Châu Phi
Trong tiếng Việt, tên gọi châu Phi có nguồn gốc từ Hán-Việt 非 Phi, đầy đủ hơn là 阿非
利加 A Phi Lợi Gia phiên âm của tên Africa được người châu Âu sử dụng thông qua
người La Mã cổ đại, là những người sử dụng tên gọi Africa terra - "vùng đất Afri" (số
nhiều, hay "Afer" ở dạng số ít) - để chỉ phần miền bắc của châu lục này, như là tỉnh
Africa với thủ đô của nó là Carthage, tương ứng với Tunisia ngày nay.
Nguồn gốc của Afer có thể có từ:
• Trong tiếng Phoenicia `afar - tức là "bụi";
• Afri, một bộ lạc - có thể là Berber - là những người
sống ở Bắc Phi trong khu vực Carthage;
• Trong tiếng Hy Lạp từ aphrike có nghĩa là "không
có lạnh" (xem thêm Danh sách các tên gọi khu vực
truyền thống của người Hy Lạp);
• hoặc từ chữ aprica trong tiếng Latinh có nghĩa là
"có nhiều nắng".
Nhà sử học Leo Africanus (1495-1554) cho là nguồn gốc của từ phrike (φρικε có nghĩa là
"lạnh và sự khiếp sợ") trong tiếng Hy Lạp khi tổ hợp với tiền tố phủ định a-, có nghĩa là
vùng đất không có lạnh và sự khủng khiếp. Nhưng sự thay đổi của âm từ ph sang f trong
tiếng Hy Lạp có thể chỉ có từ thế kỷ 1, vì thế trên thực tế nó khó có thể là nguyên gốc của
tên gọi.
Ai Cập đã từng được những người cổ đại coi như là một phần của châu Á, và lần đầu tiên
nó được gắn với châu Phi nhờ công của nhà địa lý Ptolemy (85-165), là người đã chấp
nhận Alexandria như là kinh tuyến gốc và coi kênh đào Suez và Hồng Hải như là ranh
giới giữa châu Á và châu Phi. Khi người châu Âu có thể hiểu ra quy mô thực sự của châu
lục này thì ý tưởng về Africa cũng đã được mở rộng cùng với hiểu biết của họ
Châu Phi là lớn nhất trong số 3 phần nổi trên mặt nước ở phía nam của bề mặt Trái Đất.
Nó bao gồm trong khu vực bao quanh chung của nó một diện tích khoảng 30.244.050 km²
(11.677.240 mi²) tính cả các đảo.
Bị ngăn cách khỏi châu Âu bởi Địa Trung Hải, nó nối liền với châu Á về phía tận cùng
đông bắc bằng eo đất Suez (bị cắt ngang bởi kênh đào Suez) có bề rộng 130 km (80 dặm).
Về mặt địa lý thì bán đảo Sinai của Ai Cập nằm về phía đông kênh đào Suez (thông
thường cũng được coi như là thuộc châu Phi). Từ điểm xa nhất về phía bắc là Ras ben
Sakka ở Maroc, nằm về phía tây mũi Blanc, ở vĩ độ 37°21' bắc, tới điểm xa nhất về phía
nam là mũi Agulhas ở Nam Phi, 34°51′15″ nam, có khoảng cách khoảng 8.000 km (5.000
dặm); từ Cabo Verde, 17°33′22″ tây, tức điểm xa nhất về phía tây tới Ras Hafun ở
Somalia, 51°27′52″ đông, có khoảng cách xấp xỉ 7.400 km (4.600 dặm). Độ dài của
đường bờ biển là 26.000 km (16.100 dặm). Sự thiếu vắng của các chỗ lõm sâu vào dọc
theo bờ biển được thể hiện theo thực tế là châu Âu có diện tích chỉ 9.700.000 km²
(3.760.000 dặm vuông) nhưng lại có đường bờ biển tới 32.000 km (19.800 dặm).
Các đường cấu trúc chính của châu lục này được thể hiện theo cả hai hướng tây-đông (ít
nhất là ở phần bán cầu bắc) của những phần nằm về phía bắc nhiều hơn và hướng bắc-
nam ở các bán đảo miền nam. Châu Phi vì thế có thể coi là tổ hợp của hai phần vuông góc
với nhau, phần phía bắc chạy theo hướng từ đông sang tây, phần phía nam chạy theo
hướng bắc-nam
Châu Phi là nơi sinh sống đầu tiên trên Trái Đất, với loài người có nguồn gốc từ châu lục
này. Xương Ishango, có niên đại cacbon khoảng 25.000 năm trước, là -+các que tính
trong ký hiệu toán học.
Trong suốt thời kỳ tiền sử của loài người thì châu Phi (giống như các châu lục khác) đã
không có các quốc gia và chủ yếu là các nhóm người săn bắn theo bầy đàn sinh sống.
Khoảng năm 3300 TCN nhà nước Ai Cập cổ đại đã ra đời và phát triển, nó đã tồn tại với
các mức độ ảnh hưởng khác nhau cho đến khoảng năm 343 TCN. Các nền văn minh khác
bao gồm Ethiopia, vương quốc Nubia, các vương quốc Sahel (Ghana, Mali và Songhai)
và Đại Zimbabwe.
Năm 1482 người Bồ Đào Nha đã thiết lập trạm thương mại đầu tiên (trong số nhiều trạm
như thế) dọc theo bờ biển Guinée ở Elmina. Các hàng hóa được trao đổi chính là nô lệ,
vàng, ngà voi và hồ tiêu. Sự phát hiện ra châu Mỹ năm 1492 đã tạo ra sự phát triển mạnh
mẽ trong buôn bán nô lệ mà trước thời kỳ của người Bồ Đào Nha thì việc buôn bán này
trên đất liền gần như chỉ là những trường hợp hãn hữu.
Nhưng cùng vào thời điểm này thì chế độ nông nô đã đi vào giai đoạn kết thúc ở châu Âu
và trong đầu thế kỷ 19 thì các lực lượng thực dân châu Âu đã tiến hành sự "tranh giành
châu Phi" vô cùng khủng khiếp và đã chiếm đóng nhiều vùng đất của châu lục này, tạo ra
nhiều quốc gia thuộc địa, chỉ để sót lại 2 quốc gia độc lập là: Liberia, thuộc địa của người
Mỹ da đen và Ethiopia. Sự chiếm đóng này còn tiếp diễn cho đến tận sau khi kết thúc Thế
chiến thứ hai, khi các nước thuộc địa dần dần giành được quy chế độc lập hình thức.
Ngày nay, châu Phi là quê hương của trên 50 quốc gia độc lập, tất cả trong trong số đó có
đường biên giới được tạo ra trong thời kỳ chủ nghĩa thực dân của người châu Âu
Châu Phi thuộc địa
Chủ nghĩa thực dân đã tạo ra những hậu quả gây mất ổn định trên tất cả những điều mà
các bộ tộc châu Phi ngày nay còn cảm nhận được trong hệ thống chính trị của châu Phi.
Trước khi có ảnh hưởng của người châu Âu thì các ranh giới quốc gia đã không phải là
những điều đáng quan tâm nhất, trong đó người Phi châu nói chung theo các thực tiễn
trong các vùng khác của thế giới, chẳng hạn như ở bán đảo Ả Rập, mà ở đó lãnh thổ của
các nhóm dân cư là trùng khít với khu vực có ảnh hưởng về quân sự và thương mại của
họ. Sự cố tình của người châu Âu trong việc vạch ra các ranh giới xung quanh các lãnh
thổ để chia tách họ ra khỏi các quyền lực khác tại thuộc địa thông thường có ảnh hưởng
tới việc chia cắt các nhóm dân cư hay chính trị liền kề hoặc cưỡng ép các kẻ thù truyền
thống phải sống cạnh nhau mà không có khu vực đệm giữa họ. Ví dụ, sông Congo, mặc
dù nó dường như là ranh giới địa lý tự nhiên, đã có các nhóm sắc tộc sống trên hai bờ
sông chia sẻ cùng một ngôn ngữ và văn hóa hay các điều gì đó tương tự. Sự phân chia đất
đai giữa Bỉ và Pháp dọc theo con sông này đã cô lập các nhóm sắc tộc này khỏi nhau.
Những người sống ở khu vực Sahara hay Hạ Sahara là những người buôn bán xuyên châu
lục này trong nhiều thế kỷ, thông thường hay vượt qua các "biên giới" mà thông thường
chỉ tồn tại trên các bản đồ của người châu Âu.
Trong các quốc gia có dân cư là người châu Âu chính gốc như Rhodesia (Zambia và
Zimbabwe ngày nay) và Cộng hòa Nam Phi, các hệ thống công dân hạng hai thông
thường được lập ra để đảm bảo cho quyền lực chính trị của người gốc Âu vượt qua hạn
chế về số lượng của họ (nếu tính theo phổ thông đầu phiếu). Tuy nhiên, các đường vạch
ra thông thường không thể hiện chính xác các ranh giới về chủng tộc. Tại Liberia, những
công dân là hậu duệ của nô lệ Mỹ đã thống trị các hệ thống chính trị trên 100 năm, làm
cho các cựu nô lệ và người bản địa trong khu vực cân bằng tương đối về quyền lập pháp
mặc dù thực tế là những cựu nô lệ này chỉ chiếm khoảng 10% dân số nói chung. Ý tưởng
kỳ quặc cho hệ thống này là của Thượng viện Hoa Kỳ, nó làm cân bằng quyền lực của
các khu vực dân tự do và nô lệ một cách buồn cười cho dù dân số của dân tự do bản địa là
nhiều hơn.
Những người châu Âu thông thường thay đổi cán cân quyền lực, tạo ra các sự phân chia
dân tộc mà trước đó đã không tồn tại, và tạo ra sự phân chia văn hóa gây hại cho những
người dân sống trong khu vực họ kiểm soát được. Ví dụ, trong khu vực ngày nay là
Rwanda và Burundi, hai sắc tộc Hutu và Tutsi đã bị trộn lẫn trong một nền văn hóa trong
thời gian những kẻ thực dân người Bỉ kiểm soát khu vực này trong thế kỷ 19. Không còn
sự phân chia sắc tộc do sự hòa trộn, hôn nhân lai tạp và sự hòa trộn của các tục lệ văn hóa
trong hàng thế kỷ đã xóa bỏ các dấu hiệu đáng kể để phân biệt về văn hóa, người Bỉ thực
hiện chính sách phân loại theo sắc tộc trong thời gian kiểm soát khu vực này, do sự phân
loại và các triết lý dựa theo sắc tộc đã là những điều không đổi trong văn hóa châu Âu
trong thời gian đó. Thuật ngữ Hutu nguyên thủy nói tới các bộ tộc nói tiếng Bantu sinh
sống bằng nông nghiệp đã di cư từ phía tây tới Rwandan và Burundi ngày nay, và thuật
ngữ Tutsi là nói tới các bộ tộc sinh sống bằng chăn nuôi bò từ miền đông bắc tới khu vực
này muộn hơn. Các thuật ngữ đối với người bản xứ cuối cùng đã được dùng để chỉ đẳng
cấp kinh tế của một người. Các cá nhân sở hữu từ 10 con bò hoặc nhiều hơn được coi là
người Tutsi, và những người sở hữu ít hơn thì bị coi là người Hutu, không phụ thuộc vào
lịch sử tổ tiên. Điều này không phải là ranh giới chính xác nhưng nó là quy luật chung
cho cách gọi, vì thế một người có thể chuyển từ người Hutu sang thành người Tutsi hay
ngược lại.
Người Bỉ đã đưa vào hệ thống phân biệt chủng tộc. Những cá nhân nào có nhiều đặc
trưng giống người châu Âu khi nhìn - da sáng màu, cao lớn, mũi hẹp v.v. - được giao cho
quyền lực trong số những người dân thuộc địa. Người Bỉ xác định các đặc trưng này là lý
tưởng hơn cả ở người Hamit, người Hamit theo đó là gần giống với người châu Âu và
thuộc về nhóm người có quan hệ gần với người Tutsi theo trực hệ. Họ đã thực hiện chính
sách làm thẻ căn cước dựa trên triết lý này. Những người gần giống với mô hình lý tưởng
này được coi là người Tutsi còn những người còn lại là người Hutu.
Châu Phi hậu thuộc địa
Kể từ khi độc lập, các nước châu Phi đã thường xuyên bị cản trở bởi sự bất ổn định, nạn
tham nhũng, bạo lực và chủ nghĩa độc tài. Phần lớn các nước châu Phi là các nước cộng
hòa hoạt động theo một số kiểu của chế độ tổng thống. Có một ít quốc gia ở châu Phi có
chính thể dân chủ, nhưng bị nối tiếp bởi những vụ đảo chính tàn bạo hay các chế độ độc
tài quân sự.
Có không ít thủ lĩnh chính trị của châu Phi hậu thuộc địa là những người ít học và dốt nát
trong việc điều hành công việc nhà nước; nguyên nhân chính gây bất ổn chủ yếu là do kết
quả của sự cách ly của các nhóm sắc tộc và sự tham nhũng của các thủ lĩnh này.
Ngoài ra, nhiều thủ lĩnh chính trị còn sử dụng vị trí quyền lực để kích động các mâu
thuẫn sắc tộc, làm cho nó trầm trọng hơn, hay thậm chí là tạo ra những luật lệ thuộc địa.
Tại nhiều nước, lực lượng quân sự đã từng là các nhóm duy nhất có thể đảm báo duy trì
ổn định và trật tự ở phần lớn các nước châu Phi trong thập niên 1970 và đầu những năm
thập niên 1980.
Trong giai đoạn từ đầu thập niên 1960 tới cuối thập niên 1980 ở châu Phi đã có trên 70
vụ đảo chính và 13 vụ ám sát tổng thống.
Các mâu thuẫn chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô cũng đóng vai trò trong sự bất
ổn này. Khi các quốc gia giành được độc lập, thông thường nó sẽ nghiêng về một trong
hai siêu cường. Nhiều nước ở Bắc Phi nhận sự trợ giúp quân sự của Liên Xô, trong khi
nhiều nước ở Trung và Nam Phi đã được Hoa Kỳ và/hoặc Pháp hỗ trợ. Trong thập niên
1970 đã có sự leo thang do các quốc gia mới giành độc lập như Angola và Mozambique
nghiêng về phía Liên Xô còn vùng Tây và Nam Phi tìm kiếm sự ngăn cản ảnh hưởng của
Xô viết.
Các tranh cãi về biên giới và lãnh thổ là phổ biến với các biên giới do người châu Âu áp
đặt đối với nhiều quốc gia bị tranh giành thông qua các vụ xung đột vũ trang.
Các chính sách nhà nước sai lầm và sự mục nát của hệ thống chính trị đã tạo ra hậu quả là
nhiều nạn đói lan tràn và một phần đáng kể châu Phi vẫn còn các hệ thống phân phối
không có khả năng cung cấp đủ lương thực hay nước uống cho dân cư để sống sót. Sự lan
tràn của bệnh tật cũng rất phổ biến, đặc biệt là sự lan tràn của HIV và bệnh AIDS, nó đã
trở thành một đại dịch nguy hiểm đối với châu lục này.
Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng đã có một số dấu hiệu cho thấy châu lục này còn có
hy vọng ở tương lai. Các nhà nước dân chủ dường như bắt đầu mở rộng, mặc dù vẫn
chưa phải là chủ yếu (National Geographic cho rằng có tới 13 quốc gia châu Phi có thể
coi là dân chủ thực sự). Ngoài ra, nhiều quốc gia đã có ít nhất là các nền tảng được công
nhận trên danh nghĩa của quyền con người cho mọi công dân, mặc dù trên thực tế những
quyền này không phải lúc nào cũng được thừa nhận, và đã tạo ra hệ thống tư pháp độc lập
tương đối hợp lý.
Có các dấu hiệu rõ ràng của sự gia tăng quan hệ giữa các tổ chức hay quốc gia châu Phi.
Trong nội chiến ở Cộng hòa Dân chủ Congo (tên cũ Zaire), không phải là các nước giàu,
ngoài châu Phi can thiệp vào mà là khoảng một nửa tá các quốc gia châu Phi láng giềng
đã tham gia (xem thêm Chiến tranh Congo lần 2). Số người bị chết ước tính lên tới 3,5
triệu kể từ khi xung đột mới nổ ra năm 1998. Nó thể hiện những gì tương tự như những
điều đã diễn ra trong giai đoạn đầu của Thế chiến thứ hai ở châu Âu, mà sau đó người
dân ở các nước láng giềng quyết định tham dự vào theo những cách thức mà cuộc chiến
giữa họ trở nên không giống như cuộc chiến giữa Pháp và Đức (nếu có ngày nay).
Các liên minh chính trị như Liên minh châu Phi cũng là một niềm hi vọng cho hợp tác và
hòa bình lớn hơn giữa nhiều nước của châu lục này.
Sự lạm dụng trong quyền con người vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi của châu Phi, thông
thường là dưới sự giám sát của nhà nước. Phần lớn các vi phạm như thế diễn ra vì các lý
do chính trị, như là 'hiệu ứng phụ' của nội chiến. Các nước bị liệt kê là có nhiều vi phạm
lớn bao gồm (nhưng không bị giới hạn chỉ có vậy): Cộng hòa Dân chủ Congo, Sierra
Leone, Liberia, Sudan, Côte d'Ivoire. Các vi phạm được báo cáo gồm có tục ăn thịt
người, các hình phạt gây tổn thương cho cơ thể và nạn hãm hiếp.
Châu Phi hiện đại
Phần lớn các nước phương Tây sử dụng các giới hạn trong việc trợ giúp các quốc gia
châu Phi. Các hạn chế này chủ yếu được sử dụng để kiểm soát chính phủ các quốc gia Phi
châu này; kết quả là các quốc gia này phải đi tìm các nguồn trợ giúp tài chính truyền
thống. Trung Quốc ngày càng tăng sự trợ giúp tài chính cho châu Phi để đảm bảo an toàn
cho các hợp đồng khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Các sự trợ giúp này
thường không có hiệu lực chính trị.
Kinh tế
Châu Phi là châu lục có người sinh sống nghèo khổ nhất thế giới, và sự nghèo khổ này về
trung bình là tăng lên so với 25 năm trước.
[1] Báo cáo phát triển con người] của Liên hiệp quốc năm 2003 (về 175 quốc gia) đã cho
thấy các vị trí từ 151 (Gambia) tới 175 (Sierra Leone) đã hoàn toàn thuộc về các nước
châu Phi.
Tại châu Phi, tình trạng đã và đang trong giai đoạn chuyển tiếp không ổn định từ chủ
nghĩa thực dân sang giai đoạn mới thuộc thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh, sự gia tăng của
tham nhũng và chế độ chuyên quyền là những yếu tố chính để lý giải nền kinh tế yếu
kém. Việc Trung Quốc và hiện nay là cả Ấn Độ có sự tăng trưởng nhanh chóng, hay các
nước Nam Mỹ có sự tăng trưởng vừa phải đã nâng mức sống của hàng triệu người thì
châu Phi đã bị đình đốn, thậm chí thụt lùi trong thương mại, đầu tư và thu nhập trên đầu
người. Sự nghèo đói này có ảnh hưởng rộng lớn, bao gồm tuổi thọ trung bình thấp, bạo
lực và sự mất ổn định - các yếu tố bện vào nhau và có liên quan với sự nghèo đói của
châu lục. Trong nhiều thập niên một loạt các giải pháp đã được đưa ra và nhiều trong số
đó đã được thực hiện, nhưng chưa có giải pháp nào thu được sự thành công đáng kể.
Một phần của vấn đề là sự viện trợ của nước ngoài nói chung được sử dụng để khuyến
khích trồng các loại cây công nghiệp như bông, cô ca và cà phê trong các khu vực của
nền nông nghiệp tự cung tự cấp. Tuy nhiên, cũng vào thời gian này thì các nước công
nghiệp lại theo đuổi chính sách nhằm hạ giá các sản phẩm từ các loại cây này. Ví dụ, giá
thành thực sự của bông trồng ở Tây Phi là nhỏ hơn khoảng một nửa giá thành của bông
trồng tại Mỹ nhờ giá nhân công rẻ mạt. Tuy nhiên, bông của Mỹ được bán ra với giá thấp
hơn bông châu Phi do việc trồng bông ở Mỹ được trợ cấp rất nhiều. Kết quả là giá cả của
các mặt hàng này hiện nay chỉ xấp xỉ với giá của thập niên 1960.
Châu Phi cũng phải hứng chịu sự chảy vốn liên tục. Nói chung, thu nhập đến với các
nước châu Phi lại nhanh chóng ra đi, hoặc là do các tài sản được bán ra đều là sở hữu của
ngoại quốc (dầu mỏ là một ví dụ điển hình) và tiền thu về lại được chuyển cho các chủ
nước ngoài, hoặc là các khoản tiền đó phải sử dụng để thanh toán các khoản vay của các
nước công nghiệp hay Ngân hàng thế giới (WB). Người ta ước tính rằng châu Phi có thể
giảm sự phụ thuộc vào viện trợ của nước ngoài một cách đáng kể nếu mọi lợi nhuận thu
được tại các nước châu Phi được tái đầu tư vào khu vực trong ít nhất 12 tháng.
Botswana, một trong những quốc gia nghèo của châu Phi mà không đi theo các sự kiểm
soát do Ngân hàng thế giới (WB) hay Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đề xuất, là một trong
những ngoại lệ đối với quy luật chung của sự đình đốn nền kinh tế châu Phi, và đã thu
được sự phát triển vững chắc trong những năm gần đây cho dù họ không có cả đầu tư
nước ngoài, tự do luân chuyển vốn hay tự do hóa thương mại.
Nước thành công kinh tế nhiều nhất là Cộng hòa Nam Phi, đây là một quốc gia phát triển
về công nghiệp và kinh tế như bất kỳ nước công nghiệp châu Âu hay Bắc Mỹ nào, nước