Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Quản lý nhà nước về công tác dân tộc qua thực tiễn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ THANH NHÀN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC DÂN TỘC
- QUA THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LƯƠNG THANH CƯỜNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Các khuyến nghị khoa học được rút ra từ
quá trình nghiên cứu đề tài, không có sự sao chép từ các công trình
nghiên cứu khác.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Thị Thanh Nhàn


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan


Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG
TÁC DÂN TỘC..................................................................................7
1.1.

Dân tộc.................................................................................................7

1.1.1. Quan niệm về dân tộc...........................................................................7
1.1.2. Quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc........................................................................8
1.1.3. Chính sách dân tộc và sự vận dụng quan điểm Chủ nghĩa Mác –
Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vào thực tiễn
công tác dân tộc ở nước ta hiện nay...................................................11
1.2.

Quản lý nhà nước về công tác dân tộc............................................14

1.2.1. Quan niệm chung về quản lý nhà nước..............................................14
1.2.2. Cấu thành quản lý nhà nước về công tác dân tộc...............................15
1.2.3. Cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về công tác dân tộc..................18
1.2.4. Bộ máy QLNN về công tác dân tộc....................................................20
1.2.5. Nội dung QLNN về công tác dân tộc.................................................25
1.3.

Những yếu tố tác động đến QLNN về công tác dân tộc................27

1.3.1. Yếu tố khách quan..............................................................................27

1.3.2. Yếu tố chủ quan..................................................................................31
Kết luận Chương 1........................................................................................33


Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC
DÂN TỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH......................34
2.1.

Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, quốc phòng,
an ninh tỉnh Quảng Ninh.................................................................34

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh tỉnh
quảng ninh..........................................................................................34
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền núi; công tác định
canh, định cư và vấn đề nhân dân qua lại biên giới tỉnh Quảng
Ninh trong những năm qua.................................................................36
2.2.

Thực tế hoạt động quản lý nhà nước về công tác dân tộc trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian qua...............................40

2.2.1. Cơ quan công tác dân tộc thuộc UBND các cấp trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh........................................................................................40
2.2.2.

Hoạt động ban hành văn bản quản lý nhà nước về công tác dân tộc.......44

2.2.3. Thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.............48
2.2.4. Hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chính sách, chương
trình, dự án ở vùng dân tộc thiểu số...................................................54

2.2.5. Tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia việc thực hiện
chính sách dân tộc..............................................................................54
2.2.6. Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ...............................................57
2.3.

Đánh giá chung đối với quản lý nhà nước về công tác dân tộc
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh và các kinh nghiệm.......................60

2.3.1. Những ưu điểm và nguyên nhân.........................................................60
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân.........................................................62
2.3.3. Kinh nghiệm từ thực tế quản lý nhà nước về công tác dân tộc trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh.....................................................................68
Kết luận Chương 2........................................................................................71


Chương 3: TIẾP TỤC HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC DÂN TỘC TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG NINH......................................................................73
3.1.

Nhu cầu tiếp tục hoạt động QLNN về công tác dân tộc trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh.................................................................73

3.1.1. Đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.......................................73
3.1.2. Đáp ứng nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền............................75
3.2.

Giải pháp hoàn thiện hoạt động QLNN về công tác dân tộc
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.........................................................75


3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về công tác dân tộc..........................................75
3.2.2. Kiện toàn bộ máy QLNN về công tác dân tộc....................................80
3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức làm công tác dân tộc..........81
3.2.4. Bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ quản lý nhà nước về công tác
dân tộc................................................................................................83
3.2.5. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức trong quản lý nhà
nước về công tác dân tộc....................................................................84
3.2.6. Thực hiện tốt việc giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với quản lý
nhà nước về công tác dân tộc.............................................................85
Kết luận Chương 3........................................................................................86
KẾT LUẬN....................................................................................................88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................91
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANQP:

An ninh quốc phòng

CBCCVC: Cán bộ, công chức, viên chức
CQĐP:

Chính quyền địa phương

CSDT:

Chính sách dân tộc

CT 134:


Chương trình 134

CT 135:

Chương trình 135

DTTS:

Dân tộc thiểu số

ĐBKK:

Đặc biệt khó khăn

HĐND:

Hội đồng nhân dân

MTTQ:

Mặt trận tổ quốc

QLNN:

Quản lý nhà nước

QPPL:

Quy phạm pháp luật


UBND:

Ủy ban nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Kết quả thực hiện di dân các năm 2006-2011..........................38
Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ bố trí dân cư các vùng giai đoạn 2006 -2011..................39
Biểu 2.3.

Sơ đồ tổ chức bộ máy và biên chế cơ quan..............................40

Biểu 2.4.

Số liệu đội ngũ CBCCVC là người DTTS...............................57

Biểu số 2.5.

Tỷ lệ CBCCVC là người DTTS cơ quan.................................58


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc anh em, trong đó
có 53 dân tộc thiểu số. Các DTTS ở nước ta chiếm 13,8% dân số cả nước,

phân bố trên địa bàn rộng lớn với 3/4 lãnh thổ, tập trung chủ yếu ở vùng miền
núi, biên giới có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh,
quốc phòng và môi trường sinh thái. Đồng bào dân tộc luôn phát huy truyền
thống đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, kề vai sát cánh trong đấu tranh
chống giặc ngoại xâm, khắc phục thiên tai và xây dựng đất nước. Công tác
dân tộc và đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách
mạng của nước ta. Thực hiện CSDT, chăm lo đời sống của đồng bào các
DTTS không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là tình cảm đền ơn, đáp
nghĩa của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Tỉnh Quảng Ninh là một tỉnh miền núi, có 14 đơn vị hành chính cấp
huyện (gồm 04 thành phố, 01 thị xã, 09 huyện) với 186 xã, phường, thị trấn.
Theo số liệu tổng điều tra dân số tại thời điểm 01/4/2009, dân số tỉnh Quảng
Ninh có 1.144.381 người với 22 thành phần dân tộc. Trong đó có 21 DTTS
với 143.278 người, chiếm 12,52% dân số toàn tỉnh, cư trú trên địa bàn rộng
lớn (hơn 85% diện tích của tỉnh), có vị trí trọng yếu về an ninh, quốc phòng.
Trong những năm qua, công tác dân tộc của tỉnh được chăm lo. Các cấp
đã quan tâm đầu tư phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền núi, hải đảo, hỗ
trợ các xã nghèo khó khăn; bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ và hệ thống
chính trị vùng dân tộc, miền núi; có nhiều biện pháp để đồng bào dân tộc định
canh, định cư, phát triển sản xuất, ổn định đời sống. Đời sống vật chất và tinh
thần của đồng bào vùng dân tộc, miền núi được cải thiện. Đồng bào yên tâm,
phấn khởi, tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp

1


luật của Nhà nước. Đoàn kết dân tộc được củng cố, tiến bộ; an ninh, quốc
phòng được giữ vững.
Tuy vậy, so với mặt bằng chung của tỉnh, tình hình kinh tế - xã hội
vùng dân tộc, miền núi, biên giới, biển đảo, nhất là ở các xã, thôn, bản ở vùng

sâu, vùng xa, biên giới của tỉnh Quảng Ninh còn nhiều khó khăn.
Việc thực hiện QLNN lĩnh vực công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh tuy có
nhiều cố gắng, song còn có những tồn tại, hạn chế.
Tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn
những nguy cơ khó lường ở lĩnh vực dân tộc, tôn giáo. Một số hoạt động tôn
giáo có những diễn biến phức tạp, có thể tạo nên những yếu tố gây mất ổn
định. Các thế lực thù địch đang ra sức chống phá sự nghiệp cách mạng của
Đảng, công cuộc đổi mới của đất nước với các chiêu bài “diễn biến hòa bình”,
“tự chuyển hóa”, trên cơ sở lợi dụng các vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo.
Địa bàn vùng dân tộc, miền núi, biên giới, biển đảo của tỉnh luôn tiềm ẩn
nguy cơ bị các thế lực thù địch lợi dụng.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu QLNN về công tác dân tộc ở
Quảng Ninh để đưa ra các đề xuất góp phần hoàn thiện QLNN đối với công
tác dân tộc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là rất cần thiết để phát triển kinh tế
-xã hội vùng dân tộc, miền núi, biên giới, biển đảo bền vững.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
“Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản,
lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt
Nam”[23]. Công tác dân tộc là lĩnh vực công tác rộng lớn từ nghiên cứu,
tham mưu cho Đảng và Nhà nước trong hoạch định các chủ trương, chính
sách, phát luật về vấn đề dân tộc đến tuyên truyền vận động và tổ chức thực
hiện các chính sách, pháp luật, các chương trình tác động trực tiếp đến các
quan hệ tộc người nhằm phát triển toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã

2


hội và ANQP các vùng dân tộc, miền núi. Do vị trí quan trọng của vấn đề dân
tộc, công tác dân tộc cùng những đặc thù của lĩnh vực quan hệ tộc người đòi
hỏi sự tham gia của tất cả các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị

“công tác dân tộc và thực hiện CSDT là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị”[18]. Tính
đa dạng của đối tượng quản lý, tính phức tạp trong quản lý liên ngành đang
đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần nghiên cứu tổng kết.
Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn liên quan đến vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc, CSDT và
công tác dân tộc ở nước ta góp phần tích cực vào việc tham mưu cho Đảng và
Nhà nước trong hoạch định chính sách, pháp luật về vấn đề dân tộc, tổng kết
thực hiện CSDT, giải quyết các quan hệ tộc người nhằm thực hiện đại đoàn
kết các dân tộc. Trong đó, có thể kể đến như:
- Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX – NXB Chính trị Quốc gia
ấn hành năm 2001;
- 55 năm công tác dân tộc và miền núi (1946-2001) - Ủy ban Dân tộc;
- Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời
kỳ công nghiệp hóa – NXB Chính trị Quốc gia – 2002) của Viện nghiên cứu
chính sách dân tộc và miền núi (nay là Viện Dân tộc);
- Quan hệ giữa các tộc người trong một quốc gia dân tộc – GS. Đặng
Nghiêm Vạn – NXB Chính trị Quốc gia năm 1993;
- Dân số và dân tộc tộc người ở Việt Nam – GS. Khổng Diễn - NXB
Khoa học xã hội năm 1995;
- Mấy vấn đề về lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến quan hệ
dân tộc hiện nay – GS. Phan Hữu Dật – NXB Chính trị Quốc gia, năm 2001;
- Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
- Ủy ban Dân tộc – NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, năm 2013;

3


- Đề tài khoa học cấp tỉnh của Ban Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Quảng
Ninh (2006): Nghiên cứu đạo Phật Việt Nam đời nhà Trần tại Quảng Ninh và

các giải pháp quản lý đối với vấn đề tôn giáo hiện nay;
...
Cũng đã có nhiều các chuyên luận được đăng tải trên các tạp chí
chuyên ngành liên quan đến pháp luật và chính sách đối với các dân tộc thiểu
số, ví dụ như:
- Đầu tư phát triển bền vững vùng dân tộc, miền núi: nhân tố cơ bản,
quyết định làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
(Nguyễn Phương Thảo - Tạp chí Dân tộc số 46 tháng 10/2004);
- Đổi mới việc thực hiện chính sách xã hội ở nước ta hiện nay (PGS.TS
Trần Quang Nhiếp – Tạp chí Dân tộc số 39 tháng 3/2004);
- Luật tục với phát triển nông thôn vùng dân tộc, miền núi (TS. Lưu
Văn An – Tạp chí Dân tộc số 71 tháng 11/2005);
- Chính sách dân tộc của Đảng đối với các dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên thực trạng và giải pháp (TS. Nguyễn Văn Nam – tạp chí Dân tộc số
69 tháng 9/2006)
- Giải quyết tốt vấn đề dân tộc, tôn giáo góp phần giữ vững ổn định
chính trị trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên (PGS-TS. Lê Văn Đính Đông
Đức- Tạp chí Dân tộc số 134- tháng 3/2012);
- Thực trạng và giải pháp nâng cao nguồn nhân lực vùng dân tộc,
miền núi (Nguyễn Quảng Hải, Trần Phương Liên – Tạp chí Dân tộc số 136,
tháng 4/2012)
....
Đó là những thành quả nghiên cứu lý luận chung đóng góp ở mức độ
khác nhau (trực tiếp, gián tiếp) vào QLNN về công tác dân tộc. Những công
trình nghiên cứu, tài liệu nêu trên là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị, mang
tính lý luận và thực tiễn cao.
4


Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề lý luận liên quan trực tiếp đến QLNN

về công tác dân tộc như: QLNN về dân tộc với xây dựng nhà nước pháp
quyền; quan hệ trong QLNN về công tác dân tộc (những lĩnh vực trực tiếp,
những lĩnh vực tham gia, phối hợp); các giải pháp để nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ là người DTTS nói chung, đội ngũ làm công tác dân tộc
nói riêng; hệ thống pháp luật liên quan đến QLNN về công tác dân tộc; cơ
cấu, chức năng và tổ chức bộ máy QLNN về công tác dân tộc...
Ở Quảng Ninh đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
đầy đủ, có hệ thống về lý luận và thực tiễn đối với lĩnh vực QLNN về công
tác dân tộc. Đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề này
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh và cũng là lý do để đề tài “Quản lý nhà nước
về công tác dân tộc qua thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” được lựa chọn bởi sự
không trùng lặp chủ đề với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
Mục đích nghiên cứu của đề tài là chỉ ra cơ sở lý luận và thực tiễn cho
việc tiếp tục hoàn thiện hoạt động QLNN về công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh. Từ đó, tìm ra những giải pháp cụ thể để nâng cao hơn nữa hiệu
quả thực hiện cơ chế này.
Để đạt được mục đích trên, đề tài đặt ra những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ thêm cơ sở khoa học, pháp lý của QLNN về công tác dân tộc;
- Phân tích thực trạng và đánh giá thực trạng, xác định ưu, nhược điểm
và những vấn đề đặt ra trong QLNN về công tác dân tộc trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh;
- Đưa ra những giải pháp để tiếp tục hoàn thiện QLNN về công tác dân
tộc trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động QLNN về công tác dân tộc.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn về không gian được giới hạn trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh, giới hạn thời gian là từ năm 2009 đến năm 2013.
5



5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm, chủ trương của Đảng và
nhà nước ta về công tác dân tộc.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng một cách linh hoạt
và hợp lý: phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp khảo sát thực tế;
phương pháp thống kê và phân tích tổng hợp; phương pháp phân tích, đối
chiếu; phương pháp so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Về lý luận, Luận văn hệ thống hóa và làm rõ thêm cơ sở lý luận về
công tác dân tộc.
Về thực tiễn, các khuyến nghị của Luận văn hướng đến việc góp phần
hoàn thiện hoạt động lập quy của UBND tỉnh Quảng Ninh về công tác dân
tộc, kết hợp rà soát và hệ thống hóa các văn bản QPPL trong lĩnh vực dân tộc
nhằm loại bỏ các văn bản hết hiệu lực; ban hành các văn bản điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực dân tộc của tỉnh Quảng Ninh cũng
như dự báo tình hình và đề xuất các giải pháp mới nhằm nâng cao chất lượng
QLNN về dân tộc ở Quảng Ninh trong thời gian tới.
Luận văn cũng còn là tài liệu tham khảo trong các cơ sở đào tạo Luật
học, Hành chính học.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC
DÂN TỘC

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
CÔNG TÁC DÂN TỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH


Chương 3: TIẾP TỤC HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ CÔNG TÁC DÂN TỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ CÔNG TÁC DÂN TỘC
1.1. Dân tộc
1.1.1. Quan niệm về dân tộc
Dân tộc được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, dân tộc là một cộng đồng người thống nhất, có chung
một nhà nước, một lãnh thổ, một nền kinh tế, một chế độ chính trị - xã hội, có
ngôn ngữ và văn hoá chung, thống nhất[55]. Theo nghĩa này, nói tới dân tộc
là nói tới quốc gia. Sự hình thành dân tộc gắn liền với sự ra đời của nhà nước,
đó là nhà nước dân tộc. Nhà nước dân tộc có thể là một tộc người, là dân tộc
đơn nhất như Nhật Bản, Triều Tiên; cũng có thể là nhiều tộc người, là dân tộc
đa tộc người như Việt Nam, Trung Quốc và hầu hết các nước khác. Nhà nước
dân tộc phải là nhà nước độc lập, có lãnh thổ toàn vẹn, có chủ quyền. Dân tộc
không chỉ là một cộng đồng người hay cộng đồng đa tộc người mà còn là một
cộng đồng kinh tế, chính trị - xã hội và văn hoá gắn với nhà nước và những
điều kiện lịch sử nhất định.
Theo nghĩa hẹp, dân tộc là chỉ một tộc người cụ thể [55]. (Ví dụ: Việt
Nam là một quốc gia đa dân tộc, là quốc gia đa tộc người, gồm 54 tộc người,
ngoài tộc người Kinh chiếm đa số về số dân, còn có 53 tộc người thiểu số
khác: Tày, Nùng, Hmông, Bana, Êđê...). Khi nói dân tộc - tộc người là nói
theo nghĩa hẹp. Tộc người trong quốc gia - dân tộc có nhiều tộc người hợp
thành là một thành phần trong cơ cấu của dân tộc - quốc gia đó. Các tộc người
bình đẳng (thiểu số cũng như đa số), cùng sinh sống, có chung chế độ chính

trị, nhà nước, luật pháp, kinh tế, văn hoá nhưng lại có văn hoá tộc người riêng
của mình (ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lối sống…).
7


Như vậy, dân tộc - quốc gia nổi bật ở tính toàn vẹn lãnh thổ, độc lập chủ
quyền. Trong khi đó, dân tộc - tộc người lại đặc biệt nổi bật ở văn hoá tộc người.
1.1.2. Quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc
1.1.2.1. Quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác- Lênin về
vấn đề dân tộc
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin xem xét vấn đề dân tộc
trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Sự hình thành và phát
triển dân tộc là một hiện tượng lịch sử xã hội phức tạp, có căn nguyên sâu xa
từ sự vận động của sản xuất, của kinh tế đồng thời chịu sự tác động chi phối
trực tiếp của nhân tố chính trị, tức là của giai cấp và Nhà nước trong việc tổ
chức nên đời sống xã hội của các cộng đồng người. Mặt khác, dân tộc ra đời
và phát triển còn gắn liền với truyền thống lịch sử và văn hoá (kể cả đời sống
tín ngưỡng, tôn giáo) của từng dân tộc. Bởi lẽ, mỗi cộng đồng dân tộc cũng
như cộng đồng tộc người có lịch sử hình thành và phát triển không giống
nhau, không đồng thời và nhất loạt như nhau.
Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài
người. Dân tộc có các hình thức cộng đồng khác nhau trong lịch sử từ thấp
đến cao, từ thị tộc và bộ lạc đến các bộ tộc và đến khi xuất hiện giai cấp, nhà
nước thì xuất hiện dân tộc.
“Vấn đề dân tộc là một bộ phận của vấn đề chung về cách mạng vô
sản, một bộ phận của vấn đề chuyên chính vô sản” [40, tr.294].
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là Lênin đã xác
định những nguyên tắc và nội dung chủ yếu của Cương lĩnh dân tộc nhằm giải
quyết vấn đề dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã phát triển và cuộc

đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị tư bản chủ
nghĩa đã trở nên cấp bách ở nửa sau thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Ba nguyên
tắc cơ bản của CSDT là: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc
8


được quyền tự quyết, liên hiệp các công nhân tất cả các dân tộc lại” [16,
tr.90].
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn còn mãi giá trị và ý
nghĩa của nó trong điều kiện hiện nay.
1.1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân tộc ở Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc là một trong
những nội dung tư tưởng cơ bản trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người
về cách mạng Việt Nam. Vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê nin
về vấn đề dân tộc vào thực tiễn tình hình và yêu cầu cụ thể của cách mạng
Việt Nam, thấu hiểu sâu sắc tình hình, truyền thống lịch sử văn hóa của các
dân tộc Việt Nam, Bác Hồ đã đề ra nguyên tắc cơ bản và có thể nói cũng là
thể hiện quan điểm tư tưởng mang tính nền tảng của Người về công tác dân
tộc ở nước ta đó là “Đoàn kết, bình đẳng, tương trợ”.
Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Hiến pháp năm
1946 đã công bố quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân, không
kể là dân tộc đa số hay thiểu số: “Đất nước Việt Nam là khối thống nhất
Trung Nam Bắc không thể phân chia” (Điều 2). Và “Ngoài sự bình đẳng về
quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để
chóng tiến kịp trình độ chung” (Điều 8). Bình đẳng là cơ sở của đoàn kết giữa
các dân tộc, nếu không có bình đẳng thì không thể có đoàn kết thực sự. Các
dân tộc Việt Nam đều là thành viên của một nước Việt Nam độc lập dưới sự
lãnh đạo của một Đảng, một Chính phủ.
Trong Thư gửi Đại hội các DTTS tại Plâycu năm 1946, Người viết:
“Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay

Ba Na và các DTTS khác, đều là con cháu VN, đều là anh em ruột thịt. Chúng
ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau. Trước kia
chúng ta xa cách nhau, một là vì thiếu dây liên lạc, hai là vì có kẻ xúi giục để

9


chia rẽ chúng ta. Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta.
Trong Quốc hội có đủ đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có “Nha dân tộc
thiểu số” để săn sóc cho tất cả các đồng bào. Giang sơn và Chính phủ là
giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta
phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta.
Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để
mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta”.
Trách nhiệm thực hiện công tác dân tộc là của mọi ngành, mọi cấp, chứ
không phải chỉ là nhiệm vụ của một cơ quan chuyên trách làm công tác dân
tộc. Cán bộ công tác dân tộc, nhất là những người trực tiếp làm việc ở miền
núi, vùng đồng bào dân tộc phải am hiểu phong tục, tập quán, nắm được tâm
tư nguyện vọng của đồng bào “nghe dân nói và nói dân hiểu”. Bác đã khuyên
nhủ rằng: “Nước ta có nhiều dân tộc, đấy là điều tốt. Thường mỗi dân tộc có
tiếng nói riêng, cán bộ đi làm việc chỗ nào phải học tiếng chỗ ấy”[32, tr.13].
Theo Người, muốn thực hiện tốt CSDT, công tác dân tộc thì phải am
hiểu về miền núi, về con người miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số, vì mỗi
DTTS có nếp sống, tâm lý, bản sắc riêng đa dạng và phong phú. Muốn tiến
hành sự nghiệp cách mạng nói chung và công tác dân tộc nói riêng, thì phải
“nghiên cứu cho hiểu rõ phong tục mọi nơi”[30, tr.430].
Người đề ra 03 nguyên tắc cơ bản đối với công tác dân tộc ở Việt Nam:
Thứ nhất là, đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển bền
vững là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong lịch sử quan hệ dân tộc và công tác dân tộc ở
Việt Nam. Người chỉ rõ: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng. Không sợ

nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”[37, tr.185]. Như vậy, dù giàu hay nghèo thì
công bằng cũng vẫn là mắt xích quan trọng nhất của đoàn kết dân tộc.
Thứ hai là, phát triển kinh tế - văn hoá ở vùng dân tộc thiểu số. Tư tưởng
xuyên suốt của Người về xây dựng và phát triển miền núi là làm cho miền núi

10


tiến kịp miền xuôi, làm cho đồng bào các DTTS được hưởng ngày càng đầy
đủ hơn những quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội...
Thứ ba là, chính sách đối với cán bộ dân tộc thiểu số. Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn coi việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vùng DTTS là một nhiệm vụ
trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta. Việc xây dựng một đội ngũ cán bộ vùng
dân tộc thiểu số đủ tiêu chuẩn là trách nhiệm của toàn xã hội; Người luôn căn
dặn và yêu cầu làm công tác dân tộc phải đứng trên quan điểm của giai cấp
công nhân mà biểu hiện cụ thể là nắm vững đường lối, chính sách của Đảng,
phải có đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Là công dân trong cộng
đồng 54 dân tộc anh em, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cán
bộ dân tộc phải nắm vững lý luận cách mạng, nắm đường lối cách mạng
chung và CSDT của Đảng.
1.1.3. Chính sách dân tộc và sự vận dụng quan điểm Chủ nghĩa Mác
– Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đân tộc vào thực tiễn công tác
dân tộc ở nước ta hiện nay
1.1.3.1. Chính sách dân tộc
Chính sách dân tộc là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc, giải pháp của
Đảng và Nhà nước tác động đến các dân tộc, vùng dân tộc nhằm đưa các dân tộc,
vùng dân tộc phát triển toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội [56, tr.36].
Mục tiêu của CSDT của Đảng và Nhà nước ta là thực hiện sự bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ, phát triển giữa các dân tộc đa số và thiểu số về kinh tế, văn
hóa, xã hội. Mục tiêu này được thể hiện tập trung ở các văn bản pháp quy quan

trọng. Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa đã khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân
Việt Nam, không phân biệt nòi giống, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”
(Điều 1); “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện:
chính trị, kinh tế, văn hóa” (Điều 6); “Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những

11


quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ
chung” (Điều 8); “Ở các trường học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học
bằng tiếng của mình” (Điều 15); “Số nghị viện của những đô thị lớn và những địa
phương có quốc dân thiểu số sẽ do luật định” (Điều 24).
Bản Hiến pháp năm 2013 lại tiếp tục khẳng định mục đích của Đảng và
Nhà nước đối với CSDT:
“1. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất
của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng
nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền
thống và văn hoá tốt đẹp của mình.
4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để
các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.” (Điều 5).
1.1.3.2. Sự vận dụng quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc vào thực tiễn công tác dân tộc ở nước ta hiện nay
Trong sự nghiệp đổi mới, tại các đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX,
gần đây là tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 khoá IX và tại
Đại Hội X, XI, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, về đại
đoàn kết dân tộc càng được chú ý và được nêu ra đầy đủ trên mọi phương diện.

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI của Đảng xác định “Đoàn kết dân
tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của đất nước ta”. Đảng ta
chỉ ra các điểm chính của công tác dân tộc hiện nay như sau:
Một là, mọi cán bộ, đảng viên, đồng bào dân tộc cần nhận thức sâu sắc
về nhiệm vụ chiến lược của công tác dân tộc nước ta hiện nay;
Hai là, tập trung thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược công tác
dân tộc ở nước ta hiện nay;
12


Ba là, nâng cao đời sống văn hóa, đào tạo đội ngũ cán bộ là người dân
tộc thiểu số;
Bốn là, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn
vùng đồng bào dân tộc.
Nhà nước ta đã thể chế hoá và biến các quan điểm cơ bản của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, của Đảng ta thành các chính sách, chương trình, dự án để thực
hiện ở các vùng đồng bào dân tộc và miền núi.
Từ năm 1998 trở về trước, có 21 chương trình mục tiêu quốc gia đầu tư
cho vùng miền núi, dân tộc thiểu số. Từ năm 1999 đến nay, một số chương
trình dự án lớn được xây dựng và thực hiện lồng ghép thành công trong việc
phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi và dân tộc thiểu số. Như chương trình
xoá đói giảm nghèo - CT 133; Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã
ĐBKK, vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới, vùng sâu vùng xa- CT 135;
Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên - CT 168; Chương
trình phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long - CT 173;
Chương trình phát triển kinh tế-xã hội 6 tỉnh ĐBKK vùng miền núi phía Bắc
CT - 186; Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt cho hộ
đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn - CT 134; Chính sách trợ giá, trợ
cước vận tải một số mặt hàng thiết yếu cho vùng dân tộc, miền núi, QĐ 20;
Chính sách cấp không thu tiền một số loại báo, tạp chí cho vùng dân tộc, miền

núi QĐ 1637. Ngoài ra, còn có các Chương trình trồng 5 triệu ha rừng; nước
sạch và vệ sinh môi trường; y tế cơ sở; Chương trình kiên cố hoá trường lớp
CT 159. Còn rất nhiều chương trình, chính sách khác đã và đang thực hiện trên
địa bàn vùng ĐBKK, vùng miền núi, biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Ngày 7-12-2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1277/QĐ-TTg
phê duyệt Đề án “Nội dung, nhiệm vụ chủ yếu của QLNN và phương thức công
tác dân tộc”. Ngày 10-6-2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số

13


07/2006/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế- xã hội các xã
ĐBKK vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006-2010. Đó là sự quan
tâm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, đoàn kết dân tộc một
cách cụ thể, thiết thực trong thực tiễn của Đảng và Nhà nước ta [51].
Cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, ngày 12/3/2012, Thủ tướng
Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020. Mục tiêu của
Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020 là phát triển kinh tế - xã hội toàn diện,
nhanh, bền vững; đẩy mạnh giảm nghèo vùng dân tộc thiểu số, rút ngắn khoảng
cách phát triển giữa các dân tộc; giảm dần vùng ĐBKK; từng bước hình thành các
khu trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học vùng dân tộc thiểu số; phát triển nguồn
nhân lực vùng dân tộc thiểu số; tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ là người dân tộc thiểu số; củng cố hệ thống chính trị cơ sở; giữ vững khối
đại đoàn kết các dân tộc, đảm bảo ổn định an ninh, quốc phòng.
Để thực hiện các mục tiêu trên, công tác dân tộc cần thực hiện các nhiệm
vụ chủ yếu: Phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là
người dân tộc thiểu số; Xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số; Phát triển
sản xuất, đẩy nhanh công tác xóa đói, giảm nghèo đồng bào vùng dân tộc thiểu số;
Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số; Phát triển toàn
diện các lĩnh vực văn hóa – xã hội vùng dân tộc thiểu số; Nâng cao chất lượng hệ

thống chính trị, củng cố an ninh nông thôn vùng dân tộc thiểu số; Tập trung đầu tư
phát triển địa bàn ĐBKK vùng dân tộc thiểu số; Đảm bảo nước sinh hoạt và vệ
sinh môi trường vùng DTTS.
Giải pháp thực hiện các nhiệm vụ trên là: Nâng cao nhận thức về công
tác dân tộc; Đảm bảo nguồn lực tài chính thực hiện Chiến lược; Đổi mới việc
xây dựng và thực hiện CSDT; Kiện toàn, nâng cao hiệu quả cơ quan QLNN về
công tác dân tộc.
1.2. Quản lý nhà nước về công tác dân tộc

14


1.2.1. Quan niệm chung về quản lý nhà nước
QLNN được hiểu theo hai phạm vi nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Thứ nhất, QLNN theo nghĩa rộng là toàn bộ mọi hoạt động của nhà
nước nói chung, mọi hoạt động mang tính chất nhà nước, nhằm thực hiện các
nhiệm vụ, chức năng của nhà nước. Chủ thể của QLNN theo nghĩa rộng là tất
cả các cơ quan nhà nước của bộ máy nhà nước bao gồm ba hệ thống cơ quan:
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhân dân cũng là chủ thể của QLNN theo
nghĩa rộng khi thực hiện quyền trưng cầu dân ý - bỏ phiếu toàn dân, hoặc
tham gia quản lý nhà nước bằng các hình thức khác. Các tổ chức xã hội, các
cơ quan xã hội, v.v…, cũng là chủ thể của QLNN theo nghĩa rộng nếu được
nhà nước trao quyền thực hiện chức năng nhà nước[60, tr.27-28].
Thứ hai, QLNN theo nghĩa hẹp là hoạt động quản lý do các cơ quan
hành chính nhà nước thực hiện. Đó là hoạt động chấp hành hiến pháp, pháp
luật và điều hành trên cơ sở hiến pháp và các luật đó, vì thế còn gọi là hoạt
động chấp hành và điều hành nhà nước (hay thường gọi đơn giản là hoạt động
chấp hành và điều hành). Chủ thể của QLNN theo nghĩa hẹp chủ yếu là toàn
bộ hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước đứng đầu là Chính phủ và các
cơ quan phái sinh từ chúng, các cơ quan, đơn vị, tổ chức và các cán bộ, công

chức trực thuộc. Vì vậy, trong thực tiễn quản lý và lý luận khoa học pháp lý
chúng còn được gọi là các cơ quan quản lý nhà nước.[60, tr.28-29].
Trong giới hạn của Luận văn, QLNN được hiểu theo nghĩa hẹp.
1.2.2. Cấu thành quản lý nhà nước về công tác dân tộc
1.2.2.1. Quan niệm quản lý nhà nước về công tác dân tộc
Trong nghiên cứu và hoạt động thực tiễn hiện nay, “quản lý nhà nước
về công tác dân tộc” được các tác giả sử dụng với nhiều khái niệm như:
“QLNN về vấn đề dân tộc”, “QLNN về dân tộc”, “QLNN về lĩnh vực công
tác dân tộc”, “QLNN ở vùng dân tộc”. Cho đến nay, khái niệm quản lý nhà

15


nước về công tác dân tộc chưa được đưa ra một cách chính thống tại văn bản
QPPL. Nghị định số 60/2008/NĐ-CP ngày 09/5/2008 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân tộc có
nêu: “… thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác dân tộc trong
phạm vi cả nước”. Vì thế, Luận văn này sử dụng cụm từ “quản lý nhà nước
về công tác dân tộc”.
QLNN về công tác dân tộc là một bộ phận cấu thành của hệ thống
QLNN. Quản lý nhà nước về công tác dân tộc là hoạt động của các cơ quan
nhà nước (trong đó trước hết và chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước), cá
nhân có thẩm quyền, trên cơ sở Hiến pháp, luật và để thi hành Hiến pháp, luật
nhằm tác động đến công tác dân tộc để đạt được mục đích đã được xác định
trước.
Khách thể quản lý nhà nước về công tác dân tộc bao gồm quản lý toàn
bộ các hoạt động kinh tế – xã hội diễn ra trong đời sống gắn với vùng cư trú
của đồng bào các dân tộc thiểu số để không ngừng nâng cao đời sống kinh tế,
văn hóa của đồng bào.
1.2.2.2. Phương pháp quản lý nhà nước về công tác dân tộc

Về phương pháp quản lý, người ta phân biệt 2 nhóm:
Một là, nhóm các phương pháp của các ngành khoa học khác được các
cơ quan nhà nước sử dụng (như phương pháp thống kê, toán học hoá, tâm lý xã hội học và sinh lý học).
Hai là, nhóm các phương pháp quản lý hành chính nhà nước.
Riêng nhóm các phương pháp quản lý hành chính nhà nước, người ta
phân chia thành bốn phương pháp cụ thể:
Phương pháp giáo dục, thuyết phục là phương pháp tác động về tinh
thần, tư tưởng đối với con người để họ giác ngộ lý tưởng, ý thức chính trị và
pháp luật, nhận biết được việc làm nào là tốt, là vinh, là thiện, việc làm nào là

16


xấu, là nhục, là ác... Từ ý thức đúng sẽ dẫn đến hành động đúng, nên họ sẽ có
trách nhiệm, có lương tâm, có kỷ luật, không vi phạm pháp luật. Trong xã hội
XHCN ở nước ta, đây là phương pháp hàng đầu.
Phương pháp tổ chức là phương pháp đưa con người vào khuôn khổ,
kỷ luật, kỷ cương bằng cách đề ra quy chế, thực hiện nghiêm quy chế và kiểm
tra, giám sát cũng như có chế tài minh bạch để khen thưởng, xử phạt.
Phương pháp kinh tế là phương pháp mà chủ thể quản lý tác động gián
tiếp đến khách thể quản lý dựa trên các lợi ích vật chất và đòn bẩy kinh tế
nhằm làm cho khách thể quản lý suy nghĩ đến lợi ích của mình mà tự giác
thực hiện bổn phận một cách tốt nhất.
Phương pháp hành chính là phương pháp tác động trực tiếp của chủ thể
quản lý nhà nước đến các khách thể quản lý bằng các mệnh lệnh hành chính,
tức là các mệnh lệnh có tính bắt buộc, dứt khoát và đơn phương, một chiều.
Trong bốn phương pháp cụ thể của nhóm các phương pháp quản lý
hành chính, theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, phương
pháp giáo dục, thuyết phục được nổi lên hàng đầu. Do vậy, phải làm
thường xuyên, liên tục. Biện pháp tổ chức là hết sức quan trọng, có tính

khẩn cấp; phương pháp kinh tế là cơ bản, là động lực thúc đẩy mọi hoạt
động quản lý nhà nước; phương pháp hành chính là rất cần thiết nên phải
được sử dụng một cách đúng đắn.
QLNN về công tác dân tộc là quản lý một lĩnh vực nhạy cảm, do đó, trong
thực tế không dùng một phương pháp quản lý đơn lẻ, mà trong từng lĩnh vực,
từng vùng lãnh thổ và vùng dân tộc khác nhau có những phương pháp quản lý
phù hợp. Thông thường các cơ quan có chức năng QLNN thường áp dụng tổng
hợp các nhóm phương pháp trên trong QLNN. Do tính đặc thù của công tác dân
tộc nên các cơ quan quản lý thường áp dụng đồng thời các nhóm phương pháp

17


nói trên và một số phương pháp chuyên biệt như: quản lý bằng pháp luật; quản
lý bằng bộ máy tổ chức; quản lý bằng chính sách cụ thể (chương trình mục tiêu,
dự án...); quản lý bằng thanh tra, kiểm tra, tổng kết.
1.2.3. Cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về công tác dân tộc
Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước
Việt Nam; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; …. N hà nước
thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu
số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước (Điều 5- Hiến pháp 2013).
Quốc hội có quyền quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo
của Nhà nước (khoản 5, Điều 70 Hiến pháp 2013).
Hội đồng Dân tộc ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn khác như các Ủy
ban của Quốc hội còn có một số nhiệm vụ như: nghiên cứu và kiến nghị với
Quốc hội về công tác dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính
sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và
vùng đồng bào dân tộc thiểu số; được mời tham dự phiên họp của Chính phủ

bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định thực hiện
chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng Dân tộc (quy
định tại Điều 75 - Hiến pháp 2013).
Việc thực hiện các chính sách dân tộc là một trong những nhiệm vụ của
Chính phủ (khoản 9, Điều 8 - Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001).
Theo đó, đối với lĩnh vực dân tộc, Chính phủ có nhiệm vụ và quyền
hạn như sau:
Thứ nhất là, quyết định chính sách, các biện pháp cụ thể nhằm đảm bảo
thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát
triển, thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, quyền dùng tiếng nói, chữ

18


×