ra môi
trường khiến môi trường ngày càng ô nhiễm nặng nề.
b. Ở phạm vi doanh nghiệp
Hoạt động đầu tư quyết định đến sự ra đời, tồn tại và phát triển của các
doanh nghiệp. Trong hoạt động đầu tư, doanh nghiệp bỏ vốn dài hạn nhằm hình
thành và bổ sung những tài sản cần thiết để thực hiện những mục tiêu kinh doanh.
Hoạt động này được thực hiện tập trung thông qua việc thực hiện các dự án đầu tư.


1.4. Nguồn vốn đầu tư phát triển
6


a. Nguồn vốn đầu tư trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế bao
gồm tiết kiệm của khu vực tư dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết
kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất của xã hội, bao gồm:
* Nguồn vốn Nhà nước
- Nguồn vốn ngân sách Nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách
Nhà nước cho đầu tư. Đây là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lựơc
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng
cho các dự án kết cấu kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án
của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước, chi cho các
công tác lập và thực hiện các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng,
lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
Trong nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư còn có một bộ phận
vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư phát triển, được cấp cho các đơn vị hành chính
sự nghiệp để sửa chữa, cải tạo, mở rộng cơ sở vật chất hiện có nhằm phục hồi hoặc
tăng giá trị tài sản cố định (bao gồm cả việc xây dựng mới các hạng mục công trình
trong các cơ sở đã có của các cơ quan đơn vị hành chính sự nghiệp). Đây là loại chi
lưỡng tính, mang tính không thường xuyên do không đều đặn, ổn định hàng năm
như chi lương, quản lý hành chính…, nhưng lại được cân đối vào chi thường xuyên
do dùng để phục vụ hoạt động sự nghiệp và không mang tính then chốt như chi đầu
tư thông thường.
- Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Cùng với quá trình
đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng vai trò
đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể việc bao cấp

vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn
này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đàu tư là người vay vốn phải
tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ hình thức cấp phát ngân sách
sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
- Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước: Được xác định là thành phần
chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối
lượng vốn khá lớn. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công
bằng thì khu vực thì khu vực kinh tế Nhà nước với sự tham gia của các doanh
7


nghiệp Nhà nước vẫn đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế nhiều thành
phần. Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, hiệu quả hoạt động
của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp
Nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư
của toàn xã hội.
* Nguồn vốn của dân cư và tư nhân: Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm
phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp
tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng
vốn rất tiềm năng mà chưa được huy động tối đa.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong
dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hay do tích luỹ tryuền
thống. Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn
tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt… Nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng
nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Vốn của dân cư phụ thuộc
vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của các nguồn tiết kiệm này
phụ thuộc vào:
● Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp
thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp).

● Tập quán tiêu dùng của dân cư.
● Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và
các khoản đóng góp với xã hội.
b. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nuớc ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là
dòng lưu chuyển vốn quốc tế (international capital flows). Về thực chất, các dòng
lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa
các quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các
nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển thường được các nước thế giới thứ
ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này diễn ra với nhiều hình thức, mỗi hình thức có
đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có
thể phân loại như sau:
● Tài trợ phát triển chính thức (ODF - official development finance)
Nguồn này bao gồm: Viện trợ phát triển chính thức (ODA -offical
development assistance) và các hình thức viện trợ khác, trong đó, ODA chiếm tỷ
trọng chủ yếu trong nguồn ODF.
8


ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước
ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình
thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác.
Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay tương đối lớn, bao giờ
trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất
25%.
Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi kèm
các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục
chuyển giao vốn và thị trường…). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này với
thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu
không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền

kinh tế. Điều này có hàm ý rằng, ngoài những yếu tố thuộc về nội dung dự án tài
trợ, còn cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được
những mục tiêu có tính nguyên tắc
● Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại
Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn
vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các ràng
buộc về chính trị. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương
đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao, gây trở ngại không
nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng
trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu
hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường
được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và thường là ngắn hạn. Một
bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó
có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là
tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa.
● Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
FDI có đặc điểm cơ bản khác nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận
nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên
vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư
hoạt động có hiệu quả. FDI mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước
nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành
đòi hỏi cao về trình độ kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế nguồn vốn
này có tác dụng rất to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu
9


kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư, nhất là các nước đang
phát triển.
● Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế

Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường
vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng vế các nguồn
vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn
cầu. Ngay tại nhiều nước đang phát triển, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng
khoán cũng gia tăng mạnh mẽ. Mặc dù vào nửa cuối những năm 1990, có sự xuất
hiện của một số cuộc khủng hoảng tài chính nhưng đến cuối năm 1999 khối lượng
giao dịch chứng khoán tại các thị trường mới nổi vẫn đáng kể. Riêng năm 1999,
dòng vốn đầu tư dưới dạng cổ phiếu vào Châu Á đã tăng gấp 3 lần năm 1998, đạt
15 tỷ USD.

2. Tổng quan về năng lực KHCN
2.1. Khái niệm:
Khoa học chính là hệ thống tri thức của loài người, còn công nghệ lại là việc
tập hợp các kinh nghiệm, phương pháp, bí quyết, các công cụ, phương tiện để
chuyển hóa các nguồn lực thành thứ mà mình mong muốn. Tất cả được thực hiện
dựa trên nền tảng của khoa học. Công nghệ bao gồm những yếu tố chính là con
người, công cụ, thông tin và tổ chức. Bốn yếu tố này có quan hệ đan xen nhau và
cùng trả lời cho câu hỏi “làm như thế nào”. Khoa học công nghệ vốn thường được
nhắc đến như hai yếu tố không thể tách rời nhau. Tuy nhiên, có rõ sự khác biệt khi
một bên là nền tảng tri thức, còn một bên là cách thức vận hành cụ thể. Giữa hai
bên có mối quan hệ tác động qua lại, biện chứng lẫn nhau. Như hiện nay, sự phát
triển của khoa học và công nghệ đang diễn ra gần như là đồng thời. Chúng thúc
đẩy lẫn nhau, phản ánh một phần sự phát triển hiện đại của thế giới. Như vậy, năng
lực KHCN chính là những cái sẵn có về KHCN để áp dụng vào các lĩnh vực kinh
tế xã hội v.v. giúp phát triển kinh tế xã hội một cách có hiệu quả.
2.2. Vai trò:
Đầu tiên, khoa học công nghệ góp phần gia tăng năng suất lao động của
nền kinh tế.
10



Minh chứng điển hình là với sự phát triển tột bậc của khoa học công nghệ,
năng suất lao động của thế giới hiện tại đã tăng gấp hàng trăm, nghìn lần so với
100 năm trước. Một nền kinh tế với trình độ khoa học công nghệ thấp kém thì sẽ
mất rất nhiều năm để bắt kịp với các nền kinh tế khác nếu không chịu khó thay đổi.
Khoa học công nghệ giúp con người khai thác các nguồn lực tự nhiên hiệu quả
hơn. Trình độ khoa học công nghệ sẽ đi đôi với năng lực sản xuất của nền kinh tế.
Tiếp theo, sự phát triển của khoa học công nghệ giúp đẩy mạnh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tích cực, khoa học công nghệ đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Vì khoa học
công nghệ phát triển sẽ đi đôi với các ngành công nghiệp, dịch vụ có những bước
nhảy vọt thần kỳ. Giúp tỷ trọng trong GDP của các ngành công nghiệp và dịch vụ
tăng dần, gián tiếp đẩy tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm xuống.
Điển hình là xu thế phát triển kinh tế gần đây của các hộ gia đình ở các tỉnh
huyện miền núi. Rất nhiều nông dân đã tiếp cận được với máy móc công nghệ đại.
Họ chuyển từ những nghề nông truyền thống quanh năm chân lấm tay bùn. Sang
mở các xưởng sản xuất quy mô nhỏ. Giúp họ nhanh chóng có được thu nhập cao,
ổn định. Tất cả điều này đạt được nhờ sự phát triển của khoa học, công nghệ. Khi
các máy móc, dây chuyền tự động hiện đại đều rất dễ vận hành, không yêu cầu
chuyên môn.
Thứ ba, khoa học công nghệ phát triển góp phần gia tăng sức cạnh tranh
hàng hóa, đẩy mạnh kinh tế thị trường.
Đặc biệt trong kinh tế hàng hóa, khi mục tiêu cuối cùng của các doanh
nghiệp luôn là tối đa hóa lợi nhuận. Để đạt được điều này, họ phải tiếp cận từ nhiều
hướng, trong đó có giảm chi phí sản xuất. Hay cải tiến hình thức mẫu mã sản
phẩm. Tất cả những điều này được thực hiện đều dựa trên việc áp dụng các tiến bộ
khoa học công nghệ mới nhất vào quy trình sản xuất.
Cuối cùng, phát triển khoa học và công nghệ thúc đẩy tăng trưởng và phát
triển kinh tế.

Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng kinh tế như: chính
sách, thể chế chính trị, nguồn lực tự nhiên, đất đai, nguồn vốn, đặc điểm lực lượng
11


lao động, các yếu tố về văn hóa, tôn giáo, dân tộc,… Trong đó khoa học và công
nghệ là yếu tố hàng đầu. Nó quyết định sự thay đổi của năng suất lao động và chất
lượng sản phẩm dịch vụ. Qua đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Những phát minh
mới được ứng dụng vào sản xuất đã và đang giúp giảm bớt lao động tay chân. Đặc
biệt là những công việc nguy hiểm, độc hại. Khoa học công nghệ phát triển còn
góp phần tạo nên những phương thức sản xuất mới.
Như vậy, năng lực KHCN có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc phát
triển nền kinh tế. Do đó việc đầu tư phát triển cho KHCN là không thể thiếu đối
với bất kì quốc gia nào nhằm phát triển nền kinh tế bền vững và phát triển lớn
mạnh.
2.3. Các chỉ tiêu ảnh hưởng đến năng lực khoa học công nghệ của một quốc
gia.
Chỉ tiêu đầu tiên và là quan trọng nhất chính là tỷ trọng chi ngân sách nhà
nước cho khoa học công nghệ. Giá trị này càng cao càng tốt, cho thấy khoa học
công nghệ là một lĩnh vực trọng điểm của Nhà nước. Khỏng chỉ có vậy, đầu tư
ngày càng nhiều vào khoa học công nghệ, đặc biệt là đào tạo con người cho lĩnh
vực này giúp ích rất nhiều cho quá trình phát triển quốc gia.
Chỉ tiêu thứ hai cũng không kém phần quan trọng là HDI (chỉ số phát triển
con người). Chỉ số HDI càng cao chứng tỏ quốc gia phát triển con người đang đi
đúng hướng, dễ tiếp cận với trình độ khoa học công nghệ tân tiến của thế giới.
Chỉ tiêu thứ ba là cơ sở hạ tầng công nghệ. Để phát triển năng lực khoa học
công nghệ không chỉ yêu cầu vốn đầu tư từ NSNN hay phát triển con người mà cần
phải có được một hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ tốt.
Ngoài ra có thể dựa trên phương pháp Atlas, được khởi xướng từ một dự án
công nghệ do trung tâm chuyển giao công nghệ Châu Á Thái Bình Dương

(APCTT) thuộc Ủy ban Kinh tế-Xã hội Châu Á Thái BÌnh Dương (UN - ESCAP)
nghiên cứu và ban hành bộ tài liệu “Nguyên lý phát triển dựa trên cơ sở công
nghệ” dùng để áp dụng cho các quốc gia trong khu vực trong đó hướng dẫn khá chi
tiết các nội dung và phương pháp đánh giá hiện trạng công nghệ ở mỗi quốc gia.
Phương pháp này tập trung khảo sát các chỉ số công nghệ ở 3 quy mô: doanh
12


nghiệp, ngành công nghiệp, quốc gia. Trong đó đặc biệt là quy mô quốc gia, ở đây
xem xét các nguồn lực công nghệ và cơ sở hạ tầng công nghệ dựa trên các thành
phần công nghệ (thành phần kỹ thuật, thành phần con người, thành phần thông tin,
thành phần tổ chức) của các quy mô dưới nhằm xác định hàm lượng công nghệ gia
tăng, đánh giá năng lực và đưa ra chiến lược công nghệ.
3. Lý luận về mối quan hệ giữa đầu tư phát triển và năng lực khoa học công
nghệ của một quốc gia
3.1. ĐTPT ảnh hưởng đến NLKHCN.
Về mặt tích cực:
Hiện nay, việc phát triển khoa học công nghệ là một vấn đề cấp thiết đối với
mỗi quốc gia. Vì vậy cần đầu tư để phát triển khoa học công nghệ. Đầu tư vốn cho
khoa học công nghệ là một hướng đầu tư quan trọng và với đặc thù là đầu tư chiều
sâu. Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát triển
khoa học, công nghệ của một doanh nghiệp và quốc gia.
Đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ. Phát
triển sản phẩm mới và các lĩnh vực hoạt động mới đòi hỏi cần đầu tư cho các hoạt
động nghiên cứu, triển khai, ứng dụng công nghệ. Đầu tư nghiên cứu hoặc mua
công nghệ đòi hỏi vốn lớn và độ rủi ro cao.
Đầu tư tác động làm tăng năng lực khoa học công nghệ của đất nước: Đầu tư
và đặc biệt là đầu tư phát triển trực tiếp tạo mới và cải tạo chất lượng năng lực sản
xuất, phục vụ của nền kinh tế và của các đơn vị cơ sở. Chính vì vậy, đầu tư cũng là
điều kiện tiên quyết cho quá trình đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ của

quốc gia.
Đối với đầu tư nước ngoài, hoạt động của doanh nghiệp FDI thường gắn với
các chương trình chuyển giao công nghệ và phương thức sản xuất mới. Đối với chi
phí đầu tư trực tiếp của nhà nước cho nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ
mới mặc dù vẫn còn nhỏ về quy mô, thấp về tỷ trọng nhưng đây cũng là một trong
những biểu hiện của đầu tư và ở mức độ nhất định nó cũng tạo ra và tăng cường
năng lực khoa học công nghệ nước ta (đạt được những thành tựu nhất định trong
13


lĩnh vực nông nghiệp: giống mới, công nghệ gen, lĩnh vực phần mềm, công nghệ
vật liệu mới. (Trích Giáo trình Lập Dự Án Đầu Tư PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt)
Công nghệ mà doanh nghiệp có được là do nhập khẩu từ bên ngoài hoặc tự
nghiên cứu và ứng dụng. Công nghệ được nhập khẩu qua nhiều đường như mua
thiết bị linh kiện rồi lắp đặt, mua bằng sáng chế, thực hiện liên doanh… Công nghệ
do tự nghiên cứu và triển khai được thực hiện qua nhiều giai đoạn, từ nghiên cứu,
đến thí nghiệm, sản xuất thử, sản xuất thương, mất nhiều thời gian và rủi ro cao.
Dù nhập hay tự nghiên cứu để có công nghệ cũng đều đòi hỏi lượng đầu tư lớn.
Mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ cần có nhiều nước đi khác nhau phù hợp để lựa
chọn công nghệ thích hợp, Trên cơ sở đó, đầu tư có hiệu quả để phát huy lợi thế so
sánh của từng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân.
Để phản ánh sự tác động của đầu tư đến trình độ phát triển của khoa học và
công nghệ, có thể sử dụng các chỉ tiêu sau:
- Tỷ trọng vốn đầu tư đối mới công nghệ/ tổng vốn đầu tư. Chỉ tiêu này cho
thấy mức độ đầu tư đổi mới công nghệ nhiều hay ít trong mỗi thời kì
- Tỷ trọng chi phí mua sắm máy móc thiết bị/ tổng vốn đầu tư thực hiện. Chỉ
tiêu này cho thấy tỷ lệ vốn là máy móc thiết bị chiếm bao nhiêu. Chỉ tiêu này
cho thấy tỉ lệ vốn là máy móc thiết bị sản xuất công nghiệp, khai khoáng chế
tạo, lắp ráp, tỉ lệ này phải lớn.
- Tỷ trọng vốn đầu tư theo chiều sâu/ tổng vốn đầu tư thực hiện. Đầu tư chiều

sâu thường gắn liền với đổi mới công nghệ. Do đó, chỉ tiêu này càng lớn
phản ánh mức độ đầu tư đổi mới khoa học và công nghệ cao.
- Tỷ trọng vốn đầu tư cho các công trình mũi nhọn, trọng điểm. Các công
trình trọng điểm, mũi nhọn thường là các công trình đầu tư lớn, công nghệ
hiện đại, mang tính chất đầu tư mồi, tạo tiền đề để đầu tư phát triển các công
trình khác. Chỉ tiêu này càng lớn cho thấy mức độ tập trung của công nghệ
và gián tiếp phản ánh mức độ hiện đại của công nghệ.
Về mặt tiêu cực:
Bên cạnh những thành tựu to lớn tác động đến khoa học công nghệ, cuộc
Cách mạng KHKT cũng gây nhiều hậu quả đến sự phát triển kinh tế – xã hội, môi
trường đối với từng quốc gia cũng như quy mô trên toàn thế giới. Những thành tựu
14


của cuộc Cách mạng KHKT đã giúp loài người sản xuất ra một khối lượng sản
phẩm hàng hóa lớn, song một lượng lớn tài nguyên bị khai thác và một khối lượng
lớn chất thải được đưa vào môi trường đã dẫn đến các nguồn tài nguyên ngày càng
bị cạn kiệt, ô nhiễm môi trường, khan hiếm nước sạch, suy giảm sự đa dạng sinh
học… Các loại nguyên, nhiên liệu mà loài người sử dụng ngày càng tăng. Năm
1983 nhu cầu về dầu mỏ của thế giới ở mức 59 triệu thùng/ngày. Đến năm 2004
nhu cầu về dầu mỏ của thế giới đạt mức 85,5 triệu thùng/ngày, mức tăng hằng năm
là 1,4% (trong khi đó sản lượng cung dầu lửa quý in năm 2004 là 82 triệu
thùng/ngày và quý IV năm 2004 là 83,6 triệu thùng/ngày*). Sản lượng thép của thế
giới trong 10 năm trở lại đây kể từ năm 1994 có mức tăng hằng năm là 3,32%, mỗi
năm tăng thêm 50 triệu tấn, Sản lượng thép của thế giới sản xuất năm 1994 là
725,1 triệu tấn, đến năm 2004 là 1.000 triệu tấn.
Những thành tựu của cuộc Cách mạng KHKT không những góp phần tạo ra
nhiều loại máy móc; thiết bị hiện đại; có nhiều phát minh tác động tích cực đến sự
phát triển kinh tế – xã hội, mà còn không ít phát minh gây tác động tiêu cực đến sự
phát triển kinh tế – xã hội và môi trường như: những phát minh ra vũ khí giết

người, các chất hóa học gây ô nhiễm môi trường…
Nhiều phát minh sáng kiến khoa học chưa được kiểm nghiệm và đánh giá
thấu đáo để thấy được những hạn chế đã đưa vào ứng dụng rộng rãi dẫn đến những
tác động tiêu cực lớn tới hiệu quả về kinh tế – xã hội cũng như môi trường… Như
việc ứng dụng những giống mới, những phương pháp độc canh, chuyên canh của
cuộc “Cách mạng Xanh” thực hiện ở Hoa Kỳ, Ấn Độ, vùng Trung Đông của Liên
Xô (cũ)… thời kỳ 1965 – 1970 đã làm bạc màu, hoang hóa một diện tích lớn đất
canh tác của các nước này. Hay việc sử dụng các chất bảo vệ thực vật, phân bón
hóa học trong sản xuất nông nghiệp ở nhiều quốc gia đã gây ô nhiễm môi trường
và suy thoái tài nguyên. Sự cố các nhà máy hóa chất, vụ nổ các nhà máy điện
nguyên tử, việc khai thác và chuyên chở dầu mỏ… cũng đã gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng… Các phát minh sáng kiến khoa học còn được áp dụng để
sản xuất các loại vũ khí chiến tranh, đặc biệt là các loại vũ khí hóa học, vũ khí
nguyên tử nhằm sát hại con người, gây ô nhiễm môi trường. Những nước phát triển
có nhiều vốn, nguồn lực để nghiên cứu và ứng dụng KHKT. Do vậy, các nước này
được hưởng lợi nhiều hơn từ những thành tựu của cuộc Cách mạng KHKT và ngày
càng giàu thêm. Ngược lại, các nước đang phát triển do không có nhiều nguồn lực
15


đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng KHKT nền kinh tế chậm phát triển và ngày càng
nghèo. Như vậy, cuộc Cách mạng KHKT còn góp phần làm gia tăng sự chênh lệch
vể trình độ phát triển và khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia và các tầng lớp
trên thế giới… Bình quân GDP theo đầu người giữa các nước giàu nhất và các
nước nghèo nhất năm 1950 là 24 lần, nhưng đến năm 2004 lên đến 74 lần.
3.2. NLKHCN ảnh hưởng đến ĐTPT.
Về mặt tích cực:
Việc áp dụng công nghệ mới khiến cho năng suất tăng dẫn đến sản lượng và
tích lũy tăng làm cho phát triển công nghệ. Công nghệ được phát triển sẽ giúp nền
kinh tế được phục hồi và đi lên

Những tác động của khoa học công nghê đến kinh tế:
Đầu tiên, khoa học công nghệ góp phần gia tăng năng suất lao động của nền kinh
tế.

Máy móc đang dần thay thế con người trong nhiều ngành sản xuất.
Khoa học công nghệ còn mở ra cánh cửa phát triển kinh tế theo đồng thời cả
chiều rộng và chiều sâu. Các công nghệ mới, vật liệu mới, các công nghệ điện tử
linh kiện mới liên tục được ra đời. Đó là phát triển theo chiều rộng. Cùng với đó là
việc tăng trưởng theo chiều sâu, tức là sử dụng hiệu quả hơn các nguyên liệu đầu
vào cho quá trình sản xuất. Khoa học và công nghệ chính là chìa khóa để bước từ
nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, dịch vụ và tri thức.
16


Tiếp theo, sự phát triển của khoa học công nghệ giúp đẩy mạnh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
Thường trong một nền kinh tế lạc hậu, nông nghiệp sẽ chiếm tỷ trọng cao.
Tuy nhiên, các nền kinh tế phát triển và xu thế trên thế giới. Công nghiệp và dịch
vụ mới là những thành phần chiếm tỷ trọng cao nhất. Nông nghiệp chỉ nên chiếm
một phần rất nhỏ trong nền kinh tế.

Cơ cấu GDP Việt Nam theo ngành năm 2017.
Thứ ba, khoa học công nghệ phát triển góp phần gia tăng sức cạnh tranh hàng hóa,
đẩy mạnh kinh tế thị trường.
.

Người tiêu dùng ngày càng có nhiều sự lựa chọn hơn nhờ sự gia tăng cạnh tranh
hàng hóa. Việc áp dụng này không chỉ giúp tăng sức cạnh tranh của hàng hóa mà
17



còn liên tục tạo ra những sản phẩm mới. Quy mô của doanh nghiệp theo đó được
mở rộng. Sự cạnh tranh lại tiếp tục được gia tăng.
Cuối cùng, phát triển khoa học và công nghệ thúc đẩy tăng trưởng và phát triển
kinh tế.

K
hoa học công nghệ là yếu tố hàng đầu tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Sự phát triển của khoa học công nghệ tác động rất đáng kể đến nền kinh tế,
từ quá trình tăng trưởng nóng trong một thời gian ngắn, đến gia tăng về quy mô,
năng suất lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách tích cực. Khoa học
công nghệ là thước đo quan trọng để đánh giá tiến trình phát triển kinh tế của một
đất nước.
Từ những nhận định trên, ta có thể thấy khoa học công nghệ có tác động rất
quan trọng đến nền kinh tế quốc dân.
Dẫn chứng: Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật là nước bại trận, đất nước
bị chiến tranh tàn phá, kinh tế khó khăn, mất hết thuộc địa, nghèo tài nguyên, thất
nghiệp, thiếu nguyên liệu, lương thực và lạm phát. Sản xuất công nghiệp năm 1946
chỉ bằng 1/4 so với trước chiến tranh. Nhật phải dựa vào "viện trợ" kinh tế của Mỹ
dưới hình thức vay nợ để phục hồi kinh tế. Ngoài chú tâm đến phát triển các chính
sách đối nội, đối ngoại, Nhật rất coi trọng phát triển KH -KT:
18


- Có hàng trăm viện KH - KT, đi sâu vào công nghiệp dân dụng, ít chú ý đến
công nghiệp quân sự và vũ trụ.
- Nhật vừa chú ý đến phát triển các cơ sở nghiên cứu trong nước vừa chú ý
mua các phát minh của nước ngoài. (tìm cách xâm nhập kỹ thuật hiện đại và
phương pháp sản xuất tiên tiến).
- Hiện nay Nhật được xếp vào một trong số các quốc gia đứng đầu về trình độ

phát triển KH - KT, đặc biệt trong các ngành công nghiệp dân dụng.
Nền kinh tế bị phá hoại nặng nề, thất nghiệp trầm trọng, lạm phát tăng cao,
lương thực thực phẩm thiếu thốn nhưng chỉ trong 1 thời gian ngắn Nhật Bản đã
vươn lên trở thành cường quốc thứ 3 trên thế giới sau Mỹ và Trung Quốc với nền
kinh tế phát triển với tốc độ chóng mặt. Nhật Bản đứng đầu thế giới về khoa học
công nghệ, đứng thứ 2 thế giới về tổng sản phẩm nội địa. Những phát minh của
Nhật Bản trong các lĩnh vực điện tử, ô tô, máy móc, robot công nghiệp, chất bán
dẫn và kim loại được xếp là một trong những ngành tiên tiến và phát triển trên thế
giới. Riêng ngành khoa học robot Nhật Bản luôn là nước đi đầu trong lĩnh vực này,
các nhà nghiên cứu Nhật luôn khẳng định được mình qua các lần đoạt giải Nobel…
Giúp nền kinh tế phát triển một cách rõ rệt.
Về mặt tiêu cực:
Ngoài những tác động tích cực tới KTQT thì KHCN còn có một số hệ quả
tiêu cực về mặt xã hội, môi trường, văn hóa như làm gia tăng khoảng cách trình độ
phát triển giữa các quốc gia, khả năng cạnh tranh giữa các nước phát triển, đang
phát triển và kém phát triển, làm sâu sắc thêm phân hóa giàu nghèo trong xã hội,
gây ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội. Để tránh hoặc hạn chế những hệ quả xấu
này thì mỗi quốc gia cần phải có chiến lược phát triển khoa học công nghệ đúng
đắn, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của mỗi nước. Ngoài ra, các quốc gia có
thể chuyển giao công nghệ cho nhau để cùng phát triển về khoa học công nghệ.

19


CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ ĐTPT VÀ NLKHCN TẠI
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN (2014-2018)
1. Tình hình đầu tư phát triển tại việt nam trong giai đoạn 2014 – 2018.
Trong hành trình gần 70 năm, kể từ khi nước nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời vào ngày 02 tháng 9 năm 1945, thì Việt Nam đã có hơn 30 năm trải qua
chiến tranh vệ quốc vô cùng khốc liệt. Ngày nay, cả thế giới biết đến công cuộc đổi

mới ở Việt Nam như một bằng chứng về sự thành công chuyển đổi kinh tế trong
lịch sử đương đại. Tuy vẫn là một nước nghèo, nhưng qua 20 năm tiến hành công
cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
phát triển kinh tế đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ
thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.
Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế Việt Nam
trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã
tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng
tốt đẹp.
Về cơ bản, nước ta luôn giữ được mức độ tăng trưởng GDP ổn định, thậm
chí là cao trong nhiều năm vừa qua. Trong đó hoạt động đầu tư phát triển có đóng
góp ngày càng lớn vào sự tăng trưởng đó. Đầu tư phát triển trong thời gian qua
tăng cả về quy mô và tốc độ, tạo nguồn lực quan trọng cho phát triển sản xuất.
Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP (%)
34.00
33.50
33.00
32.50
32.00
31.50
31.00
30.50
30.00
29.50

2014

2015


2016

2017

2018

Biểu đồ: Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP trong giai đoạn 2014 – 2018.
20


2014

2015

2016

2017

2018

(tỷ 3937.8

4192.9

4502.7

5007.9

5535.3


Vốn
ĐTPT 1220.7
(tỷ đồng)

1367.2

1485.1

1667.4

1856.6

Vốn
ĐTPT/GDP
(%)

32.61

32.98

33.30

33.54

GDP
đồng)

31.00

Bảng: Tổng thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với tổng GDP.

Tổng thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong năm 2014 đạt 1220,7
nghìn tỷ đồng, chiếm 31% tổng thu nhập quốc dân theo giá hiện hành. Sang năm
2015, đầu tư phát triển được thúc đẩy hơn với tổng thực hiện vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội tăng thêm 146,5 nghìn tỷ đồng so với năm 2014 (tăng khoảng 12% so
với năm 2014). Cứ thế, hoạt động đầu tư phát triển ngày càng được gia tăng quy
mô cùng chiều hướng với sự lớn mạnh của tổng thu nhập quốc dân. Trong đó, năm
2016 tỏng thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 1485,1 nghìn tỷ đồng
(chiếm 32,98% GDP), năm 2017 đạt 1667,4 nghìn tỷ đồng (chiếm 33,3% GDP), và
gần nhất là năm 2018 với 1856,6 nghìn tỷ đồng (chiếm 33,54% tổng sản phẩm
quốc nội). Đây là một dấu hiệu tích cực cho thấy Nhà nước đang rất chú trọng vào
việc phát triển đất nước về lâu về dài trong tương lai, nâng cao mức sống của
người dân trong cả nước.
2. Tình hình khoa học công nghệ tại Việt Nam trong giai đoạn 2014 – 2018.
Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, khoa học và công nghệ nước
ta bước đầu đã có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên cho đến nay, nền khoa học kĩ
thuật nước ta vẫn đang trong tình trạng lạc hậu, chậm phát triển, chưa đáp ứng
được yêu cầu của đất nước. Về năng lực khoa học công nghệ, so với các nước tiên
tiến nhất trên thế giới, chúng ta lạc hậu từ 50 đến 100 năm, so với các nước tiên
tiến ở mức trung bình, ta lạc hậu từ 1 đến 2 thế hệ.
Với thực trạng đó, việc tiến hành cuộc cách mạng khoa học công nghệ ở
nước ta không chỉ được coi là tất yếu khách quan, mà còn là một đòi hỏi bức xúc
để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
21


Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là đến năm 2020 về cơ bản nước
ta trở thành nước công nghiệp. Khác với các nước đi đầu, công nghiệp hoá nước ta
đòi hỏi phải thực hiện rút ngắn, chỉ có như thế, chúng ta mới có thể sớm rút ngắn
được khoảng cách và tiến tới đuổi kịp các nước phát triển. Công nghiệp hoá phải
gắn liền với hiện đại hoá.

Cùng với đó, yêu cầu đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường cũng đòi hỏi
chúng ta phải phát triển khoa học và công nghệ. Để chuyển sang nền kinh tế thị
trường hiện đại theo định hướng XHCN từ xuất phát điểm thấp, nước ta không thể
đi theo các bước tuần tự như các nước đi trước đã làm, mà phải phát triển theo kiểu
“nhảy vọt”, “rút ngắn”. Đây vừa là cơ hội để tận dụng lợi thế của các nước phát
triển sau, vừa là thách thức đòi hỏi phải vượt qua. Muốn phát triển nhanh kinh thế
thị trường theo cách thức như vật, nhất thiết phải đẩy mạnh phát triển năng lực
khoa học công nghệ.
Đẩy mạnh phát triển năng lực khoa học công nghệ đối với nước ta không chỉ
bắt nguồn từ đòi hỏi bức xúc của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và quá trình phát triển kinh tế thị trường, mà còn bắt nguồn từ yêu cầu phát triển
đất nước theo định hướng XHCN. Phát triển theo định hướng XHCN, về bản chất,
là một kiểu định hướng tổ chức nền kinh tế - xã hội vừa dựa trên nguyên tắc và quy
luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên nguyên tắc và mục tiêu của CNXH. Định
hướng này không chỉ đòi hỏi nền kinh tế tăng trưởng ở mức cao, mà còn đòi hỏi
phải xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Ở đó, phát triển con
người và phát triển xã hội bền vững được coi là trung tâm. Đây là con đường phát
triển chưa có tiền lệ. Muốn đạt tới đó, chúng ta phải có nỗ lực và sáng tạo rất cao,
phải biết tận dụng những thành tựu mới nhất của nhân loại, tránh những sai lầm mà
các nước khác đã vấp phải. Nếu không đủ trình độ trí tuệ, không đủ năng lực nội
sinh thì khó có thể thành công. Do vậy, đẩy mạnh và phát triển năng lực khoa học
công nghệ càng trở nên rất quan trọng.
Hiện nay cuộc cách mạng khoa học – công nghệ có nhiều nội dung phong
phú, trong đó có thể chỉ ra những nội dung nổi bật sau:
Một là, cách mạng về phương pháp sản xuất: đó là tự động hoá. Ngoài phạm
vi tự động như trước đây, hiện nay tự động hoá còn bao gồm cả việc sử dụng rộng
rãi người máy thay thế con người trong quá trình vận hành sản xuất.

22



×