Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm sinh thái, phân bổ, và đề xuất biện pháp bảo tồn cho loài thỏ vằn trường sơn nesolagus timminsi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.75 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------

Nguyễn Tuấn Anh

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI, PHÂN BỐ, VÀ ĐỀ
XUẤT BIỆN PHÁP BẢO TỒN CHO LOÀI THỎ VẰN TRƯỜNG SƠN
NESOLAGUS TIMMINSI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------

Nguyễn Tuấn Anh

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI, PHÂN BỐ, VÀ ĐỀ
XUẤT BIỆN PHÁP BẢO TỒN CHO LOÀI THỎ VẰN TRƯỜNG SƠN
NESOLAGUS TIMMINSI

Chuyên ngành: Khoa học môi trường
Mã số: 8440301.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS. TS. Lê Đức Minh

Hà Nội – 2019


Lời cảm ơn

Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn của tôi, là PGS. TS. Lê
Đức Minh, đã giúp đỡ tôi tận tình trong toàn bộ quá trình học và quá trình thực hiện
luận văn thạc sĩ này. Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo của Khoa Môi trường,
trường Đại học Khoa học tự nhiên nói chung, và các thầy cô giáo của Bộ môn Sinh
thái môi trường nói riêng, đặc biệt là PGS. TS. Trần Văn Thụy, PGS. TS. Nguyễn
Kiều Băng Tâm, Th.S. Nguyễn Thị Thu Hà, đã tạo điều kiện cho tôi trong thời gian
học tập.
Tiếp theo, tôi xin cảm ơn TS. Mary Blair, giám đốc phòng Tin Sinh học, Trung tâm
Bảo tồn đa dạng sinh học, Bảo tàng lịch sử tự nhiên Hoa Kỳ, và các đồng nghiệp ở
Bảo tàng lịch sử tự nhiên Hoa Kỳ, đặc biệt là Ned Horning và Peter Galante, đã
giúp đỡ trong thời gian đầu tôi làm quen với các phương pháp mô hình hóa.
Nhiều phần về thực địa và tổng hợp số liệu của luận văn này sẽ không thể thực hiện
được nếu không có sự giúp đỡ tận tình của các anh chị, các đồng nghiệp, bao gồm
anh Nguyễn Văn Thành, Ngô Thị Hạnh, và Nguyễn Thị Thắm ở Đại học Khoa học
tự nhiên Hà Nội, anh Nguyễn Thế Trường An, và anh Andrew Tilker ở Viện nghiên
cứu thú Leibniz, anh Trịnh Đình Hoàng ở Fauna & Flora International Việt Nam,
Santi Xayyasith ở Đại học Quốc gia Lào, anh Trần Văn Bằng ở Viện Sinh thái học
miền Nam, anh Nguyễn Quảng Trường ở Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, chị
Nguyễn Thị Ánh Minh ở Đại học Khoa học tự nhiên Thành phố Hồ Chí Minh, và
nhiều anh em, cán bộ kiểm lâm, và người dẫn đường địa phương ở nhiều khu bảo
tồn trên cả nước.
Hà Nội, 18/06/2019
Nguyễn Tuấn Anh



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN.....................................................................................3
1.1. Tổng quan về đa dạng sinh học ở khu vực dãy Trường Sơn ............................3
1.2. Tổng quan về loài Thỏ vằn Trường Sơn ...........................................................7
1.3. Tổng quan về tình hình khảo sát bẫy ảnh .......................................................10
1.4. Tổng quan về Mô hình hóa phân bố loài ........................................................14
1.4.1. Sơ lược nghiên cứu mô hình hóa phân bố loài trên thế giới ....................14
1.4.2. Sơ lược nghiên cứu mô hình hóa phân bố loài ở Việt Nam .....................17
1.5. Tổng quan về các khu vực nghiên cứu chính .................................................19
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................33
2.1. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................33
2.2. Nội dung nghiên cứu.......................................................................................34
2.3. Thời gian thực hiện .........................................................................................35
2.4. Dụng cụ nghiên cứu chính ..............................................................................35
2.5. Các phương pháp nghiên cứu chính ...............................................................36
2.5.1. Phương pháp kế thừa tài liệu ....................................................................36
2.5.2. Phương pháp phỏng vấn ...........................................................................36
2.5.3. Phương pháp điều tra thực địa theo tuyến ................................................37
2.5.4. Phương pháp điều tra bẫy ảnh ..................................................................38
2.5.5. Phương pháp mô hình hóa phân bố ..........................................................40


CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..............................................................45
3.1. Kết quả điều tra thực địa theo tuyến ...............................................................45
3.2. Kết quả điều tra bẫy ảnh .................................................................................46
3.3. Kết quả mô hình hóa phân bố .........................................................................55

3.3.1. Các ghi nhận về phân bố của Thỏ vằn Trường Sơn .................................55
3.3.2. Kết quả mô hình phân bố cho loài Thỏ vằn .............................................64
3.4. Một số biện pháp bảo tồn cho loài Thỏ vằn Trường Sơn ...............................74
3.4.1. Các yếu tố chính tác động đến quần thể Thỏ vằn Trường Sơn ................74
3.4.2. Các biện pháp bảo tồn quần thể ...............................................................75
3.4.3. Các biện pháp bảo vệ sinh cảnh ...............................................................76
3.4.4. Các biện pháp tuyên truyền nâng cao năng lực và nhận thức ..................77
3.5. Thảo luận ........................................................................................................77
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................86
PHỤ LỤC .................................................................................................................97


DANH MỤC HÌNH

Hình 1. Bản đồ độ cao khu vực dãy Trường Sơn .......................................................4
Hình 2. Một loài Nguy cấp, Cầy vằn Bắc (Chrosogale owstoni),
được ghi nhận bằng bẫy ảnh tại khu vực nghiên cứu................................................11
Hình 3. Vị trí bốn khu vực nghiên cứu chính của luận văn,
so với một số khu bảo tồn khác trong khu vực dãy Trường Sơn. .............................21
Hình 4. Một khu vực tại Vườn quốc gia Bến En ......................................................24
Hình 5. Một khu vực tại khu bảo tồn Sao la Huế .....................................................32
Hình 6. Minh họa giá trị AICs dùng để lựa chọn mô hình .......................................43
Hình 7. Biểu đồ khung nghiên cứu của luận văn .....................................................44
Hình 8. Các tuyến điều tra đã khảo sát ở Vườn quốc gia Bến En ............................45
Hình 9. Các tuyến điều tra đã khảo sát ở khu bảo tồn Hin Nam No ........................46
Hình 10. Ghi nhận Thỏ vằn bằng bẫy ảnh ở khu bảo tồn Sao la Huế ......................48
Hình 11. Đặc điểm sinh thái thời gian trong ngày của Thỏ vằn Trường Sơn ..........49
Hình 12. Tỉ lệ xuất hiện từ 18h00 đến 22h00 ở các tháng trong năm
của Thỏ vằn Trường Sơn...........................................................................................50

Hình 13. Tỉ lệ xuất hiện vào các ngày trong tháng của Thỏ vằn Trường Sơn .........51
Hình 14. Tỉ lệ xuất hiện vào các nhóm 5 ngày của Thỏ vằn Trường Sơn ...............51
Hình 15. Tỉ lệ xuất hiện vào các tháng trong năm của Thỏ vằn Trường Sơn ..........52
Hình 16. Tỉ lệ xuất hiện vào các tháng trong năm của
Cầy vòi hương (Paradoxurus hermaphroditus) ở khu bảo tồn Sao la Huế ..............53
Hình 17. Tỉ lệ xuất hiện vào các tháng trong năm của
Chồn bạc má Bắc (Melogale moschata) ở khu bảo tồn Sao la Huế..........................53
Hình 18. Tổng hợp các điểm ghi nhận của Thỏ vằn Trường Sơn từ trước tới nay ..64
Hình 19. Giá trị AUC của mô hình tốt nhất cho
phân bố tiềm năng hiện tại của Maxent ....................................................................65
Hình 20. Phân bố tiềm năng hiện tại của Thỏ vằn Trường Sơn,
với vị trí của các khu bảo tồn ở khu vực dãy Trường Sơn ........................................66


Hình 21. Vùng phân bố dự kiến của Thỏ vằn Trường Sơn
ở năm 2050 dưới kịch bản RCP 2,6 và kịch bản RCP 8,5
của mô hình hoàn lưu khí hậu toàn cầu BCC-CSM1-1 ............................................69
Hình 22. Vùng phân bố dự kiến của Thỏ vằn Trường Sơn
ở năm 2050 dưới kịch bản RCP 2,6 và kịch bản RCP 8,5
của mô hình hoàn lưu khí hậu toàn cầu MIROC5 ....................................................70
Hình 23. Vùng phân bố dự kiến của Thỏ vằn Trường Sơn
ở năm 2050 dưới kịch bản RCP 8,5 của mô hình hoàn lưu khí hậu toàn cầu
BCC-CSM1-1 và phân vùng độ cao ở Việt Nam và Lào ..........................................72
Hình 24. Vùng phân bố dự kiến của Thỏ vằn Trường Sơn
ở năm 2050 dưới kịch bản RCP 8,5 của mô hình hoàn lưu khí hậu toàn cầu
MIROC5 và phân vùng độ cao ở Việt Nam và Lào ..................................................73
Hình 25. Vùng phân bố tiềm năng hiện nay của Thỏ vằn Trường Sơn
so với các vùng có độ cao khác nhau ........................................................................78
Hình 26. Vị trí tương đối của vùng phân bố tiềm năng hiện tại của
Thỏ vằn Trường Sơn với hệ thống sông Mã ở phía Bắc và

hệ thống sông Sê San – sông Ba ở phía Nam ...........................................................82


DANH MỤC BẢNG

Bảng 1. Các khu vực điều tra thực địa chính của luận văn ......................................20
Bảng 2. Kết quả tổng hợp các ghi nhận về Thỏ vằn từ trước tới này .......................55
Bảng 3. Diện tích vùng phân bố dự kiến của Thỏ vằn Trường Sơn
trong các kịch bản biến đổi khí hậu khác nhau .........................................................71


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

IUCN

Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (International Union for
Conservation of Nature)

Cs

Cộng sự

Maxent

Phần mềm Maximum Entropy


MỞ ĐẦU

Dãy Trường Sơn là một khu vực có mức độ đa dạng sinh học cao, với nhiều loài thú

đặc hữu và quý hiếm, như Sao la (Pseudoryx nghetinhensi), Vooc Hà Tĩnh
(Trachypithecus hatinhensis), Vượn má trắng Nam (Nomascus siki), Lợn rừng
Heude (Sus bucculentus), Mang Trường Sơn (Muntiacus truongsonensis) [76]. Khu
vực này được coi là “mỏ loài mới” của Việt Nam nói riêng, và khu vực Đông
Dương nói chung, với nhiều loài thú được phát hiện hoặc tái phát hiện ở giai đoạn
gần đây, đặc biệt là từ những năm 1990 trở về đây, ví dụ như Mang Trường Sơn
(Muntiacus truongsonensis) [33], Thỏ vằn Trường Sơn (Nesolagus timminsi) [11],
Mang Roosevelt (Muntiacus rooseveltorum) [53]. Tuy nhiên, với mức độ đa dạng
cao như vậy, các loài sinh vật ở Trường Sơn đã và đang chịu ảnh hưởng tiêu cực từ
việc săn bắn trái phép quá mức và phá hủy sinh cảnh.
Tình trạng săn bắn trái phép là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất đối với
các loài: nhiều loài đã trở nên rất khó ghi nhận ngoài tự nhiên do tình trạng sử dụng
bẫy dây phanh với quy mô lớn như Sao la, một số loài khác thậm chí đã bị tuyệt
chủng [76]. Trong đó, loài Thỏ vằn Trường Sơn, vốn mới chỉ được phát hiện từ năm
1996 và chính thức mô tả năm 2001, đã phải đối mặt với những nguy cơ trên. Tuy
nhiên, Thỏ vằn Trường Sơn lại là loài thiếu nhiều thông tin sinh thái quan trọng,
trong đó có đặc điểm phân bố của loài, và chưa có công bố nào về phân bố tiềm
năng và dự báo vùng phân bố của loài này trong bối cảnh biến đổi khí hậu, vốn là
những thông tin rất cần thiết để có thể đề ra các biện pháp bảo tồn phù hợp cho loài.
Vì thế, mục tiêu trước tiên của nghiên cứu này là tổng hợp các thông tin từ các
nghiên cứu trước đây liên quan đến loài Thỏ vằn Trường Sơn, kết hợp với các thông
tin phỏng vấn chuyên gia và phỏng vấn thực tế, để tìm ra những khu vực có tiềm
năng có Thỏ vằn cao mà chưa được ghi nhận thực tế. Mục tiêu thứ hai là tiến hành
khảo sát thực địa, bằng cả phương pháp điều tra theo tuyến và điều tra bẫy ảnh, để
thu thập các vùng có Thỏ vằn sinh sống ở các khu vực tiềm năng, và phân tích số

1


liệu thực địa để tìm ra một số đặc điểm sinh thái của loài, đặc biệt là các đặc điểm

phân bố về thời gian. Mục tiêu thứ ba là sử dụng các kết quả thu được từ những
nghiên cứu trước đây và từ quá trình thực địa để xây dựng mô hình phân bố loài, từ
đó phân tích một số đặc điểm sinh thái về phân bố không gian của Thỏ vằn, đồng
thời đánh giá sự thay đổi về đặc điểm phân bố trong tương lại của Thỏ vằn dưới tác
động của biến đổi khí hậu, để từ đó đề xuất được các biện pháp bảo tồn thích hợp
cho loài và cung cấp cơ sở khoa học cho quy hoạch bảo tồn Thỏ vằn Trường Sơn.
Vì thế, các nội dung nghiên cứu chính của luận văn bao gồm:
(1). Tổng hợp các thông tin từ các nghiên cứu trước đây liên quan đến loài Thỏ vằn
Trường Sơn, kết hợp với các thông tin phỏng vấn chuyên gia và phỏng vấn thực tế,
để tìm ra những khu vực có tiềm năng có Thỏ vằn cao mà chưa được ghi nhận thực
tế.
(2). Tiến hành khảo sát thực địa, bằng cả phương pháp điều tra theo tuyến và điều
tra bẫy ảnh, để thu thập các vùng có Thỏ vằn sinh sống ở một khu vực tiềm năng, và
phân tích số liệu thực địa để tìm ra một số đặc điểm sinh thái của loài, đặc biệt là
các đặc điểm phân bố về không gian và thời gian.
(3). Sử dụng các kết quả thu được từ những nghiên cứu trước đây và từ quá trình
thực địa để xây dựng mô hình phân bố loài, từ đó phân tích một số đặc điểm sinh
thái về phân bố không gian của Thỏ vằn, đồng thời đánh giá sự thay đổi về đặc
điểm phân bố trong tương lại của Thỏ vằn dưới tác động của biến đổi khí hậu, và đề
xuất một số biện pháp bảo tồn thích hợp cho Thỏ vằn Trường Sơn.

2


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN

1.1. Tổng quan về đa dạng sinh học ở khu vực dãy Trường Sơn

Dãy Trường Sơn là một trong những dãy núi chính của khu vực Đông Dương, chạy
dọc theo biên giới Việt Nam – Lào (Hình 1). Dãy Trường Sơn là nơi có giá trị đa

dạng sinh học cao, là nơi cư trú của nhiều loài quý hiếm, đặc hữu. Khu vực này còn
được coi là “mỏ loài mới” của Việt Nam và Lào, với rất nhiều loài mới được phát
hiện và mô tả trong những năm gần đây như Sao la (Pseudoryx nghetinhensis) [83],
Mang lớn (Muntiacus vuquangensis) [73], và Thỏ vằn (Nesolagus timminsi) [11].
Trong ba thập kỷ gần đây, các nỗ lực bảo tồn và khảo sát đa dạng sinh học được
thực hiện nhằm nghiên cứu và bảo vệ giá trị đa dạng sinh học ở nơi đây. Tuy nhiên,
giống như nhiều khu vực ở Đông Nam Á, các loài sinh vật quý hiếm, đặc hữu của
dãy Trường Sơn đang phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng lớn, gây ra bởi tình
trạng săn bắt trái phép và phá hủy sinh cảnh trên diện rộng.

3


Hình 1. Bản đồ độ cao khu vực dãy Trường Sơn
Nhiều nghiên cứu đã nêu bật đặc điểm đa dạng sinh học đặc biệt của Trường Sơn và
các mối đe dọa mà khu vực này đang đối mặt. Diện tích rừng ở cảnh quan này đã bị
suy giảm nhanh chóng trong vòng khoảng 60 năm trở lại đây do rất nhiều nguyên
nhân khác nhau, từ việc chất độc hóa học để phát quang trong chiến tranh; đến quá
trình mở lâm trường, nông trường, và chủ trương khai thác gỗ, chuyển đổi các diện
tích rừng đã bị khai thác và mở rộng các diện tích đất nông nghiệp vào những năm
1980 và 1990; và tình trạng phá rừng trái phép từ những năm 1990 trở lại đây. Kết
quả là, rừng nguyên sinh của chỉ còn chiếm tỉ lệ nhỏ trên tổng diện tích rừng của

4


khu vực [76]. Ở phía bên kia biên giới ở Lào, có một số khu vực vẫn có các cánh
rừng có diện tích lớn chưa bị khai thác quy mô lớn và ít bị tác động của con người,
nhưng các khu rừng này cũng đang phải đối mặt với tình trạng phá rừng và khai
thác khoáng sản ngày càng tăng, và nếu như không có các biện pháp bảo vệ trong

tương lai gần, thì các cánh rừng và đa dạng sinh học ở Lào cũng sẽ bị suy giảm tới
mức như ở Việt Nam [36].
Trong vòng 10 năm trở lại đây, diện tích che phủ rừng ở Việt Nam có tăng nhờ
quyết định đóng cửa rừng của Chính phủ và việc cải thiện thực thi pháp luật đối với
các vi phạm liên quan đến phá rừng trái phép. Tuy nhiên, có một điểm cần phải lưu
ý, rằng một phần đáng kể độ che phủ rừng tăng lên là đến từ việc trồng đơn canh
một số loại cây phục vụ sản xuất, ví dụ như Keo và Bạch đàn, chứ không phải là sự
gia tăng diện tích rừng tự nhiên [51].
Mối đe dọa trực tiếp đầu tiên trong thời điểm hiện tại đối với các loài động vật ở
dãy Trường Sơn là tình trạng săn bắn trái phép để tiêu thụ tại chỗ và cung cấp cho
thị trường buôn bán động vật hoang dã trái phép. Hoạt động săn bắt trái phép đã gây
ra sự tuyệt chủng của nhiều loài động vật có xương sống ở Việt Nam. Một số loài
tiêu biểu đã tuyệt chủng hoặc tuyệt chủng về mặt chức năng ở Việt Nam gồm có:
Sao la (Pseudooryx nghetinhensis), Hổ (Panthera tigris), Báo (Panthera pardus),
Báo gấm (Neofelis nebulosi), Hươu vàng (Axis porcinus), và Tê giác một sừng
(Rhinoceros sondaicus) – và đây chỉ là một số loài trong rất nhiều loài đã bị tuyệt
chủng trong giai đoạn qua [14, 76].
Săn bắn bằng bẫy bắt dây phanh đang là một trong những phương thức săn bắt phổ
biến nhất hiện nay ở Việt Nam, vì các bẫy dây phanh có giá rất rẻ, khối lượng nhẹ,
dễ vận chuyển với số lượng lớn, tương đối bền bỉ, và dễ dàng được cài đặt. Hơn
nữa, ở Việt Nam hiện nay hầu như không có các quy định pháp luật nào hạn chế
việc mua bán và sử dụng dây phanh, nên những thợ săn có thể mua và mang vật liệu
này vào trong rừng tương đối dễ dàng. Việc bẫy bắt bằng dây phanh hiện tại đang ở
mức độ tương đối cao ở một số khu bảo tồn, ví dụ các cán bộ kiểm lâm ở khu bảo

5


tồn Sao la Huế phá và tịch thu khoảng 10.000 – 12.000 bẫy dây phanh một năm –
và con số này mới chỉ phản ánh một phần của toàn bộ bẫy dây phanh trong rừng

(phỏng vấn Giám đốc Khu bảo tồn Sao la Huế). Kết quả của tình trạng săn bắn trái
phép quá mức là nhiều khu rừng ở Trường Sơn nói riêng và Việt Nam nói chung
đang hứng chịu “hội chứng rừng trống”, nơi có sinh cảnh và hệ sinh thái phù hợp
nhưng hầu như thiếu vắng các loài động vật sinh sống, đặc biệt là các loài thú sống
ở mặt đất, do chúng phải chịu áp lực săn bắn quá lớn [36].
Ở Việt Nam, một số khu bảo tồn đã tiến hành một số chương trình gỡ bỏ bẫy dây
phanh, ví dụ như bộ ba khu bảo tồn liền kề nhau là Vườn quốc gia Bạch Mã – khu
bảo tồn Sao la Huế – khu bảo tồn Sao la Quảng Nam, với sự hỗ trợ của các tổ chức
trong nước và quốc tế chuyên về bảo tồn như WWF Việt Nam, nhưng thậm chí ở
những khu này thì tình trạng đặt và sử dụng bẫy dây phanh vẫn diễn ra khá phổ
biến. Ở Lào, mặc dù dân số nhìn chung là thấp, và có nhiều khu bảo tồn có diện tích
lớn nhưng bẫy bắt bằng dây phanh cũng khá phổ biến, đặc biệt là tại các khu rừng
nằm liền kề với biên giới Việt Nam, khiến các loài động vật hoang dã ngày càng trở
nên quý hiếm [36, 75]. Hơn nữa, với việc thiếu các hoạt động thực thi pháp luật
hiệu quả, các khu rừng biên giới của Lào có thể cũng sẽ phải đối mặt với tình trạng
“rừng trống” như nhiều khu bảo tồn ở Việt Nam [36, 75].
Mặc dù đã có nhiều báo cáo về tác động tiêu cực của săn bắn trái phép đến đa dạng
sinh học nói chung, và đa dạng sinh học ở Việt Nam nói riêng, nhưng đến nay áp
lực săn bắn vẫn còn tương đối phổ biến ở nhiều khu bảo tồn tại Việt Nam và Lào.
Ví dụ, loài Lợn vòi (Tapirus indicus) đã bị coi là tuyệt chủng do không có ghi nhận
trong thời gian dài, hoặc Tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus) đã tuyệt chủng
gần một thập niên [14]. Trong khoảng một thập niên gần đây, một số sáng kiến bảo
tồn đã và đang được thực hiện nhằm cố gắng ngăn chặn các ảnh hưởng tiêu cực từ
săn bắn trái phép đến đa dạng sinh học ở khu vực Trường Sơn. Các giải pháp có thể
kể đến gồm có thành lập mới ba khu bảo tồn (khu bảo tồn Sao la Huế, khu bảo tồn
Sao la Quảng Nam, và khu bảo tồn Voi Nông Sơn) và mở rộng diện tích Vườn quốc

6



gia Bạch Mã. Thêm vào đó, các đội chuyên trách tuần tra bảo vệ rừng và phá gỡ bẫy
dây phanh trên diện rộng, tập trung cho diện tích rừng thuộc hai khu bảo tồn Sao la
của Thừa Thiên Huế và Quảng Nam, đã được thành lập và triển khai như là một
phần của một dự án hợp tác lớn của KfW và WWF – Dự án Sinh khối carbon và Đa
dạng sinh học. Cũng trong dự án này, chương trình Chi trả dịch vụ môi trường rừng
(PFES) đã được tiến hành thực hiện đễ hỗ trợ các cộng đồng dân cư địa phương
quanh các khu bảo tồn và cung cấp một phần kinh phí cho các hoạt động bảo tồn.
Tuy nhiên, do thiếu một bộ dữ liệu nền cơ sở về hiện trạng bảo tồn của các loài và
không có bất cứ một khảo sát có hệ thống nào được thực hiện trước đó, hiệu quả
của các giải pháp bảo tồn trên đối với các loài động vật nguy cấp, quý hiếm, đặc
hữu trong khu vực Trường Sơn vẫn còn chưa được làm sáng tỏ. Các dữ liệu nền là
rất cần thiết để làm cơ sở đánh giá một cách toàn diện các tác động của các hoạt
động bảo tồn khác nhau đến hiện trạng quần thể của các loài, để từ đó có các giải
pháp điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tiễn. Các cuộc điều tra thực địa nếu
được tổ chức bài bản và có hệ thống, có phương pháp rõ ràng ở khu vực dãy Trường
Sơn có thể sẽ giúp đánh giá chính xác hơn hiệu quả thực tế của các giải pháp bảo
tồn ở khu vực này.

1.2. Tổng quan về loài Thỏ vằn Trường Sơn
Giống Thỏ vằn (Nesolagus) được phát hiện từ năm 1880, với một loài duy nhất là
Thỏ vằn Sumatra (N. netscheri) ghi nhận ở một số vùng ở phía Nam đảo Sumatra,
Indonesia [77]. Thỏ vằn Sumatra rất khó điều tra theo phương pháp truyền thống, và
từ trước đến giờ mới chỉ thu thập được 12 mẫu bảo tàng của loài. Vì thế, các thông
tin về tập tính sinh thái của loài này rất hạn chế, với một số đặc điểm bao gồm: đây
là loài chỉ hoạt động về đêm, chỉ phân bố ở các cánh rừng nguyên sinh có độ cao từ
600 m – 1.200 m ở một số khu vực có diện tích nhỏ phía Nam đảo Sumatra [58].

7



Đến đầu những năm 1990, cùng với việc các tổ chức quốc tế đầu tư nhiều cho công
tác điều tra đa dạng sinh học ở Đông Dương, đã bắt đầu xuất hiện những báo cáo về
việc có một loài thỏ mới có hình dạng gần giống với Thỏ vằn Sumatra ở Lào. Đến
năm 1996, Robert Timmins và các đồng nghiệp đã thu được một mẫu thỏ vằn tại
một chợ mua bán thực phẩm ở Ban Lak (Bản Lác), Lào, chỉ cách biên giới Việt
Nam – Lào đoạn qua tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình khoảng 30 km. Các kết quả phân
tích ban đầu về hình thái và di truyền cho thấy, loài thỏ này là một loài thú hoàn
toàn mới, đã có thời gian cách ly với loài Thỏ vằn Sumatra lên tới 8 triệu năm [77].
Đến năm 2000, Robert Timmins và cs. đã phát hiện nhiều cá thể của loài thỏ này ở
khu vực rừng giao thoa giữa Việt Nam và Lào ở Nghệ An và Hà Tĩnh [80]. Đến
giữa năm 2000, loài thỏ mới chính thức được mô tả bởi Averianov và cs. dựa trên
một cá thể phát hiện ở huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, và được đặt tên chính thức là
Thỏ vằn Trường Sơn Nesolagus timminsi [11].
Về hình thái bên ngoài, Thỏ vằn Trường Sơn có nhiều đặc điểm giống với Thỏ vằn
Sumatra, ví dụ như các sọc nâu/đen chạy ngang phần lưng/thân, tai và đuôi khá
ngắn, nhưng khác loài Sumatra ở kích thước và cấu trúc xương sọ và các răng [11].
Về một số đặc tính sinh thái về tập tính và phân bố của Thỏ vằn Trường Sơn, đã có
một số nghiên cứu trong và ngoài nước từ năm 2001 đến gần đây. Ví dụ, Đặng
Ngọc Cẩn và cs. (2001) đã thống kê thêm một số khu phân bố của N. timminsi, bao
gồm từ Vườn Quốc gia Pù Mát – Nghệ An đến Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bảng
– Quảng Bình, và thường được tìm thấy ở những nơi có độ cao từ 600 m – 1,200m.
Tác giả cũng đã nhận định săn bắn là một trong những nguy cơ lớn nhất cho loài
[15].
Phạm Trọng Ảnh và cs. (2009) đã tiến hành điều tra thực địa, thu thập một số mẫu
vật thu ở Hương Sơn, Hà Tĩnh và Lệ Thủy, Quảng Bình để xác định đa dạng di
truyền và một số đặc tính sinh học – sinh thái của loài Thỏ vằn Trường Sơn. Các tác
giả đã xác định loài N. timminsi có khoảng cách di truyền lớn so với nhiều loài
khác, từ xấp xỉ 19% – 26%. Tuy nhiên các tác giả đã không thực hiện phân tích giữa

8



Thỏ vằn Trường Sơn và Thỏ vằn Sumatra. Về đặc điểm sinh học – sinh thái, các tác
giả kết luận N. timminsi là loài thú sống về đêm, hoạt động chủ yếu từ 7h tối đến 3h
sáng, với thời gian thường gặp nhất là từ 10h tối đến 2h sáng. Sinh cảnh ưa thích
chính của loài là rừng ẩm thường xanh có độ che phủ nhẹ, rừng thứ sinh hỗn giao
tre nứa, rừng tái sinh sau khai thác có thảm thực vật cây bụi thập và tầng vỏ quyết
[2].
Các tác giả cũng ghi nhận một số trường hợp có người bắt gặp thỏ ra kiếm ăn ở các
nương bãi bỏ hoang hoặc đang canh tác gần rừng. Thỏ vằn thường dễ gặp ở gần khe
suối, mặc dù nước không phải là yếu tố chi phối, mà thảm thực vật cạnh suối là yếu
tố ảnh hưởng quyết định. Loài Thỏ vằn Trường Sơn thường phân bố từ độ cao
500m trở xuống, sống ở các hang nông, dựa vào các hốc cây, hốc đá, bờ hẻm sườn
núi, hó dưới các bụi cây rậm, không đào xuống lòng đất. Thỏ vằn sống một mình,
không kiếm ăn theo đàn trừ trường hợp mẹ con. Các loài săn mồi đe dọa chủ yếu
đến thỏ vằn gồm các loài thú ăn thịt nhỏ như Triết (Mustela sp.), Chồn vàng
(Mertes flavigula), Lỏn tranh (Herpestes jananicus), Cầy đốm (Pronodon
paradicolor), Mèo báo (Prionailurus bengalensis), Báo lửa (Catopumur
temminckii). Thú cạnh tranh chủ yếu của thỏ vằn là loài Thỏ nâu (Lepus pyguensis),
nhưng số lượng Thỏ nâu trong vùng phân bố của thỏ vằn không đáng kể. Các tác
giả cũng đề cập đến việc quan sát được một tổ thỏ vằn có 2 con non khoảng 15 – 20
ngày tuổi vào tháng 8/2003 ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Thỏ vằn được xác định là ăn lá,
cuống lá, ngọn của cây, nhưng ưa thích phần lá và chồi non. Các tác giả cho rằng,
tuy thức ăn của thỏ vằn tương đối đa dạng, gồm nhiều loài và họ, nhưng các khảo
sát thực địa cho thấy các cây thức ăn ưa thích là các loài cây thảo, cây bụi dây leo
thuộc lớp hai lá mầm, cây thuộc lớp một lá mầm rất ít. Các tác giả đã xác định được
thành phần loài thực vật thức ăn của thỏ vằn gồm 44 loài thuộc 6 họ và 16 chi khác
nhau [2].
Andrew Tilker và cs. (2018) đã tiến hành khảo sát thực địa ở 3 tỉnh tiếp giáp với
nhau là Thừa Thiên Huế và Quảng Nam (Việt Nam), và Salavan (Lào) dựa vào bẫy


9


ảnh và đã ghi nhận Thỏ vằn Trường Sơn ở 36 địa điểm khác nhau. Các tác giả cũng
đánh giá ảnh hưởng của một số yếu tố khác nhau, ví dụ như độ che phủ tán, mật độ
cây, đặc điểm sinh cảnh, đặc điểm địa hình và mức độ tác động của con người để từ
đó tính ra mức độ phổ biến của Thỏ vằn Trường Sơn ở một số khu bảo tồn trong
khu vực. Các tác giả cũng kết luận rằng, mức độ tác động của con người là nhân tố
ảnh hưởng chính đến phân bố hiện nay của Thỏ vằn Trường Sơn ở 3 tỉnh được
nghiên cứu, nhiều hơn cả ảnh hưởng từ các nhân tố tự nhiên [79].

1.3. Tổng quan về tình hình khảo sát bẫy ảnh
Khảo sát bẫy ảnh là phương pháp khảo sát không gây hại cho động vật được sử
dụng rộng rãi trong các nghiên cứu gần đây. Phương pháp này đặc biệt thích hợp để
phát hiện các loài quý hiếm, khó phát hiện và khó nghiên cứu bằng các phương
pháp quan sát trực tiếp (Hình 2). Khảo sát bẫy ảnh có lợi thế với khả năng tích lũy
lượng lớn dữ liệu so với nguồn lực về thời gian phải đầu tư, và thích hợp cho các
khảo sát ở các khu vực xa xôi [39, 49, 55, 91]. Kết quả từ nhiều nghiên cứu khác
nhau có sử dụng bẫy ảnh đã cho thấy phương pháp này có thể cung cấp thông tin về
phân bố, tập tính và tương quan giữa loài với các yếu tố con người và tự nhiên. Dữ
liệu từ khảo sát bẫy ảnh còn có thể được sử dụng để tính toán nhiều thông số khác
nhau của quần thể và quần xã, và do đó phương pháp này cũng giúp ích cho các
nghiên cứu về biến động quần thể [19].

10


Hình 2. Một loài Nguy cấp, Cầy vằn Bắc (Chrosogale owstoni), được ghi nhận
bằng bẫy ảnh tại khu vực nghiên cứu

Khảo sát bẫy ảnh đã được phát triển trong một thời gian dài để nghiên cứu các loài
thú có kích thước trung bình và lớn. Đa số khảo sát sử dụng bẫy ảnh đều tập trung
vào các loài thú có tính biểu tượng cao như Hổ (Panthera tigris) hoặc được thiết kế
để nghiên cứu quần xã các loài thú nói chung [16, 47]. Tuy nhiên, gần đây một số
nghiên cứu đã cho thấy bẫy ảnh cũng có thể được sử dụng để thu thập thông tin về
các loài thú nhỏ, đặc biệt là các loài hoạt động nhiều gần mặt đất. Bẫy ảnh có khả
năng ghi nhận từ các loài gặm nhấm, các loài khỉ, cho đến thú ăn thịt nhỏ với hiệu
suất tương đối tốt [22, 37, 46]. Mặc dù các loài này có thể được điều tra bằng
phương pháp khảo sát theo điểm và khảo sát theo tuyến truyền thống, nhưng bẫy
ảnh lại có lợi thế rất lớn khi có thể thu thập được nhiều dữ liệu trong khoảng thời

11


gian dài. Như vậy, dữ liệu thu thập được từ khảo sát bẫy ảnh không chỉ cung cấp
được các thông tin theo không gian mà còn theo thời gian.
Khảo sát đa dạng sinh học bằng bẫy ảnh đã được bắt đầu ứng dụng trên thế giới từ
đầu thế kỷ 20, nhưng đại đa số các cuộc điều tra trước những năm 80 của thế kỷ
trước thường không mang tính thực tiễn cao và rất đắt đỏ, do các máy ảnh thế hệ
đầu phải dùng bột ma-giê cháy cho đèn chiếu (flash), rất nguy hiểm nếu dùng trong
rừng do dễ gây cháy rừng, và dễ bị hỏng do dính ẩm từ điều kiện thời tiết mưa hoặc
sương. Cơ chế kích hoạt chụp ảnh thời kỳ đầu cũng chủ yếu là dùng các loại dây
hoặc bẫy chăng ngang đường di chuyển của các loài động vật, nếu cá thể động vật
đi ngang qua vướng phải dây sẽ kích hoạt máy ảnh. Ngoài ra, các ống kính và cảm
biến máy ảnh thời kỳ đầu cũng tương đối kém, không có bắt nét tự động, không
chụp được ảnh trong điều kiện ánh sáng thiếu, và không chụp được ảnh vật thể di
chuyển quá nhanh, ngoài tầm bắt nét của máy. Thay đổi lớn, mang tính cách mạng
cho việc sử dụng bẫy ảnh đầu tiên trên thế giới, là nghiên cứu dùng bẫy ảnh ghi
nhận các loài động vật ở Australia, bằng cách sử dụng một thiết bị phát tia hồng
ngoại liên tục và một cảm biến thu nhận hồng ngoại. Khi một cá thể động vật đi

ngang qua bẫy ảnh, làm gián đoạn việc thu nhận hồng ngoại của cảm biến, cảm biến
sẽ gửi tín hiệu đến máy ảnh để máy ảnh tự động khởi động và chụp ảnh, đồng thời
cảm biến cũng sẽ gửi tín hiệu đến một đồng hồ điện tử để đồng hồ ghi nhận lại thời
gian của việc chụp ảnh. Nghiên cứu này đã tạo tiền đề quan trọng cho các nghiên
cứu dùng bẫy ảnh để phân tích các đặc điểm sinh thái về không gian và thời gian
của các loài động vật sau này [19].
Việc sử dụng bẫy ảnh trong nghiên cứu đa dạng sinh học vì thế đã trở nên phát triển
và dần phổ biến trong suốt những năm 90, với rất nhiều ứng dụng ở rất nhiều địa
điểm trên toàn thế giới, ví dụ như để tính toán mật độ rắn đuôi chuông ở
Massachusetts, Mỹ; hay để thuyết minh cho việc xây dựng các đường tránh cho
động vật di chuyển khi thiết kế và xây dựng các tuyến đường cao tốc ở Florida, Mỹ;
hay để giám sát và ước tính thay đổi quần thể của loài hươu đuôi trắng trong khoảng

12


thời gian ba năm. Một nghiên cứu ở Ấn Độ đã sử dụng bẫy ảnh để nhận dạng chính
xác từng cá thể Hổ, từ đó tính số lượng hổ còn lại trong tự nhiên ở nhiều khu vực
khác nhau, tạo tiền đề cho việc thành lập khu bảo tồn hổ ở nước này. Một nghiên
cứu ở Nhật đã dùng số liệu từ bẫy ảnh để tính toán mức độ tiêu thụ quả có hạt của
loài Khỉ Nhật Bản, từ đó ước tính mức độ đóng góp của các loài linh trưởng trong
việc phát tán hạt cho các loài cây khác nhau trong rừng. Một nghiên cứu khác ở
Florida, Mỹ, dùng số liệu về tần suất và kích thước các loài ghi nhận được trước và
sau mùa cháy rừng trong nhiều năm liên tục để ước tính về ảnh hưởng của cháy
rừng tự nhiên đến quần xã sinh vật, và từ đó kết luận là cháy rừng tự nhiên hoàn
toàn có thể có tác dụng có lợi cho việc phát triển của quần xã tự nhiên [19].
Trong 20 năm qua, bẫy ảnh đã được sử dụng phổ biến trong các cuộc điều tra thú ở
Việt Nam nói chung, và khu vực Trường Sơn nói riêng. Do các hạn chế kỹ thuật
liên quan đến các loại bẫy ảnh truyền thống trước đây, cũng như do hạn chế về
nguồn kinh phí, lúc đầu chỉ có một số ít máy ảnh được sử dụng trong các nghiên

cứu và do đó chỉ tập trung khảo sát ở các khu vực nhỏ trong một khoảng thời gian
ngắn. Các nghiên cứu này thường chỉ cung cấp dữ liệu về sự hiện diện hoặc vắng
mặt của các loài thú lớn – thường là các loài có tính biểu tượng cao [89]. Trong thời
gian gần đây, những hạn chế về công nghệ đã được khắc phục và các nhà nghiên
cứu có thể mua được những bẫy ảnh đủ tin cậy để hoạt động trong thời gian dài
trong các điều kiện thực địa khắc nghiệt. Các loại bẫy ảnh hiện đại này đã được sử
dụng để điều tra nhiều loài thú khác nhau, cả thú nhỏ và thú lớn, và cả những loài
phổ biến và quý hiếm [37, 52, 90]. Một trong những loài thú hiếm nhất của khu vực
Đông Dương, loài Sao la (Pseudoryx nghetinhensis) đã được bẫy ảnh ghi nhận lại
sau hơn 15 năm không có thông tin ở khu vực khu bảo tồn Sao la Quảng Nam vào
năm 2013.
Trong nghiên cứu này, khảo sát bẫy ảnh được sử dụng trong một thời gian kéo dài,
xấp xỉ 12 tháng, để cung cấp các dữ liệu trong suốt một năm tại khu vực nghiên
cứu, từ đó tìm ra được các đặc điểm sinh thái về phân bố thời gian, từ phân bố theo

13


các giờ trong ngày, các ngày trong tháng, đến các tháng trong năm. Các bẫy ảnh
được đặt thấp hơn nhiều so với các nghiên cứu trước đó để đảm bảo rằng tập trung
được cho Thỏ vằn Trường Sơn, vốn là một loài thú có kích thước tương đối nhỏ.
Khảo sát được tiến hành trên bốn khu vực thuộc cảnh quan Trường Sơn từ năm
2016 đến năm 2019.

1.4. Tổng quan về Mô hình hóa phân bố loài
1.4.1. Sơ lược nghiên cứu mô hình hóa phân bố loài trên thế giới
Mô hình hóa phân bố loài là một phương pháp phổ biến trong những năm gần đây
trong nghiên cứu sinh thái và được áp dụng để giải quyết nhiều vấn đề khác nhau
trong sinh thái. Các vấn đề phổ biến được giải quyết bằng phương pháp mô hình
hóa bao gồm mô hình hóa phân bố tự nhiên của loài, nhận dạng điểm nóng đa dạng

sinh học, dự đoán đặc điểm phân bố của loài, dự báo thay đổi phân bố của loài dưới
tác động của biến đổi khí hậu, nhận diện các nhánh/loài mới mà các bằng chứng
hình thái/di truyền vẫn chưa đủ rõ, nhận diện các cách ly phân chia loài tự nhiên,
đánh giá về mức độ tiến hóa/bảo tồn của các đặc tính ổ sinh thái, hoặc thay đổi phân
bố của loài dưới tác động của các nhân tố tự nhiên – nhân tạo [10, 21, 35, 57, 63,
70, 71, 87]. Mô hình hóa phân bố loài là phương pháp kết hợp giữa phân tích đặc
tính sinh thái tự nhiên dựa trên điều tra thực địa và các tính toán dự báo dựa trên các
mô hình xác suất thống kê và nhận diện đặc tính. Các thuật toán mô hình hóa phân
bố loài chủ yếu dựa trên nội suy hoặc ngoại suy từ các điểm phân bố dựa trên các
điều tra thực địa, và dựa vào đó để dự báo qua không gian và thời gian, ví dụ như
dự báo phân bố của loài ở những địa điểm hay khu bảo tồn chưa có ghi nhận loài,
hoặc dự báo phân bố của loài ở thời điểm trong tương lai [67, 30, 32].
Hiện nay, có khá nhiều thuật toán mô hình hóa phân bố loài khác nhau được sử
dụng trong các nghiên cứu có liên quan, như BIO-CLIM, hoặc Neural network,
hoặc Boosted Regression Trees. Tuy nhiên, một trong những phương pháp được sử
dụng phổ biến nhất hiện nay là Maxent (Maximum Entropy). Được phát triển từ

14


giai đoạn 2004 – 2005, Maxent sử dụng các số liệu về điểm xuất hiện để xây dựng
một hàm phân bố xác suất trên vùng nghiên cứu, và tính toán giá trị hàm phân bố đó
dựa trên nguyên lý entropy [29, 67]. Thuật toán này được đánh giá cao vì nó có thể
sử dụng toàn bộ số liệu để xây dựng mô hình, mà không yêu cầu các số liệu đầu vào
quá phức tạp. Khi so sánh với một số thuật toán mô hình hóa phổ biến khác, ví dụ
như generalized linear model, generalized additive model, hoặc BIO-CLIM, cũng
như các phương pháp phức tạp khác như Genetic Algorithm for Rule-Set
Production, thì Maxent được coi là có khả năng dự báo tương đối chính xác. Vì thế,
từ năm 2006 đến nay, Maxent được sử dụng rất phổ biến trong việc mô hình hóa
phân bố loài [28, 29, 31, 66].

Một trong những nghiên cứu cơ bản đầu tiên chứng minh khả năng mô hình hóa
phân bố loài tương đối chính xác của Maxent là nghiên cứu của Pearson và cs.
(2007), dùng số liệu điểm ghi nhận tương đối ít ỏi của 13 loài thằn loài đuôi lá ở
Madagascas để kiểm tra khả năng dự đoán các vùng phân bố tiềm năng của các loài.
Các tác giả đã sử dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau, với nhiều thông số khác nhau
trong Maxent để đánh giá và đề xuất được cách tiếp cận tốt nhất cho những loài
hiếm gặp. Qua nghiên cứu này, các tác giả đã chứng minh được rằng Maxent tương
đối hiệu quả cho các loài quý hiếm, có ít số liệu về điểm xuất hiện (từ 10 – 25
điểm), và đề xuất được phương pháp mô hình hóa cho kết quả phù hợp nhất.
Pearson và cs. (2007) cũng đã so sánh kết quả chạy mô hình Maxent với một
phương pháp rất phổ biến ở thời điểm đó là GARP, dựa trên kết quả của ngưỡng
thấp nhất có thể (lowest presence threshold), và kết luận Maxent có khả năng dự
đoán tốt hơn hẳn GARP trong trường hợp mô hình hóa cho các loài quý hiếm [64].
Ngoài khả năng dự báo phân bố tiềm năng hiện tại của các loài, Maxent còn có khả
năng dự báo thay đổi phân bố và quần thể của các loài trong tương lai. Ví dụ, trong
một nghiên cứu của Ihlow và cs., các tác giả đã sử dụng Maxent để dự báo độ giàu
loài và thay đổi phân bố của nhiều loài rùa trên toàn thế giới dưới tác động của biến
đổi khí hậu. Cụ thể, các tác giả đã tổng hợp hơn hai mươi nghìn điểm xuất hiện của

15


199 loài rùa trên toàn cầu, và sử dụng các kịch bản thay đổi khí hậu khác nhau theo
khuyến nghị của IPCC. Từ đó, các tác giả đã dự báo được các thay đổi đáng kể, chủ
yếu là suy giảm vùng phân bố, của nhiều loài rùa ở giai đoạn 2080, và từ đó, ước
tính được các thay đổi về độ phổ biến và độ giàu loài ở một số khu vực vốn rất quan
trọng cho các loài rùa, và các thay đổi này chủ yếu theo chiều hướng giảm số lượng
loài [44].
Maxent còn có thể sử dụng để hiểu theo về phân bố trong quá khứ của các loài sinh
vât. Ví dụ, Cooper và cs. (2016) đã sử dụng các điểm phân bố hiện tại của loài Hổ

để mô hình hóa phân bố của chúng ở thời kỳ từ cuối thời Pleistocene đến hết thời
Holocene. Từ mô hình, các tác giả kết luận vùng phân bố trong quá khứ của loài Hổ
là từ toàn bộ tiểu lục địa Ấn Độ qua toàn bộ vùng Đông Nam Á, và đến cả vùng
Đông Bắc Siberi. Tuy nhiên, phân bố của Hổ phụ thuộc rất nhiều vào phân bố của
các cánh rừng ở Châu Á, và việc mở rộng và thu hẹp của các cánh rừng này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến việc mở rộng và thu hẹp phân bố của loài Hổ. Vì thế, vùng
phân bố lõi của loài Hổ chủ yếu nằm ở vùng phía Đông của Ấn Độ và khu vực đất
liền của Đông Nam Á. Đồng thời, các tác giả cũng đặt ra giả thuyết về việc phun
trào núi lửa Toba ở Indonesia đã làm ảnh hưởng tương đối lớn đến việc mở rộng
phân bố của Hổ sang các đảo ở khu vực Đông Nam Á [20].
Ngoài việc dự báo phân bố ở hiện tại, tương lai, và quá khứ của các loài, Maxent
còn có thể được dùng để tìm hiểu thêm về lịch sử tiến hóa, đặc biệt cho các nhánh
tiến hóa chưa rõ ràng. Bett và cs. (2012) đã sử dụng số liệu phân bố ở ba nước Việt
Nam – Lào – Cam-pu-chia của ba loài trong nhóm Chà vá Pygathrix, bao gồm Chà
vá chân nâu P. nemaeus, Chà vá chân xám P. cinerea, và Chà vá chân đen P.
nigripes, để chạy mô hình Maxent và kiểm tra tính tương thích về mặt sinh thái của
cả ba loài, và coi đó là một cách để kiểm tra độ gần/xa về mặt tiến hóa giữa ba loài
này. Kết quả từ mô hình đã cho thấy, ba loài Chà vá này có phân bố tách biệt theo
trục Bắc – Nam, và tính tương thích về mặt sinh thái giữa chúng khá thấp, chứng tỏ
cả ba loài đã tiến hóa tách biệt với nhau tương đối xa. Đặc biệt, hai loài Chà vá chân

16


×