Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc, Tư tưởng HCM về đạo đức và sự vận dụng tư tưởng đó của sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.08 KB, 41 trang )

BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Thực hiện

:

Lớp HP

:

Giảng viên

:

HÀ NỘI, 11/2019


BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI 1: Tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc và sự
vận dụng tư tưởng đó của sinh viên Thương Mại vào việc
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của nước ta hiện nay
ĐỀ TÀI 2: Tư tưởng HCM về đạo đức. Nội dung học tập và
làm theo tấm gương đạo đức HCM của sinh viên trường
Đại học Thương Mại trong giai đoạn hiện nay

HÀ NỘI, 11/2019



ĐỀ TÀI 1: Tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc và sự
vận dụng tư tưởng đó của sinh viên Thương Mại vào việc
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của nước ta hiện nay
A.MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong mọi thời đại muốn chiến thắng kẻ thù xâm lược xây dựng đất
nước thì chính sách quan trọng nhất chính là tạo một khối đoàn kết trong
nhân dân. Quả thật nếu trong một đất nước không có sự đoàn kết chắc
chắn đất nước sẽ suy đồi, vì thế khi sinh thời Hồ Chí Minh luôn quan tâm
đến chính sách đại đoàn kết dân tộc, vì theo Người muốn giải phóng đất
nước thì phải giải phóng dân tộc trước, tức là phải tạo một khối đoàn kết
giữa các dân tộc với nhau. Chính vì chính sách này mà cách mạng ta đã
thành công và ngày nay tiếp bước tư tưởng của Bác, Đảng và nhà nước ta
không ngừng phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Để hiểu rõ hơn tư
tưởng Hồ Chí Minh vể vần đề này, nhóm chúng em đã chọn đề tài Tư
Tưởng Hồ Chí Minh Về Vấn Đề Đại Đoàn Kết Dân Tộc làm tiểu luận môn
học. Mục đích nghiên cứu Như Hồ Chí Minh đã nói : “ Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công.” Đoàn kết là sức
mạnh mà không một kẻ thù nào có thể đánh thắng được. Có đoàn kết sẽ
có thành công, có đại đoàn kết sẽ có đại thành công, vì thế mà Hồ Chí
Minh không ngừng kêu gọi sự đoàn kết trong toàn dân, dù họ là ai, thuộc
tầng lớp hay tôn giáo nào. Có thể nói Bác chính là ngọn cờ đầu khơi lên
tinh thần đoàn kết dân tộc mở ra một chiến lựơc giải phóng, xây dựng đất
nước. Khi chọn đề tài này làm thảo luận, mục đích của nhóm chúng em là
hiểu và nắm bắt được tầm quan trọng của việc đoàn kết giữa các dân tộc,
đồng thời trang bị cho mình một kiến thức về tư tưởng của Bác trong việc
thực hiện đại đoàn kết dân tộc.
2.Tổng quan nghiên cứu
a.Nghiên cứu cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoan kết dân
tộc

- Cơ sở lý luận
- Cơ sở tư tưởng. Tổng kế những kinh nghiệm thanh công và thất bại của
các phong trao cách mạng Việt Nam và thế giới
b.Nghiên cứu những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh
- Vai trò
- Lực lượng
- Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc
3.Mục tiêu nghiên cứu
Giúp toàn thể dân tộc nhận thức được tầm quan trọng của lòng yêu
nước, của nhân nghĩa, tin yêu con người. Từ đó mỗi cá nhân sẽ tự phát
huy hơn nữa lòng nhân nghĩa của bản thân mình để sống tốt hơn, có ý
nghĩa hơn


4.Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc phải kế thừa truyền
thống nồng nàn yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết dân tộc; đồng thời phải
có lòng khoan dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người.
Đề tài tập trung nghiên cứu về tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc và sự vận dụng tư tưởng đó của sinh viên trường đại học Thương
Mại vào việc xây dựng khối đại đoan kết dân tộc ở nước ta hiện nay.


B.NỘI DUNG
I. Cơ sở hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết dân tộc
1. Cơ sở lý luận
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết nằm trong
nhận thức chung của cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh được tiếp cận
về phương diện đoàn kết.
1.1 Những giá trị văn hóa truyền thông Việt Nam

Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam
đã đắp bồi nên nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nên cốt
cách của con người Việt Nam, một trong những cơ sở hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết.
Giá trị hàng đầu của văn hóa Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần đoàn kết, cố kết cộng đồng. Tình cảm tự nhiên của con người Việt
Nam là: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương
nhau cùng”. Triết lý nhân sinh của dân tộc: “Một cây làm chẳng nên non.
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Tư duy chính trị được phản ánh: “Nước
mất thì nhà tan. Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”.
Văn hóa Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy đại nghĩa thắng hung
tàn, đem chí nhân thay cường bạo. Đó là nền văn hóa trọng đạo lý làm
người, đề cao trách nhiệm cá nhân với cộng đồng mà hàng đầu là bổn
phận đối với Tổ quốc.
Văn hóa Việt Nam “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc",
hướng về dân, lấy dân làm gốc, “Chở thuyền là dân, lật thuyền là dân. Lật
thuyền mới biết dân như nước”. Lịch sử Việt Nam đã từng chứng kiến “Hội
nghị Diên Hồng”, những kiểu “tập hợp bốn phương manh lệ”, “Phụ tử trên
dưới một lòng, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”.
Văn hóa Việt Nam là nền vãn hóa khoan dung hòa hợp. hòa đồng.
Điểm này có nguồn gốc từ cội rễ của văn hóa Việt Nam là mọi người Việt
Nam cỗi gốc tích, tổ tiên chung. Điều này đã được Hồ Chí Minh nhiều lần
nhấn mạnh khi nói về con Lạc cháu Hồng, con Rồng cháu Tiên. Người nhấn
mạnh:
“Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Kể năm hơn bốn ngàn năm,
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hòa.
Hồng Bàng là tổ nước ta.
Nước ta lúc đó gọi là Văn Lang”.



1.2. Tinh hoa văn hóa phương Đông, phương Tây
Văn hóa phương Đông trong đó có Nho giáo, Phật giáo, bên cạnh
nhiều điều không hợp lý, có nhiều điểm tích cực.
Chẳng hạn thuyết Đại đồng và tư tưởng bình đẳng về tài sản của
Nho giáo. Theo Khổng Tử, “thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng.
Người ta không sợ thiếu chỉ sợ có không đều”. Quan điểm "nước lấy dân
làm gốc" (quốc dĩ dân vi bản) là của Nho giáo. Trong Phật giáo cũng có
những điểm hay. Ví dụ tư tưởng “đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn”, “cầu
đồng tồn dị” (tìm cái chung chế ngự cái khác biệt) mang sức mạnh đoàn
kết.
Văn hóa phương Tây được Hồ Chí Minh khai thác ngay từ lúc còn học
trên ghế Trường Quốc học. Sau này trong ba mươi năm hoạt động ở nước
ngoài. Người đã chọn lọc những hạt nhân hợp lý trong Tuyên ngôn độc lập
của cách mạng tư sản Mỹ. trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền từ
cách mạng, tư sản Pháp. Người đã học được tư tưởng, phong cách dân chủ
phương Tây, khai thác tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, chủ nghĩa nhân
văn từ các triết gia tư sản trong Thế kỷ ánh sáng. Giá trị văn hóa phương
Tây đã góp phần làm giàu trí tuệ Hồ Chí Minh.
1.3. Tư tưởng đoàn kết trong học thuyết Mác - Lênin
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là minh chứng
hùng hồn cho tính đúng đắn của tư tưởng đoàn kết trong học thuyết Mac Lênin. Cách mạng Nga chỉ ra rằng cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân, nhân dân là người làm nên lịch sử. Giai cấp vô sản lãnh
đạo cách mạng phải đi từ chiến lược “giai cấp vô sản tất cả các nước đoàn
kết lại!” tới chiến lược “giai cấp vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị
áp bức đoàn kết lại!”. Đoàn kết trong học thuyết Mác - Lênin lấy giai cấp
công nhân và nông dân làm nền tảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh quốc tế. Lênin là tấm gương sáng chói về thực hành đoàn kết, đoàn
kết trong nước, đoàn kết quốc tế. hiện thân cho tình anh em bốn bể. Có

thể nói những quan điểm đoàn kết trong học thuyết Mác - Lênin là cơ sở tư
tưởng lý luận quan trọng nhất, bởi nó không chỉ trang bị thế giới quan,
phương pháp luận, mà còn chỉ ra những phương hướng rõ ràng trong quá
trình thực hiện đoàn kết
2. Cơ sở thực tiễn. Tổng kết những kinh nghiệm thành công và
thất bại của các phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới
2.1 Thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đáu trang dựng nước và giữ
nước cẩu dân tộc mình, Hồ Chí Minh nhận thức được trong phong kiến chỉ
có những cuộc đấu tranh thay đổi triều đại nhưng chúng ta đã ghi lại
những tấm gương tâm huyết của ông cha ta với tư tưởng “Vua đồng long,
an hem hòa thuận, cả nước góp sức” và “Khoan thư sức dân để làm kế
ssaau bền gốc là thượng sách giữ nước” . Chính chủ yêu nước, truyền
thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày lịch sử này đã tác
đọng mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được ghi nhận như những bài học lớn
cho sự hình thành tư tưởng của mình. Cuối thế kỉ XIX ở Việt Nam, triều


đình nhà Nguyễn đã vào buổi xês bóng của chế độ phong kiến nói chung.
Sự cố chấp, vị kỷ, ươn hèn của vua quan thời Tụ Đức là nguyên nhân trực
tiếp làm cho đất nước rơi vào tay thực dân Pháp xâm lược. Tổ quốc mất
quyên độc lập, nhân dân chịu kiếp lầm than.
Sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách chí
để trị. Chúng chia nước ta thành ba xứ với những chế độ cai trị khác nhau.
Bắc Kì là xứ bảo hộ, Trung kì là xứ lưỡng trị và Nam kì là đát thuộc địa.
Không dừng lại ở đó, thực dân Pháp còn áp dụng nguyên tắc chia để trị cả
trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Trải qua hai chương trình khai thác thuộc địa
do thực dân Pháp tiến hành ở Đông Dương trước và sau chiến tranh Thế
giới thứ nhất, xã hội Việt Nam truyền thống – một xã hội phương Đông cổ
truyền đã chịu sự tác động mạnh mẽ và bị biến dạng sâu sắc. Một xã mới

– xã hội thuộc địa đang hình thành một cơ cấu xã hội mở đan xen, chồng
chéo với những tôn giáo, đẳng cấp, những tập tục, lề thói đa dạng trên
một xã hội truyền thống đang tan rã.
Đối lập với chính sách chia để trị của thực dân Pháp là sự đồng tâm
hiệp lực, đoàn kết tất cả mọi người Việt Nam yêu nước, không phân biệt
gaicaasp, tôn giáo, dân tộc… cùng nhau đứng lên đánh đuổi bọn xâm lược,
giành lại độc lập cho nước nhà.
Ngay từ khi thực dân Pháp nổ sung xâm lược ở Đà Nẵng năm 1858,
chúng đã phải đối mặt với hàng loạt các phong trào đấu tranh của ta.
Cuốn vào dòng xoáy của phong trào cứu nước đó không chỉ là những người
lao động bị áp bức, bóc lột mà còn có những vị khoa học nổi tiếng như
Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân,có mặt cả những dịa chủ lớn và dân tộc ít
người.
Tuy nhiên, các phong trào yêu nước cảu ta vẫn thất bại. Đó là do
những hạn chế trong chủ trương tập hợp các lực lượng, tìm chọn đồng
minh của các nhà yêu nước tiền bối. Thất bại của các phong trào yeu nước
này cho thấy dù là phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến
hay daan chủ tư sản cũng đều thất bại. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình
trạng khủng hoảng, “mò mẫm trong đêm tối tưởng chừng không có đường
ra”. Nguyễn Asi Quốc nhận thấy, chỉ yêu nước thôi chưa đủ, cần phải có
con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp. Đáy chính là điểm xuất phát để
Người muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi
xem họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về và giúp đồng bào chúng ta.
Như vậy, thực tiễn đất nước những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX với sự hào hùng, bi tráng, với những bế tắc.. chính là cơ sở cho sự hình
thành tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh.
2.2 Thực tiễn cách mạng thế giới
Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục.
Cuộc khảo nghiệm thực tiễn rộng lớn và công phu đã giúp Người nhận
thức một sự thực: “Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn mất sức mạnh vĩ đại ,

song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp
bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công
nhân ở cqasc nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ
chức…”. Người cho rằng, cuộc cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp là những


cuộc cách mạng “chưa đến nơi” vì sau khi cách mạng thành công, nhân
dân vẫn bị áp bức, bóc lột và nghèo nàn.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công ddax đưqa Hồ
Chí Minh đến bước ngoặt quyết định trong việc chọn con đường cứu nước,
giải phóng dân tộc,giành dân chủ cho nhân dân. Từ hỗ chỉ biết đến Cách
mạng tháng Mười theo cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu một cách
thấu đáo con đường Cách mạng Tháng Mười và những bài học kinh nhiệm
quý báu mà cuộc cách mạng này đã mang lại cho phong trào cách mạng
thế giới. Đặc biệt là bài học về sự huy động, tổng hợp, đoàn kết lực lượng
quần chúng công - nông - bình đông đảo để giành và giữ chính quyền cách
mạng.
Thêm vào đó, những phong trào cách mạng ở các nước phương
Đông như Trung Quốc, Ấn Độ càng mang đến cho Hồ Chí Minh nhứng bài
học sâu sắc trong việc lãnh đạo nhân dân chiến đấu để từ đó, Người tìm ra
cách thục hiện sự nghiệp cách mạng của mình.
II. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc.
1. Vai trò
.1.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết
định thành công của cách mạng:
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có
ý nghĩa chiến lược cơ bản, nhất quán và lâu dài xuyên suốt tiến trình cách
mạng.
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định

thành công của cách mạng:
Chính sách mặt trận của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra là
để thực hiện đoàn kết dân tộc. Nhờ tư tưởng nhất quán và chính sách mặt
trận đúng đắn. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công
khối đại đoàn kết dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam dành được nhiều
thắng lợi to lớn. Hồ Chí Minh viết: "Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh,
nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến
thắng lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc
Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành
được thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa
và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc"1.
Đại đoàn kết dân tộc là cội nguồn tạo nên sức mạnh:
Hồ Chí Minh rất nhiều lần nhấn mạnh luận điểm này. Người viết:
"Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất
định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm tròn
nhiệm vụ nhân dân giao phó" 1; "Đoàn kết là một lực lượng vô địch của
chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi" :; "Đoàn kết là sức


mạnh, đoàn kết là thắng lợi" ’ "Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của
thành công"
"Bây giờ còn một điểm rất quan trọng, cũng là điểm mẹ, Điểm này
mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết"
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công"*'...
1.2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu ,nhiệm vụ hàng đầu của
đảng, của dân tộc
Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của

đảng, của cách mạng là đại đoàn kết dân tộc. Trong buổi ra mắt đảng lao
động Việt Nam vào tháng 3 năm 1951, Người đã thay mặt đảng tuyên bố
trước đồng bào rằng: “Mục đích của đảng lao dộng Việt Nam có thể gồm
trong 8 chữ là : Đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc “.
Mục tiêu tổng quát của toàn bộ cách mạng Việt Nam theo Hồ Chí
Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Để thực hiện mục tiêu đó, Người đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể phải
giải quyết trong từng thời kỳ, giai đoạn. Nhưng muốn thực hiện tất cả mục
tiêu thì phải phát huy được sức mạnh toàn dân, nghĩa là phải xây dựng
được khối đại đoàn kết dân tộc. Vì vậy, mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
đảng, của cách mạng là phải xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam; Đồng thời là sự kết tinh tinh hoa văn hóa dân
tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhệm
vụ hàng đàu của đảng, mà còn là nhiệm vụ, mục tiêu hàng đầu của cả dân
tộc.Bởi đại đoàn kết dân tộc chỉ có được khi nó là đòi hỏi khách quan của
bản thân quần chúng. Chỉ khi quần chúng nhân dân nhận thức được,
muốn hoàn thành sự nghiệp cách mạng của mình, do mình và vì mình,
trước hết mình phải đoàn kết lại, phải đồng tâm nhất trí thì khối đại đoàn
kết dân tộc mới trở thành hiện thực.
2. Lực lượng đại đoàn kết dân tộc
2.1 Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Ở đây cụm từ “đại đoàn kết toàn dân” được hiểu theo hai vế đó là
“toàn dân” và “đại đoàn kết”
Thứ nhất vế toàn dân : Đó là “mọi con dân Việt”, “mỗi một người con
Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số , có tín
ngưỡng hay không, không phân biệt “già,trẻ,gái trai,giàu ,nghèo,quý,tiện”,
là phải tập hợp tất cả mọi người dân vào một khối . Hay theo khái niệm
nội hàm bao gồm nhiều tầng nấc,nhiều cấp độ các quan hệ liên kết qua lại

giữa các thành viên ,các bộ phận, các lực lượng xã hội của dân ta từ nhỏ
đến lớn, từ thấpđến cao…


Thứ hai vế đại đoàn kết: Có nghĩa là người dân Việt phải hợp lại thành
một khối không những rộng rãi mà phải lâu dài cho sự nghiệp đấu tranh
chung
2.2 Điêù kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc
Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống
yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Truyền thống này được
hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ
nước hàng ngàn năm, đó là cội nguồn sức mạnh vô địch của dân tộc.
Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người. Người đã lấy
hình tượng năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài, nhưng cả năm ngón đều
thuộc về một bàn tay, để nói lên sự cần thiết phải hiện đại đoàn kết. Đây
không phải là một sách lược nhất thời hay thủ đoạn chính trị mà là sụ tiếp
nối và phát huy truyền thống của dân tộc.
Để thực hành đoàn kết rộng rãi cần có niềm tin vào nhân dân. Với
Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì nhân dân
là nguyên tắc tối cao, tiếp nối truyền thống “lấy dân làm gốc’, ‘ chở
thuyền và làm lật thuyền cũng vì dân’
3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc
3.1 Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận
dân tộc thống nhất
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng
lại ở quan niệm, ở những lời kêu gọi, những lời hiệu triệu mà phải trở
thành một chiến lược cách mạng, phải trở thành khẩu hiệu hành động của
toàn Đảng, toàn dân tộc. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành
lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là mặt trận dân tộc thống
nhất.

Toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh vô địch
trong đấu tranh bảo vệ và xây dựng Tổ quốc khi được tập hợp, tổ chức lại
thành một khối vững chắc, được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung và
hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không được như
vậy, thì quần chúng nhân dân dù có đông tới hàng triệu, hàng trăm triệu
con người cũng chỉ là một số đông không có sức mạnh.
Thất bại của các tổ chức yêu nước và giải phóng dân tộc ở Việt Nam
trước khi Đảng ta ra đời đã chứng minh rất rõ điều này.
Về một phương diện nào đó, có thể khẳng định rằng, quá trình tìm
đường cứu nước của Hồ Chí Minh cũng là quá trình tìm kiếm mô hình và
cách thức tổ chức quần chúng nhân dân, nhằm tạo sức mạnh cho quần
chúng trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình và giải phóng xã hội.
Chính vì vậy, ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã
rất chú ý đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp
với từng giai cấp, từng ngành nghề, từng giới, từng lứa tuổi, từng tôn giáo,
phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng. Đó có thể là các hội ái hữu hay
tương trợ, công hội hay nông hội, đoàn thanh niên hay hội phụ nữ, đội
thiếu niên nhi đồng hay hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo


yêu nước hay những nghiệp đoàn... Trong đó, bao trùm nhất là mặt trận
dân tộc thống nhất.
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân
yêu nước, nơi tập hợp mọi con dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà
con bao gồm cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ
phương trời nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về Tổ
quốc Việt Nam, đều được coi là thành viên của mặt trận.
Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng,
cương lĩnh và điều lệ của mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những nét
khác nhau, tên gọi của mặt trận dân tộc thống nhất theo đó, cũng có thể

khác nhau:
Hội phản đế đồng minh (1930), Mặt trận Dân chủ (1936), Mặt trận
nhân dân phản đế(ì 939), Mặt trận Việt Minh ( 1941 ), Mặt trận Liên Việt
(1946), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (1960), Mặt trận
Tổ Quốc Việt Nam (1955.1976). Song thực chất chỉ là một, đó là tổ chức
chính trị - xã hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ, tập hợp
đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức
và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là
độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân
dân.
3.2. Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của mặt
trân dân tộc thống nhất
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nên tảng khối
liên minh công – nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
+ Mặt trận dân tộc thống nhất là thực thể của tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc, nơi quy tụ mọi con dân nước Việt. Song, đó không phải là một tập
hợp lỏng lẻo, ngẫu nhiên, tự phát của quần chúng nhân dân, mà là một
khối đại đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối liên minh công –
nông – trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là nguyên tắc cốt lõi
trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.


Người cho rằng phải lấy liên minh công – nông làm nền tảng vì:

+ Họ là người sản xuất trực tiếp tất cả mọi tài phú làm cho xã hội
sống



+ Họ đông hơn hết, mà cũng bị áp bức, bốc lột nặng nề nhất

+ Chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp
khác
Người không chỉ nhấn mạnh vai trò nòng cốt của liên minh công nông mà còn cho thấy sự cần thiết phải mở rộng đoàn kết với các
tầng lớp khác, nhất là với tầng lớp trí thức vì “trong sự nghiệp cách
mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có
một vai trò quan trọng và vẻ vang, và công, nông, trí cần đoàn kết
chặt chẽ thành một khối”




Theo Người, đại đoàn kết dân tộc là công việc của toàn dân tộc,
song nó chỉ có thể được củng cố và phát triển vững chắc khi được
Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận vừa là vấn đề
mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu bảo đảm cho mặt trận tồn
tại, phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn.

+ Chỉ có chính Đảng của giai cấp công nhân được vũ trang bởi chủ
nghĩa Mác – Lênin đánh giá đúng được vai trò của quần chúng nhân dân
trong lịch sử, mới vạch ra được đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn
để lôi kéo, tập hợp quần chúng vào khối đại đoàn kết trong mặt trận, biến
tiến trình cách mạng trở thành ngày hội thật sự của quần chúng. Chính vì
vậy, Hồ Chí Minh luôn xác định, mối quan hệ giữa Đảng và mặt trận là mối
quan hệ máu thịt.
+ Năng lực nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra các quy luật khách quan
của sự vận động lịch sử để vạch ra đường lối và phương pháp cách mạng
phù hợp, lãnh đạo mặt trận thực hiện thành công các nhiệm vụ cách mạng
mà không một lực lượng nào, một tổ chức chính trị nào trong mặt trận có
thể làm được.
+ Đảng phải đi đúng đường lối quần chúng, không được quan liêu,

mệnh lệnh và gò ép các thành viên mặt trận; phải dùng phương pháp vận
động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử,
cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, tuyệt đối không được lấy
quyền uy của mình để buộc các thành viên khác trong mặt trận phải tuân
theo.
+ Phải thành thật lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng. Cán bộ và
đảng viên không được tự cao, tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mỗi người,
trái lại phải học hỏi điều hay, điều tốt ở mọi người,…phải tích cực và phải
chủ động,…làm việc phải kiên nhẫn, phải thiết tha với công tác Mặt trận.
Cán bộ và đảng viên có quyết tâm làm như thế thì công tác Mặt trận nhất
định sẽ tiến bộ nhiều.
Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi
ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân
Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất là dể thực hiện đại đoàn kết
toàn dân, song khối đại đoàn kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu
dài khi có sự thống nhất cao độ về mục tiêu và lợi ích. Nếu không suy nghĩ
như nhau, nếu không có chung một mục đích, chung một số phận thì dù
có kêu gọi đoàn kết thế nào đi nữa, đoàn kết vẫn không thể nào có được:




Mục đích chung của mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí
Minh xác định cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng,
nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại
đoàn kết. Như vậy, độc lập, tự do là nguyên tắc bất di bất dịch, là
ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp, giai




cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo vào trong mặt trận.
Tất cả mọi người thuộc bất cứ giai tầng nào, lực lượng nào trong
mặt trận cũng phải đặt lợi ích tối cao lên trên hết bởi lẽ, lợi ích tối
cao của dân tộc được bảo đảm thì lợi ích cơ bản mỗi bộ phận, mỗi
người mới được thực hiện. Trên cơ sở đó, những quyền lợi cơ bản
của các tầng lớp nhân dân cũng được Hồ Chí Minh kết tinh vào
tiêu chí của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là độc lập, tự do,
hạnh phúc. Các tiêu chí này đã được cụ thể hóa trong từng lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,…phù hợp với mọi tầng lớp,
từng đối tượng trong mỗi thời kì lịch sử.

Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp
thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị- xã hội rộng lớn của
cả dân tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo
khác nhau, với nhiều lợi ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của mặt trận
dân tộc thống nhất phải tuân theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Nguyên tắc hợp thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề của mặt
trận đều phải được đưa ra để Đảng và các thành viên cùng nhau bàn bạc
công khai, để tìm kiếm các giải pháp tích cực và thống nhất hành động,
hướng phong trào quần chúng thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã vạch ra.


Phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết
hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, lợi ích
chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt,…Phải
làm cho tất cả các thành viên trong mặt trận thấm nhuần lợi ích
chung, lợi ích tối cao của dân tộc, phải đặt lợi ích chung lên trên
hết, trước hết.





Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong mặt trận dân tộc
thống nhất sẽ góp phần củng cố bền chặt, tạo sự đồng thuận,
nhất trí cao và thực hiện được mục tiêu: “Đồng tình, đồng sức,
đồng lòng, đồng minh”. Đó cũng là cơ sở để mở rộng khối đại
đoàn kết, lôi kéo thêm các lực lượng khác vào mặt trận dân tộc
thống nhất.

Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn
kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ:


Là một tập hợp nhiều giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái,
bên cạnh những điểm tương đồng, giữa các thành viên của
mặt trận vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc, hiệp
thương dân chủ để thu hẹp những nhân tố khác biệt, cục bộ,
nhân lên những nhân tố tích cực, nhân tố chung, đi đến thống



nhất, đoàn kết.
Người thường xuyên căn dặn mọi người cần phải khắc phục
tình trạng đoàn kết xuôi chiều, đồng thời phải có lòng nhân ái,
khoan dung, độ lượng, khắc phục thiên kiến, hẹp hòi, thiển
cận, phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình để biểu
dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, nhằm củng cố và mở
rộng khối đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất.


III. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc của
sinh viên trường đại học Thương mại vào việc xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay
1. Thực trạng sự vận dụng của đảng ta về đại đoàn kết nước ta
trong thời gian qua
Ưu điểm.
- Trong việc thực hiện đoàn kết tôn giáo, Đảng chăm lo đến đời sống
bà con giáo dân bằng việc đảng và nhà nước luôn gửi lời động viên thăm
hỏi đến bà con giáo xứ vào các dịp đặc biệt của tôn giáo, hay thực hiện
quyền bình đẳng tín ngưỡng tôn giáo trong môi trường đại học, mọi sinh
viên dều có quyền ngang nhau, không phân biệt sinh viên theo tôn giáo
của hội phật giáo, tăng ni phật tự, thể hiện quyền giữa đảng ta và giáo
đna. Nhằm tăng cường khối đại đoàn kết tôn giáo.
- Bên cạnh đó, Đảng ta cũng thực hiện khá thành công khối đại đoàn
kết các dân tộc anh em, qua đó 54 dân tộc được đối xử bình đẳng với


nhau, giúp đỡ cùng nhau tiến bộ, với các dân tộc tiểu số vùng sâu cùng xa
không cố điều kiện kinh tế, Đảng hõ trợ cho vay và đưa các cán bộ lên dạy
bà con dân tộc trồng trọt chăn nuôi để ổn định kinh tế, đưa trường, đưa
giáo viên lên dạy chữ cho đồng bào, hỗ trợ các em dân tộc đi học cao hơn.
- Đối với các kiều bào nước ngoài ngoài bằng việc có các tổ chức VN
ở nước ngoài để trực tiếp gần gũi giúp đỡ bà con kiểu bào ở nước ngoài,
thì Đảng gửi thư thăm hỏi động viên chân tình , luôn thể hiện mong muốn
bà con người Việt ở nước ngoài đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, và không quên
về quê hương đất nước.
- Đảng ta giải quyết ngày càng hiệu quả nững vấn dề bức xúc của
nhân đan, thực hiện dâm chủ, đổi mới xã hội, chăm lo lợi ích chính đáng
của các tầng lớp nhân đan, củng cố tinh thần đại đoàn kết dân tộc.
Nhược điểm

- Đội ngũ cán bộ các cấp chính quyền chưa thực sự “trong sách”, tổ
chức nhà nước chưa “vững mạnh” . Nhiều cán bộ nhà nước ở cấp một số
địa phương còn cậy quyền cậy thế chèn ép nhân dân, không để nhân dân
thực hiện quyền làm chủ của mình. Nhiều cán bộ cậy quyền tước vi phạm
các tệ nạn xã hội như tham ô, tham nhũng, chiếm đoạt của công làm của
riêng phục vụ những thú vui xa hoa của mình.
- Về nhân dân, ngày nay do du nhập nhiều nguồn văn hóa khác
nhau , nhiều bạn trẻ thiếu định hướng của gia đình nhà trường đã học tậ
những nét văn hóa không lành mạnh từ môi trường bên ngoài gây tác
động xấu cho xã hội.
- Trong thời kỳ kinh tế thị trường, sức mạnh của đồng tiền đã làm
cho nhiều lãnh đạo doanh nghiệp đánh mất giá trị tốt đẹp truyền thống
bằng việc chạy đua lợi nhuận không tính đến hậu quả sản xuất ra những
sản phẩm gây hại, hàng giả hàng nhái, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi
trường, một số doah nghiệp cạnh tranh không lành mạnh nhằm đạt được
mục đích gây mất đoàn kết trong khối doanh nghiệp, làm giảm uy tín của
Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Giải pháp
- Khơi dậy và phải huy cao độ sức mạnh nội lực, phải xuất phát từ lợi
ích dân tộc, từ phát huy nội lực mà mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ
mọi khả năng để xây dựng, phát triển đất nước.
- Chống các tệ nạn xã hội như: tham nhũng, quan liêu, vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân, phải biết lắng nghe những ý nguyện chính
đáng của nhân dân, phải kịp thời giải quyết các oan ức của nhân dân, làm
cho lòng dân được yên.


- Phải chú ý phát huy tinh năng động của mỗi người, mỗi bộ phận để
mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đén sản xuất kinh doanh, học tập và lao
động đều có năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Đồng thời ,

phải khắc phục được những tiêu cực của kinh tế thị trường, đặc biêt là tâm
lý chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh là phai nhạt truyền
thống đoàn kết, tình nghĩa tương thân, tương ái của dân tộc và Đảng.
- Trong tình hình thế giới hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải có những chủ
trương đúng đắn, sáng tạo trong việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thử thách,
đẩy lùi nguy cơ, để vừa nâng cao hiệu quả quốc tế, vừa để giữ vững bản
sắc dân tộc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Những quan điểm, chính sách của Đảng phải được ý kiếm của nhân
dân thông qua, được sự đồng lòng nhất trí của nhân dân để tạ được lòng
tin của nhân dân, xây dựng khối đoàn kết trong toàn Đảng, toàn dân phải
là mục tiêu chiến lược của Đảng ta.
- Trong tất cả người Việt Nam sống ở trong nước hay nước ngoài đều
tiềm ẩn tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc. Vì vậy cần khơi nguồn phát
triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tịc và trí tuệ con người Việt Nam, thực thi
chiến lược đại đoàn kết dân tộc của chủ tịch Hồ Chí Minh một cách sáng
tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp
với mọi đối tượng tập thể.
2. Giải pháp, vận dụng của sinh viên trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết dân tộc.
2.1 Thực trạng tư tưởng đạo đức của sinh viên trường đại học
Thương Mại.
Những ảnh hưởng tích cực
- Sinh viên những người tiên phong trong mọi công cuộc cải cách,
đổi mới về kinh tế, giáo dục… Với thế mạnh là được đào tạo vừa toàn diện
vừa chuyên sâu, sinh viên có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế,
xã hội của đất nước. Trong học tập sinh viên không ngừng đổi mới phương
pháp học sao cho lượng kiến thức họ th được là tối đa. Không chờ đợi, thụ
động, dựa vào thời cô, họ tự mình đọc sách, nghiên cứu, lấy những thông
tin, tài liệu từ mọi nguồn. Phần lớn sinh viên đều có khả năng thích nghi
cao với mọi môi trường sinh sống và học tập. Họ không chỉ học ở một

phạm vi hẹp ở trường, lớp; giới trẻ hiện nay luôn phát huy tinh thần học
tập ở mọi lúc, mọi nơi. Không chỉ lĩnh hội tri thức của nhân loại, sinh viên
còn tiếp thu những cái hay, cái đẹp trong mọi lĩnh vực khác như văn hóa,
nghệ thuật…Sự năng động của sinh viên còn được thể hiện ở việc tích cực
tham gia các hoạt động xã hội như y tế, từ thiện…Ngoài giờ học, những
sinh viên tuyễn truyền việc hiến máu nhân đạo lại ngược xuôi đi lại mang
kiến thức về hiến máu đén mọi nơi, mọi nhà…bằng sự năng động sinh viên
luôn cập nhật thông tin, kiến thức làm mới mình phù hợp với sự thay đổivà
phát triển của xã hội


- Sinh viên dám làm, dám nghĩ, dám chịu thử thách. Các ý tưởng độc
đáo không chỉ nằm trong suy nghĩ mà luôn được thử nghiệm trong thực tế.
Có thể thành công hoặc thất bại, song họ không hề chùn bước. Với họ mỗi
lần thất bại lại làm họ tự tin hơn nhiều kinh nghiệm hơn. Đứng trước cha
anh họ luôn tự tin vào chính mình. Họ tin rằng với những tri thức mình có
trong tay với những gì họ đã, đang và sẽ làm các bậc cha anh sẽ tự hào về
họ. Một điều quan trọng đáng nói ở đây, đó là nếu gặp rủi ro thất bại thì
họ sẵn sàng chấp nhận như một chuyện đương nhiên tất yế sẽ xảy ra, tức
là có thất bại thì thất bại ấy cũng nằm trong kế hoạch. Họ dám nhìn thẳng
vào thất bại và dám vượt qua nó. Tóm lại táo bạo và tự tin là điểm rất
đáng quý trong lối sống của sinh viên.
- Sinh viên ngày nay đã biết tự lập. Không chỉ riêng việc học tập, mà
mọi vấn đề khác trong cuộc sống đều được sinh viên giải quyết trong sự
chủ động. Họ bắt đầu tìm kiếm việc làm thêm tiền mua sách vở hay phục
vụ cho những chi tiêu thường ngày khác. Nhiều người không chỉ lo được
cho bản thân mà còn có thể giúp đỡ những người bạn khác thiệt thòi hơn
mình, hay giúp dỡ gia đình ngay cả khi họ vẫn còn ngồi trong giảng đường
đại học.
Những ảnh hưởng tiêu cực

- Bên cạnh đó do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, hội nhập
quốc tế, sự bùng phát của lối sống thực dụng, chạy theo danh lợi bất chấp
đạo lí đã dẫn đến những tiêu cực trong xã hội ngày càng phổ biến. Đó là
tình trạng” một bộ phận cán bộ đảng viên kể cả một số cán bộ chủ chốt
yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong gương mẫu,
vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ”. Thêm vào đó là những biểu
hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục, sự chống
phá của các thế lực phản động quốc tế nhằm thực hiện âm mưu “diễn
biến hòa binh”… đã tác động không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân,
ảnh hưởng lớn đến tâm tư, tình cảm, ý chí phấn đấu của sinh viên, thanh
niên tri thức. Hậu quả là đã có một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lí
tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có chí lập thân lập nghiệp;
chạy theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm thiếu trách nhiệm,
thờ ơ với gia đình và xã hội, xa vào nghiện ngập hút sách; thiếu trung
thực, gian lận trong thi cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng
cấp…
- Chúng ta đang sống trong thời đại mới – thời đại văn minh khoa
học nhất là sự phát triển vượt bậc của ngành công nghệ thông tin; nó đã
làm cho cuộc sống con người ngày càng được nâng cao. Đáng tiếc là thay
vào đó thì các giá trị đạo đứ đang bị xói mòn bởi chủ nghĩa thực dụng, duy
vật chất. Hơn nữa, giới trẻ ngày nay chạy theo lối sống hưởng thụ, mà họ
cho là hợp thời, sành điệu; họ bỏ qua những giá trị đạo đức là nền tảng
cốtyếu của con người.
2.2 Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Giải pháp của Bác:
- Đoàn kết dựa vào dân là tư duy chính trị và là kế sách giữ nước của
ông cha ta (biểu hiện trong thơ ca văn học) và Hồ Chí Minh đã kế thừa có
chọn lọc những tư tưởng văn hóa của phương Đông có giá trị hợp lý như:
tư tưởng nhân ái, tinh thần từ bi bác ái và những trào lưu dân chủ tư sản
phương Tây về tư tưởng tự do bình đẳng, bác ái. Mặt khác, Hồ Chí Minh



tiếp thu và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin về đoàn kết và tập hợp lực lượng. ).
- Thứ nhất, Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm
thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Thứ hai, Đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập,
thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân
biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở,
tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai.
- Thứ ba, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích
thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân,
kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội, thực
hiện dân chủ với giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu tham nhũng, lãng phí,
không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân
tộc thống nhất Tổ quốc, tinh thần tự lực, tự cường, xây dựng đất nước,
xem đó là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn
kết dân tộc.
- Thứ tư, Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc của cả hệ thống
chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng
nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính
sách pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Giải pháp vận dụng của sinh viên
- Xây dựng khối đại đoàn kết trên cơ sở tự phê bình, phê bình thẳng
thắn, có trách nhiệm cao, có tinh thần xây dựng, không né tránh khuyết
điểm, không đoàn kết một chiều, không đoàn kết hình thức theo kiểu

“Bằng mặt mà không bằng lòng”. Những hành vi lợi dụng danh nghĩa đấu
tranh phê bình để mưu cầu lợi ích riêng, làm ảnh hưởng đến uy tín, danh
dự của người khác, làm ảnh hưởng tới khối đoàn kết trong tập thể nhà
trường, cần phải cực lực phản đối và đặc biệt cần lên án những trường hợp
đơn thư nặc danh, vượt cấp.
- Đoàn kết muốn bền chặt, lâu dài phân hiệu cần phải có môi trường
sống và làm việc với tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, có sự bao dung
rộng lượng, luôn tạo cơ hội cho mọi người có điều kiện phát triển, qua đó
để mọi người luôn cảm thấy tình thân ái của những người xung quanh,
cảm nhận nhà trường như tổ ấm thứ hai của mình vì vậy mà tinh thần
cộng đồng chung tay xây dựng Phân hiệu phát triển càng được phát huy.
- Một trong những điều kiện làm cho khối đoàn kết trong nhà trường
được nâng cao đó chính là sự tạo dựng niềm tin cho học sinh, sinh viên..
Càng dân chủ, công khai bao nhiêu, càng tăng cường tính trách nhiệm của
các thành viên trong nhà trường bấy nhiêu, mọi người đều thấy mình có
vai trò đóng góp cho trường ở các phạm vi, mức độ, các lĩnh vực khác
nhau.
- Vừa tập trung làm tốt công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học; nâng
cao trình độ chuyên môn cho sinh viên vừa tạo môi trường cảnh quan của
nhà trường xanh, sạch, đẹp; vừa quan tâm xây dựng môi trường sinh hoạt


đời sống tinh thần vui tươi, lành mạnh cho học sinh sinh viên bằng nhiều
hình thức tổ chức giao lưu đa dạng, phong phú: Văn hóa, văn nghệ, thể
dục thể thao, các diễn đàn trao đổi theo chủ đề, chuyên đề có ý nghĩa
thiết thực đến đời sống hàng ngày. Thông qua các loại hình tổ chức sinh
hoạt tập thể như vậy, mọi người có điều kiện gần gũi, hiểu nhau hơn, chia
sẻ tình cảm, chia sẻ những khó khăn thuận lợi với nhau nhiều hơn và từ đó
mà tinh thần đoàn kết gắn bó với nhau sẽ càng tốt hơn.
Chung lại, để giữ được văn hóa đoàn kết đòi hỏi mỗi cá nhân phải

luôn tìm cách cân bằng được cả hai cảm xúc suy nghĩ tiêu cực và tích cực
của mình. Trong tư tưởng mỗi cá nhân phải nhấn mạnh được mục đích
chung và lợi ích chung của tất cả để cùng hướng mội người về một mối.


C. KẾT LUẬN
Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, là công việc của mỗi
người dân. Để đạt được sự đồng thuận xã hội, đòi hỏi mọi thành viên trong
xã hội phải tôn trọng và hành động theo những nguyên tắc và ý chí chung.
Mỗi quyết định được thông qua phải là “mẫu số chung”, phản ánh và thể
hiện nguyện vọng, lợi ích của mọi thành viên, của toàn xã hội. Sự đồng
thuận nhằm đạt tới sự gắn kết xã hội, chống lại sự phân liệt xã hội. “Mẫu
số chung” ấy trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, trong điều kiện đất nước đa dân tộc, đa
tôn giáo… cũng là biểu hiện của điểm tương đồng. Do vậy, có thể quan
niệm đồng thuận trong xã hội ta hiện nay là sự nhất trí trên những điểm
tương đồng. Về chính trị, đó là sự đồng thuận vì mục tiêu chung: giữ vững
độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Về kinh tế, đó là sự phát triển hài hoà các
lợi ích vì sự phát triển chung của đất nước. Về tinh thần, tư tưởng, đó là
chủ nghĩa yêu nước chân chính. Về văn hoá, đó là sự hướng tới những giá
trị chân – thiện – mỹ, tôn trọng những giá trị văn hoá, đạo đức mang tính
nhân văn... Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, gồm
Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; trong đó
vai trò hạt nhân lãnh đạo là tổ chức Đảng. Nhà nước đóng vai trò to lớn
trong việc thực hiện đại đoàn kết không phải chỉ bằng việc thể chế hoá
đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, mà còn ở
trách nhiệm tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật đó. Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể quần chúng khác có vai trò đại diện cho lợi
ích chung của nhân dân cũng như của các nhóm quần chúng; là cầu nối

giữa Đảng, chính quyền và nhân dân. Nói tóm lại, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc sẽ phát huy sức mạnh tổng hợp của người Việt Nam nhằm
xây dựng thành công xã hội mới với những đặc trưng cơ bản: dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.


ĐỀ TÀI 2: Tư tưởng HCM về đạo đức. Nội dung học tập và
làm theo tấm gương đạo đức HCM của sinh viên trường
Đại học Thương Mại trong giai đoạn hiện nay.
A.MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài .
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lãnh tụ vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Anh hùng giải phóng dân tộc,Danh nhân văn hoá thế giới đã về với cõi
vĩnh hằng được gần 42 năm. Người ra đi, nhưng đã để lại cho toàn Đảng,
toàn dân ta một di sản vô cùng to lớn –đó là tư tưởng về đạo đức cách
mạng. Có thể nói rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được
bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, nền đạo đức đã
được hình thành hàng ngàn năm suốt chiều dài lịch sử dân tộc và kế
thừa tư tưởng đạo đức phương Đông cũng như tinh hoa đạo đức của nhân
loại và dựa trên nền tảng tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác
– Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo
đức của dân tộc,vừa thâu góp những đạo đức của thời đại, đề xuất những
tư tưởng đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam
trong thời đại mới và hướng tới việc xây dựng con người mới có đủ đức,
đủ tài phục vụ đất nước và làm rạng ngời con người Việt Nam.Là một
công dân Việt Nam, là thế hệ trẻ trong thời đại mới, là chủ nhân tương lai
của đất nước bản thân sinh viên cần phải cố gắng hơn nữa, tích cực hơn
nữa trong học tập cũng như trong mọi phong trào hoạt động của đoàn
trường và xã hội. Trau dồi kiến thức trong học tập và trong cuộc sống, rút
ra những bài học kinh nghiệm, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức làm

nền tảng để xây dựng cho bản thân mình một đạo đức tốt, xứng đáng là
một công dân Việt Nam.
2.Tổng quan nghiên cứu.
a. Nghiên cứu cơ sở hình thành đạo đức.
- Quan điểm truyền thống
- Quan điểm hiện đại
- Quan điểm của chủ nghĩ Mác- Lê nin
b.Nghiên cứu quan điểm về đạo đức.
- Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
- Tư tưởng HCM về chuẩn mực
- Các nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
3.Mục tiêu nghiên cứu
Để tất cả mọi người xây dựng cho bản thân mình một đạo đức tốt và lấy tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức làm nền tảng. Chúng ta cần phải hiểu tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là gì? Và để hiểu rõ và nhận thức sâu sắc
vềnhững nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minhthì chúng ta cần phải đi tìm hiểu về nó.


B.NỘI DUNG
I.Cơ sở hình thành (cơ sở lý luận)
1. Quan điểm truyền thống:
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là đạo lý làm người và nhờ
đó, con người mới thực sự làm người theo đúng nghĩa là NGƯỜI. Vì thế, tư
tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh mang đậm tính nhân văn sâu sắc; là sự
kết hợp chặt chẽ giữa truyền thống và hiện đại, vừa “tiên tiến” vừa “đậm
đà bản sắc dân tộc”; là sự thống nhất hữu cơ giữa tính thực tiễn và tính
khoa học.
Người quan niệm rằng, “… đạo đức cách mạng của người đảng viên
là bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và

nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng”, “… là vô luận
trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên
trên hết”, “là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng,
hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng”.
Quan điểm về đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh khác hẳn về chất
so với mọi quan điểm về đạo đức trong các xã hội cũ. Người luận chứng
rằng, đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời.
Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngẩng lên
trời; rằng, bọn phong kiến ngày xưa đưa ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng
không bao giờ thực hiện, mà bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự
quyền lợi của chúng. Ngày nay, chúng ta đề ra và thực hiện cần, kiệm,
liêm, chính là nhằm làm cho ích nước, lợi dân. Đạo đức của con người
không phải mang tính chất “tiên thiên” như Nho gia quan niệm, cũng
không phải là cái gì đó có tính “nhất thành bất biến”, mà nó được hình
thành do hoàn cảnh giáo dục, do sự rèn luyện, phấn đấu và tu sửa bản
thân của mỗi người. Từ quan niệm cho rằng, “đạo đức cách mạng không
phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà
phát triển và củng cố”, Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi người phải thường xuyên
được giáo dục và tự giáo dục về mặt đạo đức.
2. Quan điểm hiện đại:
Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực trong việc tiếp thu những
chuẩn mực giá trị đạo đức được đúc kết bởi truyền thống dân tộc để xây
dựng hệ thống giá trị đạo đức mới mang tính giai cấp, tính dân tộc trong
thời đại mới. Các phạm trù nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng của Nho giáo được
Người kế thừa, phát triển một cách sinh động, tinh tế và chứa đựng những
nội dung mới. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, nhân là “thật thà thương
yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào”; nghĩa là “ngay thẳng, không
có tư tâm, không làm việc bậy, không có gì dấu Đảng” và trí là “sáng suốt,
dễ hiểu lý luận, dễ tìm phương hướng, biết xem người, xem việc”. Nhưng
để thực hiện nhân, nghĩa, trí, con người còn cần phải có dũng. Dũng là

“dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan
sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự


vinh hoa, phú quý không chính đáng. Nếu cần, thì có gan hy sinh cả tính
mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát”.
3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin:
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh thấm nhuần triết lý hành động
của phương Đông, được soi sáng bởi thế giới quan và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của đạo đức
đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Người đặc biệt quan tâm đến việc
giáo dục đạo đức cách mạng cho mọi người. Trước lúc ra đi, Hồ Chí Minh
không quên căn dặn mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư; phải tích cực học tập và trau dồi đạo đức cách
mạng.
II. Quan điểm đạo đức
1. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
1.1 Đạo đức là nền tảng của người cách mạng.
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng
và phát triển con người. Người nói:’ Cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo dược nhân dân.” Người cho rằng, “ Sức có
mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo
đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng
vẻ vang.”
Người nói, cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân phục thì không
phải cứ “viết lên trán chữ cộng sản mà ta được họ mến yêu. Quần chúng
chỉ quý mến những người có tu cách, đạo đức”. “Vì muốn giải phóng cho
dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình

không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn
làm nổi việc gì?”.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Người trăn trở với nguy cơ Đảng
xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng, rơi vào thoái hoá, biến chất. Vì vậy,
Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người nhắc lại
ý của Lênin: Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm
của dân tộc và thời đại. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Mỗi đảng viên va
cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành dộng, lấy hiệu
quả thực tế làm thước đo. Chính vì vậy Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên
cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi đôi với hành động và hiêu quả
trên thực tế. Người nói: “phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu
cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy
kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc
không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”.



Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên,
phẩm chất và năng lực thống nhất làm một. Trong đó; Đức là gốc của tài;
hồng là gốc của chuyên; phẩm chất là gốc của năng lực. Tài là thể hiện
cụ thể của đức trong hiêu quả hành động
1.2 Đạo đức là nhân tổ tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội không phải ở lý
tưởng cao xa nào, mà trước hết, cụ thể và trực tiếp là ở những người cộng
sản ưu tú bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý
tưởng đó thành hiện thực. Củng cố hay làm suy giảm niềm tin của quần
chúng vào tương lai của chủ nghĩa xã hội không phải ở những sai lầm và

thất bại tạm thời, mà chủ yếu là ở sự sa sút thoái hóa của những người
được mệnh danh là “những chiến sĩ tiên phong” của cách mạng.
Nhận thức được vai trò và sức mạnh của sự nêu gương, Hồ Chí Minh
thường xuyên nhắc đến tấm gương đạo đức của V.I.Lênin: “Không phải chỉ
thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao
động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao
đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã
khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”.
Hồ Chí Minh cho rằng, đã là cán bộ, đảng viên thì trước hết phải trở
thành một công dân mẫu mực, làm nòng cốt cho giữ gìn phẩm chất đạo
đức và kỷ cương xã hội. Sự mực thước, nêu gương của người cán bộ, đảng
viên trước nhân dân là vô cùng cần thiết.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết
lên trán hai chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý
mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình
phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Cuộc đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng là theo
lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Đặc trưng của lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là
tính nhân đạo chân chính, với phương châm “tất cả vì con người, vì hạnh
phúc của con người”. Sự thỏa mãn toàn diện và triệt để nhu cầu vật chất
và tinh thần của con người khiến lý tưởng cộng sản chủ nghĩa mang giá trị
đạo đức, văn minh.
Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn Đảng ta “chủ nghĩa cộng sản là
mục đích cuối cùng của Đảng ta. Đấu tranh cho chủ nghĩa cộng sản là lẽ
sống của người đảng viên..., mỗi đảng viên nâng cao quyết tâm phấn đấu
suốt đời cho lý tưởng cộng sản..., cần luôn luôn ghi nhớ: Người cộng sản
chúng ta
2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
2.1


Trung với nước, hiếu với dân
Theo quan niệm thời xa xưa: “Trung” là trung thành với Vua, các
triều thần, những người dưới vua phải hết lòng phục tùng vua một cách vô
điều kiện. “Hiếu” là hiếu thảo, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ, đó là nghĩa
của con cháu đối với những người có công sinh thành, dưỡng dục.


Theo quan điểm HCM: “Trung” là trung thành vô hạn với sự nghiệp
dựng nước và giữ nước, đấu tranh giành độc lập dân tộc, mà “ nước là của
dân” vậy nên trung với nước là trung với dân, trung thành với lợi ích của
nhân dân “Hiếu” là hiếu với nhân dân, với toàn dân tộc, vì lợi ích của toàn
nhân dân
=> Sự sáng tạo quan điểm trên: Bác đã mở rộng phạm vi đối tượng
không chỉ dừng lại ở phạm vi gia đình mà còn mở rộng ra toàn dân, thay vị
thế của “vua là nước”, bởi nước với vua là một. Và ở đây ta thấy được mối
quan hệ chặt chẽ giữa nước và dân trong tư tưởng của Bác mang ý nghĩa
nhân văn sâu sắc, hóa quyện với nhau trong một thể thống nhất về trách
nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của công dân với cộng đồng quốc gia.
Biểu hiện của Hồ Chí Minh:
Khi Bác mở lớp huấn luyện, đào tạo lớp cán bộ đầu tiên của Đảng (ở
Quảng Châu, Trung Quốc), một trong những vấn đề đầu tiên của Bác quan
tâm là đào tạo những người tình nguyện hy sinh phấn đấu suốt đời cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và con người, học tập tìm
hiểu theo chủ nghĩa Mác-Lenin là để “giữ chủ nghiã cho vững” , tuyệt đối
trung thành với sự nghiệp lớn của Đảng, biết đoàn kết và tổ chức quần
chúng thực hiện.Trong suốt quá trình xây dựng Đảng, lãnh đạo cách mạng
Bác thường xuyên quan tâm đến việc nâng cao tinh thần trung, hiếu ở mỗi
người dân Việt nói chung và cán bộ đảng viên nói riêng đòi hỏi phải luôn
ghi sâu trong lòng “trung với nước, hiếu với dân”


2.2 Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cách hiểu theo nghĩa gốc:
+ “Cần” là cần cù chăm chỉ
+ “Kiệm” là tiết kiệm
+ “Liêm” là tính trong sạch, không tham của công
+ “Chính” là đúng đắn, thẳng thắn phân biệt chính tà
+ “Chí công vô tư” là vì lợi ích chung, không thiên lệch đem lòng chí công
đối với người, với việc
Theo tư tưởng HCM:
+ “Cần” là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch sáng tạo
năng suất cao, lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng ,ỷ
lại.
+ “Kiệm” là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiền bạc của nhân
dân, của đất nước , của bản thân.
+ “Liêm” là luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân, không xâm phạm
một đồng xu, hạt thóc của nhà nước và của dân.


×