Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.04 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------------

NGUYỄN THỊ HÀ

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ CHO VAY
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trịnh Quốc Toản

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
luận văn đảm bảo tính chính xác, trung thực và tin cậy. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩ vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại Học
Quốc Gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Hà


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục biểu đô
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI VI PHẠM QUY
ĐỊNH VỀ CHO VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ
CHỨC TÍN DỤNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM...............5
1.1.

Khái niệm về tín dụng, các loại hình tổ chức tín dụng và hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng.................................................5

1.1.1. Khái niệm về tín dụng và các loại hình tổ chức tín dụng.....................5
1.1.2. Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng........................................8
1.2.

Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội vi phạm quy định về
cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trong luật hình sự
............................................................................................................11

1.3.


Nghiên cứu và so sánh với pháp luật hình sự của một số nước
quy định về tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động
của các tổ chức tín dụng.....................................................................13

Kết luận chương 1...........................................................................................15
Chương 2: TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ CHO VAY TRONG
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRONG
BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
............................................................................................................18


2.1.

Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng và đường lối xử lý hình sự đối
với tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng theo Điều 179 BLHS năm 1999..................................18

4


2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội vi phạm quy định về cho
vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng theo Điều 179
BLHS năm 1999.................................................................................18
2.1.2. Đường lối xử lý tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt
động của các tổ chức tín dụng............................................................31
2.2.

Phân biệt tội vi phạm về quy định cho vay trong hoạt động của
các tổ chức tín dụng với một số tội khác............................................36


2.2.1. Phân biệt với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139-BLHS)
............................................................................................................36
2.2.2. Phân biệt với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều
140-BLHS).........................................................................................38
2.2.3. Phân biệt với tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng
đến tài sản của Nhà nước (Điều 144-BLHS)......................................40
2.2.4. Phân biệt với tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản
lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165-BLHS)....................44
2.2.5. Phân biệt với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
(Điều 285 – BLHS)............................................................................47
2.3.

Thực tiễn áp dụng các quy định về tội vi phạm quy định về cho vay
trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trong BLHS năm 1999..........50

2.3.1. Phân tích, đánh giá hoạt động xét xử của Tòa án các cấp về áp
dụng các quy định về tội vi phạm quy định về cho vay trong
hoạt động của các tổ chức tín dụng trong BLHS năm 1999...............50
2.3.2. Những tôn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định về
tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng......................................................................................54
2.3.3. Nguyên nhân của những tôn tại, hạn chế trong thực tiễn áp
dụng các quy định về tội vi phạm quy định về cho vay trong
hoạt động của các tổ chức tín dụng....................................................58


Kết luận chương 2...........................................................................................63

6



Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ CHO VAY
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG...........65
3.1.

Nhu cầu và quan điểm hoàn thiện các quy định pháp luật về tội
vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức
tín dụng và nâng cao hiệu quả áp dụng..............................................65

3.2.

Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật quy định về cho vay
trong hoạt động của các tổ chức tín dụng...........................................74

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật chuyên ngành về hoạt động cho vay của
các tổ chức tín dụng............................................................................74
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về tội vi phạm quy định về cho vay
trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trong Bộ luật hình sự
............................................................................................................89
3.3.

Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội
vi phạm về quy định cho vay trong hoạt động của cá tổ chức tín dụng
............................................................................................................95

Kết luận chương 3.........................................................................................100
KẾT LUẬN..................................................................................................101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................103



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
CBNV
DN
DNNVV
HDTD
KT-XH
NH
NHNN
NHTM
TCTD

Bộ luật hình sự
Cán bộ nhân viên
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Hợp đông tín dụng
Kinh tế - xã hội
Ngân hàng
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng thương mại
Tổ chức tín dụng


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu Tên bảng
1.1
Bảng tóm tắt quy trình cho vay của các TCTD theo quy


Trang

định của pháp luật
Báo cáo thống kê thụ lý giải quyết vụ án sơ thẩm các tội

19

xâm phạm trật tự quản lý kinh tế từ năm 2007-2012

51

1.2


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu Tên biểu đồ
Trang
2.1
Thống kê thụ lý giải quyết vụ án sơ thẩm về Tội vi phạm
2.2

quy định cho vay của các TCTD từ năm 2007-2012
Tỷ lệ nợ xấu toàn ngành từ 2004-2012 theo báo cáo của

52

Thanh tra Nhà nước

57



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tình hình kinh tế - xã hội hiện nay, khi các tổ chức tín dụng đang
trong thời kỳ cạnh tranh, mở rộng hoạt động trên các lĩnh vực tín dụng và
tăng trưởng mạnh mẽ, tội phạm vi phạm về các quy định trong hoạt động tín
dụng ngày càng nhiều và nguy hiểm hơn.
Tội phạm hình sự nói chung và tội phạm trong các hoạt động tín dụng
nói riêng đều là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm nghiêm trọng đến
các quan hệ xã hội, chính sách kinh tế, tài chính của Đảng và Nhà nước ta.
Thực tiễn cho thấy đã có nhiều bài báo, phương tiện thông tin đại chúng nêu
nên các vụ việc về vi phạm hoạt động tín dụng đang diễn ra ngày càng phổ
biến hiện nay không chỉ ở riêng mỗi quốc gia mà còn cả ở trên thế giới. Tội
phạm ngày càng chuyên nghiệp và có tính chất quốc tế ảnh hưởng đến nền
kinh tế, chính trị xã hội ở các quốc gia và ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu.
Ở Việt Nam, đã xảy ra nhiều vụ việc liên quan đến hoạt động tín dụng mà ở
đó vi phạm chủ yếu là do các cán bộ tín dụng cố ý hoặc vô ý vi phạm dẫn đến
hậu quả nghiêm trọng.
Thực tế cho thấy, hoạt động trong lĩnh vực nhạy cảm này thì sẽ rất khó
kiểm soát được hành vi của mình, nghĩa là rất dễ nảy sinh lòng tham và yêu
cầu vụ lợi, vì lợi ích của bản thân mà vi phạm các quy định của pháp luật. Các
cán bộ tín dụng đã không thực hiện đúng quy định của pháp luật về hoạt động
cho vay và dẫn đến hậu quả là vi phạm pháp luật hình sự.
Hiện nay các hoạt động tín dụng đang diễn ra mạnh mẽ bởi sự biến động
không ngừng của thị trường tín dụng do vậy pháp luật hiện hành chưa kịp thời
để điều hỉnh các quan hệ này mặc dù đã có hàng loạt các văn bản pháp lý được
ban hành như: Luật tổ chức tín dụng, Luật ngân hàng, Bộ luật hình sự… Tuy
nhiên, các văn bản này chủ yếu quy định về cách thức tổ chức và hoạt động của


1


các tổ chức tín dụng mà chưa quy định cụ thể về trách nhiệm pháp lý cụ thể đối
với từng hành vi vi phạm trong hoạt động tín dụng. Việc ban hành các quy định
mới phù hợp để ngăn ngừa và điều chỉnh các vi phạm trong hoạt động cho vay
là vấn đề cấp bách và cần được quan tâm trong tình hình tội phạm ngày càng
tăng và phức tạp như hiện nay. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề “Tội vi phạm quy
định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trong Luật hình sự
Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Hành vi vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động tín dụng cho đến
nay vẫn là mới chưa được nghiên cứu nhiều trong các công trình nghiên cứu
khoa học. Chỉ có một số tài liệu nghiên cứu về hành vi này như trong sách
bình luận khoa học bộ luật hình Bộ Luật Hình Sự - Nxb Chính trị quốc gia,
hay một số tài liệu nghiên cứu về các hoạt động vi phạm trong lĩnh vực liên
quan như: “Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động ngân hàng” Theo Luật sư Phan Văn Lãng - Tạp chí Ngân hàng (số 18/2009); “Tội lạm
dụng chiếm đoạt tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng” Luật sư
Phan Văn Lãng- Nguôn: Tạp chí Ngân hàng tháng 12/2009.
Trên thực tế chưa có công trình cụ thể nào đi sâu nghiên cứu quy định
của Luật hình sự về “Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của
các tổ chức tín dụng trong Luật hình sự Việt Nam”. Tác giả lựa chọn nghiên
cứu đề tài này nhằm làm sáng tỏ các quy định của Luật hình sự và đưa các
giải pháp kiến nghị phù hợp về việc phòng chống, ngăn ngừa tội phạm xảy ra
trong lĩnh vực tín dụng trong tình hình hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Mục đích của đề tài: trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự và thực trạng tình hình của “Tội vi phạm quy định về cho vay trong
hoạt động của các tổ chức tín dụng” để đưa ra các giải pháp nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng ngừa loại tội phạm này.


2


Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình thực hiện đề tài tác giả đặt ra
cho mình các nhiệm vụ sau đây:
+ Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận liên quan đến “Tội vi phạm quy định về
cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trong Luật hình sự Việt Nam”.
+ Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về “Tội vi phạm quy định
về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” hiện nay ở Việt Nam;
+ Đề xuất một số giải pháp về hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định về Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: quy định của pháp luật hình sự
về “Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.”
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề
liên quan đến “Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng dưới góc độ Luật hình sự.”
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trong phạm vi của mình, đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý
nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với cuộc đấu tranh
phòng, chống tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng.
- Về mặt lý luận: đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định của
Điều 179 BLHS năm 1999, đông thời nó có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự.
- Về mặt thực tiễn: những đề xuất giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung
và vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng nói
riêng. Ngoài ra, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các lực

lượng tham gia phòng, chống loại tội phạm này trong cả nước và ở từng địa
phương nói riêng.

3


5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hô Chí Minh về vấn đề tội phạm nói chung, các văn kiện của Đảng và văn
bản pháp luật của Nhà nước về quan điểm đấu tranh chống tội phạm trong quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam. Các công ước quốc tế về
cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng
Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình
sự và tội phạm học như: phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân
tích và so sánh, phương pháp liệt kê. Ngoài ra, còn một số phương pháp khác
cũng được áp dụng như: phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp
chuyên gia...Trong quá trình nghiên cứu các phương pháp này được vận dụng
một cách linh hoạt và đan xen lẫn nhau để tạo ra kết quả nghiên cứu.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gôm 3 chương với các nội dung như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về cho vay
trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trong Luật hình sự Việt Nam
Chương 2: Tội vi phạm về quy định cho vay trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng trong Bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của luật hình sự về tội vi phạm quy định về cho vay trong
hoạt động của các tổ chức tín dụng.

4



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ
CHO VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về tín dụng, các loại hình tổ chức tín dụng và hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng
1.1.1. Khái niệm về tín dụng và các loại hình tổ chức tín dụng
Nghiên cứu khái niệm tín dụng thấy rằng: Tín dụng xuất phát từ gốc từ
Latinh: Credittum - tức là tin tưởng, tín nhiệm. Tiếng Anh là Credit. Tín dụng
được diễn giải theo ngôn ngữ Việt Nam là sự “vay mượn”. Tín dụng là sự
chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị dưới hình thức hiện
vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng sau đó hoàn trả lại với một
lượng giá trị lớn hơn. Khái niệm này được thể hiện trên các mặt như: có sự
chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị từ người này sang người khác; sự
chuyển giao mang tính chất tạm thời; khi hoàn lại lượng giá trị đã chuyển giao
cho người sở hữu phải kèm theo một lượng giá trị dôi thêm gọi là lợi tức.
Theo một số quan điển khác thì “Tín dụng” là quan hệ vay (mượn) dựa
trên cơ sở tin tưởng và tín nhiệm giữa bên cho vay (mượn) và bên đi vay
(mượn), theo đó bên cho vay chuyển một lượng vốn tiền tệ (hoặc tài sản) để
cho bên vay sử dụng có thời hạn; khi đến hạn,bên vay có nghĩa vụ hoàn trả
vốn (tài sản) ban đầu và lãi suất cho bên cho vay.
Theo PGS.TS Lê Văn Tề trong cuốn Tín dụng ngân hàng – Nhà xuất
bản Giao thông vận tải thì trong hoạt động tài chính “Tín dụng là một giao
dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng, các chế
định tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể
khác) trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong

5



một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm trả vô diều
kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”
Trong thực tế tín dụng hoạt động rất phong phú và đa dạng nhưng ở bất
cứ dạng nào tín dụng cũng thể hiện 2 mặt cơ bản:
• Người sở hữu 1 số tiền hoặc hàng hóa chuyển giao cho người khác sử
dụng trong 1 thời gian nhất định.
• Đến thời hạn do 2 bên thỏa thuận, người sử dụng hoàn lại cho người
sở hữu 1 giá trị lớn hơn. Phần tăng thêm được gọi là phần lời hay nói theo
ngôn ngữ kinh tế là lãi suất.
Theo quy định tại Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam năm 2010
thì Tổ chức tín dụng được hiểu “là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc
tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ
chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân
dân.”Theo điều luật này thì các khía niệm về các lại hình tổ chức tín dụng
được hiểu như sau [23]:
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu
hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gôm ngân hàng thương mại, ngân
hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.
Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực
hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này, trừ các
hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài
khoản của khách hàng. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng bao gôm công ty tài
chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác.
Tổ chức tài chính vi mô là loại hình tổ chức tín dụng chủ yếu thực hiện
một số hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia
đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ.

6



Quỹ tín dụng nhân dân là tổ chức tín dụng do các pháp nhân, cá nhân
và hộ gia đình tự nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện
một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này và Luật hợp tác xã
nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và
đời sống.
Từ các khái niệm trên có thể nhận thấy trong hoạt động tín dụng thì chỉ
có loại hình ngân hàng là hoạt động liên quan trực tiếp đến các hoạt động cho
vay, nhận tiền gửi, tỷ giá hối đoái,… là hoạt động mà xảy ra nhiều tranh chấp
và vi phạm hơn cả so với các loại hình tín dụng khác do chức năng mà nó
được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Hoạt động của các tổ chức tín dụng được quy định trong Luật các tổ
chức tín dụng với các hoạt động đa dạng như: huy động vốn (nhận tiền gửi,
phát hành giấy tờ có giá, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng, vay vốn của
Ngân hàng Nhà nước); Cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức
cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài
chính; Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ (mở tài khoản, dịch vụ thanh toán,địch
vụ ngân quỹ, tham gia các hệ thống thanh toán; Các hoạt động khác (góp vốn,
mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối và vàng,
nghiệp vụ uỷ thác và đại lý, kinh doanh bất động sản, kinh doanh và dịch vụ
bảo hiểm, dịch vụ tư vấn ...). Các hoạt động này phải tuân thủ các quy định
của Luật và được đảm bảo thi hành bằng các chính sách của Nhà nước về tín
dụng “Nhà nước có chính sách động viên các nguồn lực trong nước là chính
và tranh thủ tối đa nguồn lực ngoài nước; mở rộng đầu tư tín dụng, góp phần
giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành
phần kinh tế, bảo đảm cho doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo; giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia; bảo đảm an toàn hệ
thống tài chính, tiền tệ quốc gia; mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế; thực


7


hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của
nhân dân.” (Điều 5 - Luật các tổ chức tín dụng).
1.1.2. Hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng
Trong các hoạt động này thì hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng
là chủ yếu và quan trọng đặc biệt là hoạt động cho vay của loại hình tổ chức tín
dụng là Ngân Hàng được Nhà nước trao quyền rộng rãi vì liên quan đến tiền,
tài sản của Nhà nước, cá nhân, liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên khi tham gia quan hệ này. Vì vậy, đây là hoạt động phát sinh nhiều vấn đề,
mâu thuẫn, tranh chấp và có nhiều vi phạm của các tổ chức tín dụng trong hoạt
động cho vay khi chưa có đủ cơ sở pháp lý để điều chỉnh nó. [24]
Cho vay theo nghĩa chung là việc 1 người thỏa thuận để cho người khác
được quyền sử dụng tài sản của mình trong 1 thời gian nhất định với điều kiện
có hoàn trả, dựa trên cơ sở sự tín nhiệm của mình đối với người đó.. Hoạt
động cho vay gôm các yếu tố cấu thành cơ bản sau: Về chủ thể, gôm 2 bên
tham gia bên vay và bên cho vay. Hình thức pháp lý của việc cho vay là hợp
đông tín dụng. Sự kiện cho vay phát sinh bởi 2 hành vi cơ bản là hành vi ứng
trước và hành vi hoàn trả một số tiền nhất định là các vật cùng loại.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì có các định nghĩa sau về cho vay:
“Cho vay là đưa tiền cho vay trong một thời hạn nhất định rồi trả cả
vốn lẫn tỷ suất lãi theo quy định cho vay tiền để phát triển sản xuất.”
“Cho vay cầm chứng từ là hình thức cho vay dựa vào những chứng từ
sở hữu hàng hóa (vận đơn, phiếu lưu kho làm đảm bảo….).”
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi một tổ chức hay cá nhân đều phải có
hoặc tự tìm kiếm cho mình một nguôn vốn nhất định để tham gia vào các
quan hệ mua bán, trao đổi hay đầu tư...Tuy nhiên, không phải bất cứ lúc nào
hoặc không phải bất cứ chủ thể nào cũng có vốn hoặc có đủ vốn tiền tệ kinh


8


doanh. Nói cách khác, nếu xét tại một thời điểm bất kỳ luôn luôn xảy ra hiện
tượng có những người có những nguôn vốn nhàn rỗi, dư thừa, nhưng cũng có
những người thiếu hụt vốn tạm thời. Hiện tượng này đòi hỏi có sự điều hoà
vốn từ nơi dư thừa sang nơi thiếu hụt vốn tạm thời. Việc điều hoà vốn này có
thể là sự gặp gỡ trực tiếp giữa người có vốn cho vay, với người cần vốn, hoặc
có thể là qua một tổ chức trung gian là các tổ chức tín dụng.
Theo Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng (Ban
hành kèm quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước), tại điều 3 khoản 1“Cho vay là một hình thức cấp
tín dụng, theo đó Tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản
tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.”
Theo giáo trình Luật ngân hàng của Nhà xuất bản “Cho vay là một hiện
tượng kinh tế khách quan, xuất hiện khi trong xã hội loài người có tình trạng
tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Khái niệm cho vay, theo nghĩa chung
nhất được hiểu là việc một người thỏa thuận để cho người khác đươc quyền
sử dung tài sản của mình (vật cùng loại) trong một thời hạn nhất định với
điều kiện có hoàn trả, dựa trên cơ sở sự tín nhiệm của mình đối với người
đó”
Như vậy, cho vay khác với các hình thức cấp tín dụng như chiết khấu,
bảo lãnh, cho thuê tài chính. Trong nghiệp vụ cho vay, các ngân hàng giao một
khoản tiền nhất định trong một thời gian nhất định cho bên đi vay dùng vào
mục đích nhất định và bên đi vay phải hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Điều
này có ý nghĩa là đối với hình thức cho vay, khoản tiền vay được chuyển giao
trực tiếp hoặc nhập vào tài khoản của bên đi vay. Trong nghiệp vụ chiết khấu
khoản tiền vay cũng được chuyển giao tương tự như vậy. Còn đối với hình thức

cho thuê tài chính thì khoản tiền vay chính là khoản tiền mà các ngân hàng

9


dùng để mua tài sản để cho thuê. Trong trường hợp bảo lãnh ngân hàng, khoản
tiền vay mà bên đi vay (bên được bảo lãnh) nhận được chính là khoản tiền mà
ngân hàng (bên bảo lãnh) phải trả cho bên có quyền trong trường hợp bên được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Việc cho vay
dựa trên sự tín nhiệm giữa người cho vay đối với người đi vay về khả năng
hoàn trả tiền vay. Ngoài những dấu hiệu chung trên, hoạt động cho vay của
TCTD còn có những tính đặc thù sau: Là hoạt động nghề nghiệp mang tính
chức năng; Hoạt động cho vay của TCTD ko chỉ là 1 nghề kinh doanh mà hơn
nữa còn là 1 nghề nghiệp kinh doanh có điều kiện.
Ngoài việc tuân thủ các quy định chung của pháp luật về hợp đông, hợp
đông cho vay của TCTD còn chịu sự điều chỉnh của đạo luật về ngân hàng, và
các tập quán thương mại
Cho vay trong các tổ chức tín dụng được phân loại thành nhiều hình thức
vay khác nhau như: cho vay dựa vào thời hạn vay; cho vay dựa vào tính chất có
bảo đảm của khoản vay; cho vay dựa vào mục đích sử dụng vốn vay; việc phân
loại cho vay của TCTD có ý nghĩa quan trong cả về lý luận và thực tiễn. Điều
đó thể hiện ở chỗ dựa vào kết quả phân loại cho vay mà các nhà làm luật có thể
xây dựng thành những quy chế cho vay phù hợp với hoạt động thực tiễn nghiệp
vụ của các tổ chức tín dụng. Mặt khác cũng dựa trên kết quả phân loại cho vay
mà mỗi TCTD có thể xây dựng, hoạch định cho mình chiến lược kinh doanh
phù hợp, mang tính khả thi và hiệu quả. Đặc biệt việc phân loại cho vay còn
giúp cho các TCTD ở cơ sở lý luận để xây dựng thành các quy tắc kỹ thuật
nghiệp vụ tương thích với từng loại hình nghiệp vụ cho vay nhằm phục vụ cho
việc triển khai các hoạt động cho vay của mình trong thực tiễn.
Theo các hoạt động ở trên và với tính chất của các hoạt động này thì

pháp luật hình sự đã hình sự hóa việc vi phạm các quy định về những hoạt
động này sẽ bị coi là vi phạm pháp luật hình sự và bị xử lý theo quy định của
BLHS Việt Nam 1999. Dưới đây là các hành vi mà bị coi là vi phạm luật hình

10


sự và bị pháp luật cấm trong hoạt động của các TCTD:
a) Cho vay không có bảo đảm trái quy định của pháp luật;
b) Cho vay quá giới hạn quy định;
c) Hành vi khác vi phạm quy định của pháp luật về cho vay trong hoạt
động tín dụng.
Với các hành vi vi phạm này pháp luật hình sự đều quy định những hình
phạt riêng đối với từng loại hành vi tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi mà chủ thể gây ra. Việc hình sự hóa các hành vi này trong pháp luật
hình sự nhằm để tăng cường tính răn đê và hạn chế những sai phạm trong hoạt
động của các TCTD đặc biệt trong tình hình phát triển kinh tế hiện nay.
Theo đặc trưng của từng loại hình tổ chức tín dụng cho thấy trên thực tế
hiện nay ở Việt Nam chỉ có Ngân hàng là chủ thể chủ yếu tham gia hoạt động
cho vay còn các chủ thể khác là tổ chức tín dụng phi ngân hàng, quỹ tín dụng
nhân dân, tổ chức tài chính vi mô ít tham gia quan hệ này, bởi tính chất hoạt
động và quy mô hoạt động của các tổ chức này bị hạn chế ở một số lĩnh vực
nhất định theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng. Do vậy, ở đây tác giả
chủ yếu nghiên cứu về những vi phạm trong hoạt động cho vay của tổ chức
tín dụng là Ngân hàng.
1.2. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội vi phạm quy định
về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trong luật hình sự
Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của cá tổ chức tín dụng
có thể được hiểu là việc cá nhân, tổ chức trong quá trình hoạt động được giao
nhiệm vụ cho vay đã làm sai, làm trái quy định mà tổ chức đã đề ra gây ảnh

hưởng, thiệt hại đến hoạt động của tổ chức. Các quy định đó có thể là quy
định pháp luật của nhà nước hay là các quy định cụ thể của các tổ chức tín
dụng mà mỗi nhân viên, cán bộ của TCTD đều biết và phải làm theo khi thực
hiện nghiệp vụ của mình. Thực tế cho thấy có thể do nhiều nguyên nhân khác

11


nhau mà trong quá trình thực hiện nghiệp vụ các cán bộ, nhân viên của các
TCTD đã cố tình làm sai, cố tình thực hiện các hành vi vi phạm gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của tổ chức.
Để kịp thời ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm và do tính chất của
hành vi vi phạm về cho vay của các TCTD thì pháp luật hình sự đã hình sự
hóa quy định này thành tội riêng biệt quy định trong Luật hình sự năm 1999
đó là “Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các Tổ chức tín
dụng” tại điều 179. Tội vi phạm quy định về cho vay là các hành vi nguy
hiểm, xâm hại nghiêm trọng đến các quan hệ xã hội, chính sách kinh tế tài
chính của Đảng, Nhà nước ta. Thực tế, báo chí thế giới đã đăng nhiều bài viết
về tội phạm xâm phạm hoạt động của các ngân hàng mà hành vi phạm tội hết
sức tinh vi, người bình thường thật khó mà hình dung và tưởng tượng nổi như
việc đào một đường hầm xuyên qua các phố đến két ngân hàng, dùng cần cẩu
nhấc cả cụm máy ATM của ngân hàng… Còn ở Việt Nam, việc hàng loạt vụ
vi phạm về quy định cho vay như cho vay không có bảo đảm, cho vay quá
giới hạn quy định, lập hô sơ ma để nhằm vay vốn thực hiện hành vi bất chính
của các cán bộ nhân viên các tổ chức tín dụng đã được đăng liên tiếp trên báo
trong thời gian qua như một hôi chuông gióng lên về mức độ nguy hiểm cũng
như sự táo bạo, tinh vi, nhanh nhạy của bọn tội phạm liên quan đến hoạt động
ngân hàng. Đặc biệt đó lại là là những vụ phạm tội lại do chính người trong
ngành thực hiện. Hậu quả của tội phạm trong lĩnh vực này là rất lớn. Ở mức
độ vĩ mô, tội phạm trong lĩnh vực tài chính, tín dụng ngân hàng xâm hại chế

độ kinh tế của Đảng, chính sách kinh tế, tài chính của Nhà nước. Ở góc độ
hẹp hơn, tội phạm này phá hoại hoạt động kinh doanh của ngân hàng, các tổ
chức tín dụng, làm ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức, gây hoang mang, dao
động cho khách hàng và có thể dẫn đến hiện tượng đột biến rút tiền hàng loạt
dẫn đến mất khả năng thanh toán hay phá sản cho một tổ chức tín dụng cụ thể,

12


đông thời làm ảnh hưởng đến cả hệ thống tài chính - ngân hàng nói chung.
Chính vì vậy, người thực hiện hành vi phạm tội đáng bị trừng trị nghiêm minh
theo quy định của pháp luật để bảo vệ an toàn cho hoạt động tài chính -ngân
hàng nói riêng và nền kinh tế tài chính của quốc gia nói chung. Cũng chính vì
vậy Luật hình sự đã hình sự hóa quy định này vào chương các tội xâm phạm
trật tự quản lí kinh tế (chương 16) BLHS năm 1999.
Việc quy định tội phạm này trong Luật hình sự có ý nghĩa rất to lớn đối
với việc duy trì hệ thống tài chính ngân hàng nói chung và hoạt động của các
tổ chức tín dụng nói riêng. Việc quy định tội phạm này như hôi chuông cảnh
tỉnh cho các đối tượng vi phạm rằng mọi hành vi vi phạm đều bị xử lý theo
quy định của pháp luật và hành vi vi phạm quy định cho vay sẽ bị xử lý bằng
chế tài nặng nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam đó là bằng pháp luật hình
sự. Chính vì vậy, nó có ý nghĩa giáo dục và ngăn ngừa các hành vi vi phạm.
1.3. Nghiên cứu và so sánh với pháp luật hình sự của một số nước
quy định về tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng
Do hình thái Nhà nước khác nhau cùng với sự phát triển kinh tế khác
nhau nên quy định về các tổ chức tín dụng và hoạt động cho vay trong các tổ
chức tín dụng ở các quốc gia là khác nhau nên việc quy định về hành vi vi
phạm pháp luật về tín dụng để hình sự hóa trong pháp luật hình sự ở các quốc
gia cũng khác nhau.

Trong Luật hình sự của Liên Bang Nga có quy định về hình phạt đối với
việc vi phạm hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng quy định hình phạt
đối với cả hai bên là bên đi vay và cả bên cho vay. Đối với bên đi vay (các cá
nhân, tổ chức) đến vay tại ngân hàng nếu có hành vi gian lận, đệ trình lên ngân
hàng các chứng từ, tài liệu không đúng với tình hình kinh tế của cá nhân, công
ty, cố tình lừa dối ngân hàng để vay mà gây thiệt hại nghiêm trọng sẽ bị xử phạt

13


tiền từ 200-500 tiền lương tối thiểu, hoặc trong số tiền lương, tiền công mà
người phạm tội được hưởng, hoặc bất kỳ khoản thu nhập nào khác người phạm
tội được hưởng trong khoảng thời gian từ 2 đến 5 tháng hoặc bị bắt giữ từ bốn
đến sáu tháng hoặc bị tước quyền tự do từ 2-5 năm. Đối với bên cho vay là
TCTD nếu cho vay nguôn vốn của tổ chức, nhà nước với mục đích riêng bất
hợp pháp nào đó mặc dù không trực tiếp sử dụng tài sản đó mà gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của cá nhân, tổ chức thì người thực
hiện hành vi phạm tội sẽ bị phạt tiền với số tiền từ 500-700 mức tiền lương tối
thiểu, hoặc số tiền trong tiền lương, tiền công mà người phạm tội được hưởng,
hoặc các khoản thu nhập khác mà người phạm tội được hưởng trong khoảng
thời gian từ 5-7 tháng, hoặc bị tước quyền tự do từ 2-5 năm. [11]
Theo pháp luật của Cộng hòa Bungari thì tín dụng là hoạt động ảnh
hưởng lớn đến tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tài sản của
nhà nước nên việc quy định thành lập và hoạt động của các TCTD rất chặt
chẽ theo Luật các tổ chức tín dụng ban hành năm 2006. Luật quy định tổ chức
tín dụng bao gôm Ngân hàng nhà nước Bungari và các Ngân hàng thương mại
và chỉ được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần có đầy đủ các điều kiện
được quy định tại Chương 2 như: có vốn pháp định là 10 triệu BGN, có các
cổ phần, cổ phiếu rõ ràng, quy định về người đại diện… các tổ chức tín dụng
sẽ nằm dưới sự quản lý của Ngân hàng nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo

định kỳ kết quả hoạt động lên ngân hàng nhà nước và hội liên hiệp các ngân
hàng. Hoạt động cho vay phải theo trình tự đã được quy định trong luật. Điều
khác biệt so với qui định của Luật Việt Nam là chế tài xử lý hành vi vi phạm
được quy định ngay trong Luật các tổ chức tín dụng tại chương 15 về xử lý
hành chính đối với hành vi vi phạm cụ thể như: Điều 152a quy định trong
trường hợp không cấu thành tội phạm thì người vi phạm sẽ bị phạt tiền từ
2000 - 3000 BGN nếu thực hiện hành vi đưa ra thông tin sai lệch hoặc gây

14


phương hại đến uy tín và danh tiếng của tổ chức tín dụng, và nếu đã bị xử lý
mà vẫn tiếp tục vi phạm thì sẽ bị phạt tiền cao hơn từ 3,000-10,000BGN. Việc
tiến hành xử lý và thu tiền nộp phạt sẽ được tiến hành bởi Ban Kiểm Sát của
Ngân hàng. Nếu người thực hiện hành vi vi phạm bị coi là vi phạm tội theo
quy định của Luật hình sự thì sẽ bị áp dụng quy định tại Điều 227c – chương
tội phạm về kinh tế của Bộ luật. [9]
Trong đạo luật hình sự của Canada lại quy định mọi hành vi gian lận
trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng như: cung cấp thông tin giả
mạo, chuyển giao tài sản không hợp pháp nhằm thu lợi bất chính sẽ vị phạt tù
đến 2 năm. [26, tr76-83]
Có thể nhận thấy, so với pháp luật của một số quốc gia khác thì pháp
luật Việt Nam quy định nhiều hơn về hành vi vi phạm trong hoạt động cho
vay của các tổ chức hình sự bằng các “hình sự hóa” hành vi này nếu gây hậu
quả nghiêm trọng. Còn việc xử lý vi phạm hành chính chỉ được áp dụng khi
hành vi đó chưa đến mức bị coi là hành vi phạm tội và bị xử lý bằng phạt tiền
hay một số hình thức khác. Còn ở pháp luật của các nước thì phạt tiền là hình
phạt chủ yếu khi thực hiện hành vi vi phạm, trong Luật hình sự của các nước
hầu như chỉ quy định về hành vi phạm tội nếu có sự gian lận, hay lừa dối từ cả
hai bên tham gia hoạt động này. Còn ở pháp luật hình sự Việt Nam thì điều

luật được áp dụng chỉ cho một bên là tổ chức tín dụng. Đây là sự khác biệt lớn
giữa pháp luật của Việt Nam với pháp luật của một số nước trên về cách thức
xử lý đối với tội phạm trong hoạt động tín dụng.
Kết luận chương 1
Hoạt động cho vay của các TCTD là hoạt động quan trọng trong lĩnh
vực tài chính, tiền tệ, quan hệ cho vay cũng rất đặc biệt và ngày càng đa dạng
cùng với sự phát triển kinh tế thị trường hiện nay, hoạt dộng cho vay diễn ra

15


×