PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Ngay từ khi Nhà nước ra đời Đảng nhà nước Bác Hồ đã rất quan tâm đến
Thi đua, khen thưởng Người nói “Thi đua là yêu nước, ai yêu nước thì phải thi
đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất ”
1
, và công việc
hàng ngày chính là nội dung thiết thực của thi đua. Phong trào thi đua yêu nước
do Người khởi xướng và lãnh đạo từ những năm đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp đã nhanh chóng phát triển thành phong trào sâu rộng và liên tục qua
nhiều thập kỷ, trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước. “Thi đua, khen thưởng
là động lực phát triển và là biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới, thi
đua yêu nước phải được tiến hành thường xuyên, liên tục hàng ngày”. Từ thực
tiễn quá trình xây dựng và phát triển của tỉnh Ninh Bình, nhất là trong những
năm đổi mới vừa qua càng thấy được vai trò, vị trí của công tác thi đua, khen
thưởng trong mỗi bước phát triển và trưởng thành của tỉnh, dù ở lĩnh vực nào và
thời điểm nào đều có sự đóng góp quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng.
Tuy nhiên trong những năm gần đây, sự lãnh đạo chỉ đạo của Đảng với
các phong trào thi đua “bị buông lỏng” chưa trở thành động lực mạnh mẽ động
viên cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân, khen thưởng chưa gắn chặt với công tác thi
đua, chưa phát huy mạnh mẽ tác dụng khuyến khích động viên thi đua, nhất là
trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Để khắc phục tình
hình trên đây của công tác thi đua, khen thưởng, một trong những vấn đề đặt ra
cần giải quyết phải đổi mới công tác thi đua, khen thưởng mà trước hết là đổi
mới quản lý nhà nước đối với công tác này.
Là một công chức đang công tác tại Ban Thi đua, khen thưởng tỉnh Ninh
Bình, để kết thúc khóa học Cao học Quản lý hành chính công tôi chọn đề tài
“Đổi mới quản lý nhà nước về công tác thi đua khen thưởng ở địa phương”
và mong rằng đề tài này có thể đóng góp phần nhỏ bé của mình vào quản lý
công tác thi đua, khen thưởng ở địa phương.
1
Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, H.1995, Tập 6 tr 473
1
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về thi đua, khen thưởng và
quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng.
- Phân tích tình hình công tác thi đua, khen thưởng và thực trạng quản lý
nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng ở địa phương hiện nay.
- Nêu những giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới quản lý nhà nước công tác
thi đua, khen thưởng để nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài:
Nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen của địa
phương, chủ yếu ở tỉnh Ninh Bình từ những năm đổi mới đến nay có tham khảo
những thời kỳ trước đó.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
5. Dự kiến đóng góp của đề tài:
- Đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới để nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về công tác thi đua, khen thưởng.
- Là tài liệu để giúp cơ quan thi đua, khen thưởng ở địa phương tham
khảo để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng.
6. Kết cấu của Luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về thi đua, khen thưởng và quản lý nhà
nước về công tác thi đua, khen thưởng.
Chương II: Thực trạng quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen
thưởng ở địa phương (tỉnh Ninh Bình).
Chương III: Phương hướng và giải pháp đổi mới quản lý nhà nước về
công tác thi đua, khen thưởng trong những năm tới.
2
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI ĐUA KHEN THƯỞNG VÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC THI ĐUA KHEN THƯỞNG
1.1. Một số vấn đề lý luận về thi đua, khen thưởng.
1.1.1. Khái niệm thi đua.
- Nghiên cứu quá trình hợp tác giữa con người và con người trong lao
động sản xuất, thấy được hiện tượng diễn ra một cách khách quan trong quá
trình hợp tác lao động, Mác đã đưa ra khái niệm về thi đua "Thi đua nảy nở
trong quá trình hợp tác lao động, trong hoạt động chung và kế hoạch của con
người. Sự tiếp xúc xã hội tạo nên thi đua và sự nâng cao theo lối đặc biệt nghị
lực sinh động tăng thêm nghị lực cho riêng từng người"
2
Bàn về ngày thứ bảy lao động cộng sản Lê Nin đã nói đến thi đua xã hội
chủ nghĩa đó là phong trào lao động tự nguyện, góp sức giải quyết khó khăn,
xây dựng xã hội mới của quần chúng lao động được giải phóng khỏi ách áp bức
bóc lột. Lê Nin coi đây là một sáng kiến vĩ đại, chính quyền cách mạng cần
chăm lo, tổng kết, phổ biến sáng kiến kinh nghiệm.
Phêđôxêép nhà khoa học Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô trước đây cho
rằng "Thi đua là sự đọ sức trong lao động và sáng tạo, mang đặc tính của con
người trong xã hội, được sinh ra bởi sự hợp tác lao động và bởi mối quan hệ xã
hội của con người trong quá trình sản xuất ", " Thi đua xã hội chủ nghĩa là mối
quan hệ xã hội mới có lịch sử. Nó mang tính sáng tạo xã hội của giai cấp công
nhân, thi đua xã hội chủ nghĩa xuất hiện như là nhiệt tình cách mạng là hành
động tự giác của quần chúng lao động - những người đã tổ chức sản xuất xã hội
theo kiểu mới trong lao động".
3
- Ngay từ khi Nhà nước ta mới ra đời Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chú trọng đến công tác thi đua. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh thi đua tồn tại khách
quan trong xã hội, người dạy " Tưởng lầm rằng thi đua là một việc khác với
những công việc hàng ngày. Thật ra công việc hàng ngày chính là nền tảng thi
2
trong Bộ Tư bản Luận tập I Các Mác.
3
Giới thiệu một số tài liệu Hội nghị Khoa học - Thực tiễn về thi đua xã hội chủ nghĩa của Liên Xô.
Ban TĐKT tỉnh Thanh Hóa. Trang 60.
3
đua". Thi đua là một hiện tượng khách quan, là qui luật phát triển tất yếu trong
quá trình hợp tác lao động của con người. Ở đâu có hợp tác lao động thì ở đó
nảy sinh thi đua.
Dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, thi đua yêu nước bao giờ cũng là phong
trào thi đua tập thể của những công nhân, nông dân, trí thức, những người lao
động tự mình làm chủ vận mệnh của mình, không đối kháng về lợi ích cá nhân,
tập thể và xã hội; mọi người mang hết nhiệt tình và khả năng của mình ra để xây
dựng đất nước.
Nguyên tắc quan trọng nhất của thi đua xã hội chủ nghĩa là đoàn kết, hợp
tác cùng phát triển, phổ biến sáng kiến, kinh nghiệm; Người tiền tiến thân ái
giúp đỡ người chậm tiến để đạt tới sự tiến bộ chung. Hoàn toàn không giống với
bí mật thương nghiệp trong cạnh tranh. Thi đua xã hội chủ nghĩa chẳng những
nhằm mục tiêu kinh tế mà còn nhằm xây dựng con người mới, rèn luyện nhân
cách cao đẹp cho người lao động.
Nói như vậy thi đua có ý nghĩa nhân văn, nhân đạo cao cả. Thông qua thi
đua để giáo dục động viên mọi người, nâng cao lòng yêu nước, ý thức giác ngộ
giai cấp, trách nhiệm công dân và tính cộng đồng xã hội.
Công tác thi đua qua những chặng đường lịch sử, đặc biệt thấy rõ vai trò
thi đua thời kỳ đổi mới, trong cơ chế thị trường Nhà nước đã có Luật Thi đua,
khen thưởng trong đó chỉ rõ: "Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự
nguyện của các cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
4
1.1.2. Khái niệm khen thưởng.
Khen thưởng là công việc đã tồn tại khá lâu trong lịch sử xã hội, gắn liền
với thưởng phạt của nhà nước thuộc các chế độ xã hội khác nhau.
Khen thưởng đã được thực hiện ở nước ta từ các triều đại phong kiến
trước đây. Trong sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên đã ghi rõ những
hình thức khen thưởng như sau:
“- Khen thưởng người có công trong chiến trận
4
Luật Thi đua, khen thưởng. Ban Thi đua khen thưởng Trung ương. Hà Nội 2006. Trang 15.
4
- Khen thưởng người có công trong việc đi sứ
- Khen thưởng người phò tá có công lao tài đức
- Khen thưởng người tiến cử, người hiền tài
- Khen thưởng người có lời tâu đúng
- Khen thưởng người cấp dưới giữ đúng phép công, không vị nể người
quyền quý cấp trên
- Khen thưởng người có công làm thủy lợi
- Khen thưởng người có tài văn chương
- Khen thưởng người cao tuổi ”
5
Qua những hình thức khen thưởng đó chứng tỏ các triều đình phong kiến
đã biết khích lệ động viên mọi người hăng hái lập công, để được khen thưởng.
Đó chính là tinh thần yêu nước sâu sắc của dân tộc.
Nguyễn Trãi đã từng nói: "Một Nhà nước mà thưởng phạt nghiêm minh,
kịp thời là nhà nước vững mạnh. Nhà nước nào phạt nhiều hơn thưởng là nhà
nước đang suy tàn. Nhà nước nào thưởng nhiều hơn phạt là nhà nước phồn vinh"
Đảng, Bác Hồ đã rất quan tâm đến việc biểu dương khích lệ động viên
người tốt, việc tốt. Mỗi khi đọc báo, nghe đài, thấy có nghĩa cử đẹp là Bác cho
đi kiểm tra ngay để Bác khen thưởng. Bác thường nhắc nhở khen thưởng phải
chính xác và kịp thời để động viên phát huy mặt ưu điểm, tích cực, khắc phục và
đẩy lùi mặt khuyết điểm, tiêu cực nhằm xây dựng con người mới vì mục tiêu
dân giầu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Bác Hồ đã chỉ thị “Có công thì thưởng, có lỗi thì phạt, khen thưởng phải
có tác dụng giáo dục, động viên, nêu gương ” khen thưởng còn là một chính
sách của nhà nước để ghi công, tôn vinh các cá nhân, tập thể có thành tích trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khen là sự nhận xét đánh giá tốt về một con người nào đó; tổ chức nào
đó, về cái gì, việc gì đó với ý nghĩa hài lòng. Còn thưởng là tặng cho bằng hiện
vật hoặc tiền Khen thưởng là hình thức ghi nhận công lao, thành tích của Nhà
nước bằng quyết định của cơ quan có thẩm quyền do luật định. Như vậy khen
5
Đại Việt sử ký toàn thư.
5
thưởng là một vấn đề thuộc phạm trù khoa học xã hội. Khen thưởng và trừng
phạt được hình thành phát sinh và tồn tại trong quá trình phát triển của con
người là vấn đề thuộc tâm lý xã hội, sinh hoạt tinh thần của con người, do đó
khen thưởng phải thể hiện quan điểm quần chúng, phải có trách nhiệm cao trong
quá trình phát hiện xét khen thưởng. Khen thưởng tồn tại cùng với sự tồn tại của
Nhà nước. Còn Nhà nước là còn khen thưởng. Khen thưởng vừa có ý nghĩa
động viên về tinh thần và khích lệ bằng vật chất.
Trong điều kiện hiện nay, khen thưởng vẫn có vai trò quan trọng là động
lực thúc đẩy xã hội phát triển là biện pháp của người quản lý thực hiện nhiệm vụ
trọng tâm chính trị của cơ quan đơn vị mình nhằm khuyến khích động viên mọi
tầng lớp trong xã hội tích cực hăng hái lập thành tích trong lao động sản xuất và
công tác.
Trên cơ sở lý luận đó Luật Thi đua, khen thưởng của Nước Cộng hoà Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 26/11/2003 đã nêu rõ: "Khen thưởng là việc nghi
nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối
với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
6
1.1.3. Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng.
- Thi đua và khen thưởng quan hệ chặt chẽ, tác động biện chứng lẫn nhau.
Là hai thành tố hữu cơ của một quá trình dẫn đến một hiệu quả chung. Mối quan
hệ đó biểu hiện:
Thi đua là động lực thúc đẩy cá nhân và cộng đồng hoàn thành nhiệm vụ
trên cơ sở đó thực hiện khen thưởng, thực tế cho thấy:
Ở đâu phong trào thi đua thực sự là động lực thì ở đó xã hội phát triển
quần chúng phấn khởi và khen thưởng chuẩn xác, ngược lại ở đâu phong trào thi
đua yếu, hoặc không có phong trào thi đua ở đó xã hội trì trệ công tác khen
thưởng không chuẩn xác, quần chúng kém phấn khởi, thậm chí có những tiêu
cực.
Khen thưởng vừa là kết quả, vừa là yếu tố thúc đẩy phong trào thi đua
phát triển, thực tế cho thấy:
6
Luật Thi đua, khen thưởng. Ban Thi đua khen thưởng Trung ương. Hà Nội 2006. Trang 15.
6
Ở đâu làm tốt công tác khen thưởng, công tác này được đánh giá khách
quan, công minh trên cơ sở phong trào thi đua thì ở đó quần chúng phấn khởi, có
được phong trào thi đua mới, tốt hơn và ngược lại.
Bác Hồ coi thi đua là đoàn kết, là cải tạo con người. Theo Bác thi đua
phải toàn dân toàn diện, thường xuyên . Đặc biệt bác nhấn mạnh Thi đua phải
gắn với khen thưởng một cách đích đáng; khen thưởng phải có tác dụng động
viên, giáo dục nêu gương; Bác khái quát bản chất của mối quan hệ giữa thi đua
và khen thưởng là: “thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch”. Như vậy
có tổ chức tốt phong trào thi đua thì kết quả khen thưởng mới chính xác, mới có
tác dụng giáo dục, nêu gương, động viên khuyến khích, hơn nữa còn tạo điều
kiện cho đợt thi đua sau đạt kết quả cao hơn. Do vậy, không coi nhẹ khen
thưởng trong thi đua, ngược lại không có thi đua thì không có căn cứ đánh giá
thành tích để khen thưởng, thiếu chính xác, ít tác dụng.
Xét cả hai phương diện lý luận và thực tiễn cho thấy thi đua, khen thưởng
luôn bổ sung hỗ trợ cho nhau. Thi đua là động lực thúc đẩy mọi tầng lớp nhân
dân phát huy tinh thần sáng tạo, nỗ lực vượt mọi khó khăn vươn lên hoàn thành
các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra. Từ kết quả tổng kết thi đua mà lựa chọn tập
thể và cá nhân xứng đáng để khen thưởng. Khen thưởng chính là việc đánh giá
kết quả phong trào thi đua. Khen thưởng chính xác kịp thời có tác dụng động
viên, giáo dục và nêu gương tốt trong xã hội, đồng thời cổ vũ phong trào thi đua
phát triển sâu, rộng. Nếu khen thưởng không đúng không chuẩn xác sẽ làm mất
tác dụng thậm chí còn ảnh hưởng xấu đến phong trào thi đua và dẫn đến tiêu cực
trong phong trào thi đua, ảnh hưởng đến công tác khen thưởng.
Tuy nhiên, trong thực tế có những hình thức khen thưởng không phản ánh
kết quả trực tiếp từ phong trào thi đua như: Khen thưởng tổng kết thành tích
kháng chiến, khen thưởng người có quá trình cống hiến lâu dài trong cơ quan, tổ
chức, đoàn thể… ; khen thưởng đối với những cá nhân tổ chức trong nước và
ngoài nước có công lao, đóng góp cho xã hội, cho Việt Nam trong quá trình hội
nhập, phát triển kinh tế, những cá nhân dũng cảm cứu người, tài sản của nhà
nước của tập thể, của công dân song việc khen thưởng này cũng có quan hệ
7
nhất định đối với thi đua, nó cũng bị ảnh hưởng nhất định từ phong trào thi đua,
từ truyền thống thi đua yêu nước của dân tộc.
1.2. Quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng.
1.2.1 Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen
thưởng.
Thi đua, khen thưởng là lĩnh vực hoạt động của xã hội cần có sự quản lý
của nhà nước bởi vì:
- Thi đua, khen thưởng là một lĩnh vực hoạt động rộng lớn của hàng triệu
hàng triệu quần chúng nhân dân thông qua phong trào thi đua; huy động các tổ
chức trong hệ thống chính trị tham gia các phong trào thông qua đó phát huy
được nội lực của mỗi người, mỗi đơn vị, địa phương trong cả nước góp phần
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
- Thi đua là hoạt động rộng khắp ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã
hội các ngành, các cấp, rất đa dạng, phong phú, đồng thời mục tiêu, hình thức,
biện pháp thi đua thường xuyên cần thay đổi để phù hợp với sự phát triển kinh tế
- xã hội.
Kết quả thi đua cần có sự đánh giá đúng, khách quan, có thưởng phạt kịp
thời, rõ ràng để động viên khuyến khích mọi tầng lớp trong xã hội tham gia vào
phong trào thi đua.
Lịch sử cho thấy các nhà nước trước đây trên thế giới cũng như ở Việt
Nam đều thực hiện vai trò thưởng phạt, đó là ban thưởng những người có công
và trách phạt những người có tội.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác thi đua, khen
thưởng, sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động thi đua, khen thưởng thì mới
có được sự thống nhất, tạo được sức mạnh để thi đua trở thành động lực thúc
đẩy xã hội phát triển. Như vậy, công tác thi đua, khen thưởng đã có đóng góp
không nhỏ vào sự phát triển của nhà nước, do vậy nhà nước phải quản lý công
tác này.
Chỉ thị số 35/CT-TW ngày 03/5/1998 của Bộ chính trị về đổi mới công
tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn mới đã chỉ rõ: “Làm rõ vị trí, vai trò
8
quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới, khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng và quản lý nhà nước đối với công tác thi đua, khen thưởng; kiện toàn và
đổi mới tổ chức - cán bộ của cơ quan tham mưu thi đua, khen thưởng, đổi mới
nội dung và hình thức thi đua, khen thưởng "
1.3. Nôị dung quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng.
Luật thi đua, khen thưởng đã được Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003 và
đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005.
Chương VI Quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng.
Điều 90 Quy định nội dung quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng bao
gồm:
“1. Ban hành các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng;
2. Xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng;
3. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định
của pháp luật về thi đua, khen thưởng;
4. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen
thưởng;
5. Sơ kết tổng kết, tặng thưởng các hình thức khen thưởng; đánh giá hiệu
quả công tác thi đua, khen thưởng;
6. Hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng;
7. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về thi đua,
khen thưởng;
8. Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về thi đua, khen
thưởng.”
7
Việc nhận thức đúng và thực hiện đầy đủ nội dung quản lý nhà nước về
công tác thi đua, khen thưởng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đổi mới quản
lý nhà nước công tác thi đua, khen thưởng ở địa phương. Do vậy luận văn tập
7
Luật Thi đua, khen thưởng. Ban Thi đua khen thưởng Trung ương. Hà Nội 2006. Trang 61
9
trung làm rõ những nội dung chủ yếu quản lý nhà nước đã được nêu trong Luật
Thi đua, khen thưởng.
1.3.1 Ban hành các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Văn bản pháp luật là công cụ quan trọng nhất để nhà nước quản lý xã hội
nói chung và quản lý công tác thi đua, khen thưởng nói riêng. Nhà nước quản lý
công tác thi đua, khen thưởng bằng pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật
của nhà nước là sự thể hiện, cụ thể hoá quan điểm, đường lối của Đảng về công
tác thi đua, khen thưởng, đồng thời cũng là sự tập trung nguyện vọng của quần
chúng nhân dân trong lao động, sản xuất, công tác, học tập đóng góp vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Văn bản pháp luật tạo ra hành lang pháp lý để các tổ chức, các tầng lớp
nhân dân và các cá nhân phát huy lòng nhiệt tình hăng hái tham gia thi đua và
đón nhận những kết quả, phần thưởng xứng đáng; hành lang đó tạo ra sự thống
nhất công tác thi đua, khen thưởng ở các ngành, các cấp trong cả nước.
Thực tế đã chứng minh ngay từ khi Nhà nước ta mới ra đời trong cuộc
kháng chiến chống Pháp, trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, để huy động
sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân nhà nước đã ban hành các văn bản pháp lý
về thi đua, khen thưởng như: Ngày 20/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra
Quốc lệnh ban hành 10 điều thưởng với lời mở đầu: “Trong một nước, thưởng
phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi,
kiến quốc mới thành công”
8
. Quốc lệnh là văn bản pháp lý đầu tiên về điều kiện
về khen thưởng, đặt nền móng hình thành chính sách khen thưởng; Văn bản này
đã góp phần quan trọng trong phong trào thi đua yêu nước phát triển, làm nên
chiến thắng thần thánh Điện Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1945 - 1998, nhà nước ta đã ban hành 1 quốc lệnh, 15 sắc lệnh, 6
quyết nghị, 5 pháp lệnh và nhiều nghị định, thông tư, chỉ thị để tổ chức thực
hiện công tác thi đua, khen thưởng. Suốt chiều dài hơn 60 năm xây dựng đất
nước công tác thi đua, khen thưởng đã bám sát được chủ trương, chính sách của
8
Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, H.1995, Tập 4 tr 163
10
Đảng và Nhà nước, kịp thời đề ra những phương pháp tổ chức thực hiện phù
hợp với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng; đã khơi dậy và phát huy cao độ
lòng yêu nước, ý chí quật cường, tinh thần hy sinh cao cả, chủ nghĩa Anh hùng
cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân góp phần bảo vệ miền Bắc xã hội
chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sau một thời gian dài công tác thi đua, khen thưởng “bị buông lỏng”
9
.
Ngày 03/5/1998 Bộ chính trị đã ban hành Chỉ thị số 35 về đổi mới công tác thi
đua, khen thưởng trong giai đoạn mới. Ngày 21/5/2004 Bộ Chính trị đã ban
hành chỉ thị số 39 về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước,
phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến.
Luật Thi đua khen thưởng ra đời cùng các văn bản pháp quy của nhà nước
như Nghị định số 121/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ qui định chi
tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng, và Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng, Nghị định số
122/2005/NĐ-CP ngày 04/10/2005 của Chính phủ quy định tổ chức làm công
tác thi đua, khen thưởng đã từng bước thực hiện đổi mới công tác thi đua, khen
thưởng, đưa công tác này vào nề nếp đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế.
Trên cơ sở quy định của Luật Thi đua, khen thưởng và các văn bản hướng
dẫn thi hành luật, các địa phương, đơn vị đã đề ra những quy định cụ thể về
công tác khen thưởng của địa phương, đơn vị mình theo chức năng nhiệm vụ và
điều kiện thực tế cho phép để từng bước đưa Luật Thi đua, khen thưởng vào
cuộc sống, góp phần đẩy mạnh công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ
tổ quốc mà ở đó thi đua, khen thưởng là biện pháp đòn bẩy được áp dụng thống
nhất trong phạm vi cả nước.
1.3.2. Xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng.
Việc xây dựng chính sách đã được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm.
Ngay sau khi giành được chính quyền Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Quốc lệnh
ban hành 10 điều thưởng ngày 26 tháng 01 năm 1946. Điều này chứng minh
9
Trích Chỉ thi 35/CT-TW ngày 03/6/1998 của Bộ Chính trị
11
rằng chính sách trong thi đua, khen thưởng được xác định rất quan trọng để
động viên, khuyến khích mọi tầng lớp trong xã hội thi đua lao động, sản xuất và
sáng tạo để phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân.
Luật Thi đua, khen thưởng, các văn bản quy phạm pháp luật, thông tư
hướng dẫn thi hành luật đề cập một cách toàn diện các mặt của công tác thi đua,
khen thưởng; đây là chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước.
Cuộc sống phát triển rất sinh động phong phú, phong trào thi đua, khen
thưởng cũng không ngừng phát triển phong phú đa dạng nhất là ở các ngành, các
địa phương cho đến cơ sở. Do vậy vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước về công
tác thi đua, khen thưởng là xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng, chính
sách này phải đáp ứng kịp thời sự phát triển cuộc sống xã hội thậm chí của mỗi
ngành, mỗi cấp đặc biệt của địa phương và cơ sở.
Trong thời kỳ kháng chiến, đất nước còn nghèo và còn nhiều khó khăn,
các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng chỉ nhằm động viên tinh thần là
chủ yếu; đến nay, nền kinh tế đang phát triển, nhất là với cơ chế thị trường và
hội nhập quốc tế, Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến quyền lợi và chế độ đối
với người lao động nói chung và đối với những cá nhân, tập thể có thành tích
cống hiến được khen thưởng nói riêng. Do vậy khi xây dựng chính sách về thi
đua, khen thưởng phải chú trọng đến chế độ khen thưởng nhằm khuyến khích,
động viên những cá nhân, tập thể hăng hái trong phong trào thi đua yêu nước.
Châm ngôn xưa đã được nhân dân ta đúc kết “Trăm đồng tiền công,
không bằng một đồng tiền thưởng”. Nó thể hiện sự trân trọng giá trị vật chất và
tinh thần, đảm bảo giá trị kết quả thi đua, đó là giá trị của khen thưởng. Hiện nay
trong cơ chế thị trường thì giá trị vật chất lại càng thể hiện được nguyên tắc “vật
chất quyết định ý thức” có nghĩa là khen thưởng có tác dụng trở lại thi đua.
Thực tiễn cho ta thấy rõ tác dụng to lớn của chính sách trong công tác thi
đua, khen thưởng khi kết hợp giữa động viên tinh thần, gắn với quyền lợi vật
chất, có chính sách đãi ngộ thỏa đáng trong khen thưởng sẽ là động lực cho thi
đua, động lực phát triển kinh tế - xã hội, là động lực để vượt qua những khó
khăn, thử thách.
12
Những vấn đề trên là cơ sở lý luận và thực tiễn sinh động giúp chúng ta
có cách nhìn mới về công tác thi đua, khen thưởng và cũng chính là cơ sở để đổi
mới công tác thi đua, khen thưởng trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
1.3.3 Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của
pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Điều 12 và Điều 13 Luật Thi đua khen hưởng có nêu: “ Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm: tuyên truyền, động viên
các thành viên của mình tham gia với các cơ quan chức năng tuyên truyền, động
viên nhân dân thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng; Tổ chức hoặc phối
hợp với cơ quan nhà nước tổ chức các cuộc vận động, các phong trào thi đua;
Giám sát việc thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng. Các cơ quan thông
tin đại chúng có trách nhiệm thường xuyên tuyên truyền, phổ biến, nêu gương
các điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt, cổ động phong trào thi đua, khen
thưởng.”
10
Như vậy, theo quy định của Luật Thi đua, khen thưởng Mặt trận Tổ quốc
và các thành viên có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến, giám sát; tổ chức nhà
nước có trách nhiệm tổ chức và phối hợp tuyên truyền, phổ biến, giám sát; cơ
quan thông tin đại chúng có trách nhiệm thường xuyên trong công tác tuyên
truyền cho thi đua và các gương điển hình.
Đây là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các địa phương đơn vị khi tiến
hành công tác thi đua, khen thưởng phải thực hiện. Tuy nhiên, ở mỗi ngành,
mỗi cấp tổ chức thực hiện nhiệm vụ này có những yêu cầu, đối tượng, nội dung
cụ thể khác nhau.
Trong công tác thi đua, khen thưởng tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn và
tổ chức thực hiện thi đua, khen thưởng là một khâu rất quan trọng vì thế trong
Luật Thi đua, khen thưởng cũng quy định rõ và đó là một vấn đề mà nhà nước
cần phải quản lý.
10
Điều 12, Điều 13 Luật Thi đua, khen thưởng
13
Đối với cấp Trung ương, nhà nước có kế hoạch tuyên truyền, phổ biến,
hướng dẫn để các ngành, các địa phương quán triệt mục đích, yêu cầu, nội dung
của các quy định pháp luật đồng thời có sự hướng dẫn các ngành, các địa
phương tổ chức thực hiện các quy định pháp luật ấy. Trên cơ sở đó, các ngành,
các cấp trong cả nước thống nhất nhận thức và hành động.
Đối với địa phương gồm các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, sau
khi được quán triệt và hướng dẫn tổ chức thực hiện, chính quyền cấp tỉnh vận
dụng vào đặc điểm cụ thể của địa phương từ đó có kế hoạch tuyên truyền, phổ
biến hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật đối với cấp huyện
và các Ban ngành, đoàn thể ở địa phương.
Đối với cấp huyện cũng tương tự như vậy. Một khi toàn bộ các cấp, các
ngành thực hiện nhiệm vụ này sẽ tạo ra được sự thống nhất nhận thức, hành
động trong cả nước từ Trung ương đến cơ sở đối với các quy định pháp luật về
thi đua, khen thưởng.
Nội dung này, vấn đề hướng dẫn và tổ chức thực hiện có ý nghĩa rất đặc
biệt, vì có tổ chức thực hiện luật, các văn bản quy định của pháp luật mới trở
thành hiện thực trong cuộc sống, nhà nước mới thực sự quản lý được công tác
thi đua, khen thưởng. Từ đó công tác thi đua, khen thưởng tạo sự quản lý thống
nhất từ Trung ương đến cơ sở. Mới trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội.
1.3.4. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm việc thực
hiện các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Nội dung thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm
việc thực hiện các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng được quy định tại
Điều 96 Luật Thi đua, khen thưởng. Có nội dung này vì quản lý nhà nước ở bất
kỳ lĩnh vực nào, ngành nào cũng đều phải có thanh tra, kiểm tra, nếu không
thanh tra, kiểm tra sẽ bị buông lỏng công tác quản lý nhà nước.
Trong thực tế, không phải đơn vị, địa phương, cá nhân nào cũng thực hiện
tốt, đầy đủ những quy định của Luật Thi đua Khen thưởng và các văn bản hướng
dẫn thi hành luật.
14
Công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành trong những nội dung: Việc
thực hiện Luật Thi đua khen thưởng, các băn bản hướng dẫn thi hành luât, các
quy định, chính sách của nhà nước về thi đua, khen thưởng không đúng tiêu
chuẩn, không đúng đối tượng.v.v…
- Công tác thanh tra, kiểm tra theo định kỳ hàng quý, hàng năm hoặc theo
đợt phát động phong trào thi đua, kết thúc phong trào thi đua, hoặc thanh tra đột
xuất khi thấy có vấn đề về công tác thi đua, khen thưởng.
- Thanh tra khi có khiếu nại, Vì vậy công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo,
xử lý vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng cũng phải được quan tâm giải
quyết
Trong tiến trình xét thi đua, khen thưởng không phải không còn những
hiện tượng không khách quan, cảm tình, nể nang, chủ quan có những động cơ
không trong sáng. Một số cá nhân, đơn vị lợi dụng những sai sót trong phương
pháp, tinh thần trách nhiệm của người thực hiện nhiệm vụ, các cá nhân, tập thể
khai man thành tích để được khen thưởng
Đó là một trong những nguyên nhân đẫn đến có đơn thư khiếu nại của
quần chúng nhân dân về khen sai, khen không đúng tiêu chuẩn, tố giác những
người khai man thành tích, thực hiện không đúng chính sách về khen thưởng của
Đảng và nhà nước. Vì vậy, cơ quan quản lý phải giải quyết để thực hiện tốt Luật
Khiếu nại, tố cáo đảm bảo quyền lợi, chính sách trong thi đua, khen thưởng.
Sau khi thanh tra kiểm tra phải có đánh giá, kết luận ở từng đơn vị từng
ngành, từng cấp trong việc thực hiện chính sách khen thưởng. Công tác quản lý
nhà nước trong việc thanh tra, kiểm tra giải quyết các khiếu nại tố cáo và đặc
biệt là xử lý những vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng phải được quan
tâm thường xuyên để Luật Thi đua, khen thưởng thực sự đi vào cuộc sống, đảm
bảo được nguyên tắc của thi đua là tự nguyện, tự giác, nguyên tắc của khen
thưởng là chính xác, công khai, công bằng và kịp thời. Có được như vậy thi đua,
khen thưởng mới thực sự là động lực cho mỗi cá nhân, tập thể trong lao động,
sản xuất, công tác, học tập tốt hơn và mới có tác dụng thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội của địa phương cũng như của đất nước.
15
1.3.5. Hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng.
Đất nước đổi mới, mở cửa, hội nhập tạo điều kiện cho các lĩnh vực công
tác giao lưu, học hỏi, tiếp nhận sự hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức nước ngoài.
Do vậy đây là nội dung nhà nước cần quản lý đối với công tác thi đua, khen
thưởng gồm:
Trao đổi học tập kinh nghiệm quản lý của các nước bạn về khen thưởng
và về các chính sách khuyến khích người dân tham gia vào công việc của xã hội.
Giới thiệu hình thức thi đua, khen thưởng của Việt Nam với các nước bạn.
Theo dõi phát hiện những cá nhân, tổ chức nước ngoài có đóng góp đối
với Việt Nam trong các ngành, lĩnh vực và các địa phương.
Đề xuất những hình thức khen thưởng đối với những cá nhân tổ chức
nước ngoài đã có những đóng góp hiệu quả trong việc giúp Việt Nam xây dựng,
phát triển kinh tế hoặc giúp các ngành, các địa phương giải quyết được những
vấn đề cần ghi công và khen thưởng.
Với điều kiện nước ta hiện nay nội dung này càng cần được quan tâm hơn
cùng với sự phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế, kêu gọi sự hợp tác đầu tư của
các cá nhân, tổ chức nước ngoài.
1.4.2.6. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác thi đua,
khen thưởng.
Nhà nước, các cấp chính quyền ở địa phương muốn quản lý tốt công tác
thi đua khen thưởng trước hết phải có bộ máy thống nhất, có đội ngũ cán bộ đủ
năng lực, phẩm chất để làm công tác thi đua, khen thưởng.
Muốn có đội ngũ cán bộ tốt thì phải đào tạo bồi dưỡng để nâng cao chất
lượng cán bộ cả về phẩm chất lẫn chuyên môn nghiệp vụ.
Bồi dưỡng về chính trị là để nâng cao sự hiểu biết, về đường lối chính
sách của Đảng và nhà nước về quan điểm chỉ đạo phong trào thi đua, tư tưởng
Hồ Chí Minh về thi đua, khen thưởng, trên cơ sở đó nâng cao về năng lực tổ
chức phong trào thi đua yêu nước và có phẩm chất đạo đức trung thực khách
quan để làm tốt công tác.
16
Bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ nhất là đối với cán bộ làm công tác
thi đua, khen thưởng ở cơ sở là rất cần thiết. Nếu cán bộ ở cơ sở không thông
thạo về chuyên môn nghiệp vụ thì không thể tham mưu đề xuất với cấp uỷ,
chính quyền về tổ chức phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế,
xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương, và đề xuất xét duyệt những hình thức
khen thưởng được chính xác, kịp thời
Đối với cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng cũng phải tiêu chuẩn
hoá, được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, phải có kiến thức xã hội, am hiểu
lịch sử và có nhận thức tốt tiếp cận thông tin mới, nhanh nhậy nắm bắt chủ
trương chính sách mới của Đảng và nhà nước thì mới đáp ứng được yêu cầu về
tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp về các chủ trương giải pháp
trong chỉ đạo và tổ chức phong trào thi đua.
Nhà nước muốn quản lý tốt công tác thi đua, khen thưởng trước hết phải
có đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất để làm công tác này. Do vậy nhu
cầu đào tạo, bồi dưỡng là cấp thiết nhất là trong hoàn cảnh hiện nay khi mà luật
mới ra đời mặt bằng cán bộ còn yếu và thiếu.
1.3.7 Sơ kết, tổng kết, tặng thưởng các hình thức khen thưởng đánh giá hiệu quả
công tác thi đua.
Mục đích, yêu cầu của sơ kết, tổng kết là nhằm đánh giá được kết quả của
công tác thi đua, khen thưởng những mặt đã làm được và những mặt chưa làm
được. Chỉ rõ những ưu, khuyết điểm và nguyên nhân trong lãnh đạo, chỉ đạo của
các cấp uỷ Đảng và chính quyền, đoàn thể, đơn vị đối với công tác thi đua, khen
thưởng.
Từ thực tế tổ chức phong trào thi đua, và công tác khen thưởng trong từng
đợt thi đua, hay hàng năm, hoặc từng giai đoạn qua sơ kết, tổng kết rút ra bài
học kinh nghiệm và đề xuất các chủ trương, giải pháp tiếp tục đổi mới công tác
thi đua, khen thưởng trong giai đoạn tiếp theo góp phần phát triển kinh tế xã hội,
an ninh quốc phòng của địa phương, của đất nước.
17
Nội dung tổng kết phải đánh giá được công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các
cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể trong việc tổ chức các phong trào thi đua
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.
Đánh giá về nhận thức vai trò, tầm quan trọng của thi đua, khen thưởng
trong công cuộc đổi mới và hội nhập của đất nước. Tổng kết rút ra được những
bài học kinh nghiệm, các hình thức, nội dung, phương pháp để tổ chức phong
trào thi đua có hiệu quả; về kinh nghiệm xây dựng điển hình tiên tiến, rà soát các
hình thức, nội dung, đối tượng, tiêu chuẩn khen thưởng, những vấn đề cần bổ
sung, sửa đổi, vận dụng vào đặc điểm của từng ngành, từng địa phương cho phù
hợp. Trên cơ sở đó đề xuất công tác chỉ đạo, quản lý và các qui trình, thủ tục xét
duyệt khen thưởng, tổng kết theo dõi và chấm điểm thi đua để có các hình thức
tặng thưởng xứng đáng, chính xác, kịp thời.
Trong tình hình thực tế bệnh quan liêu, hình thức còn đang nặng nề trong
các địa phương, đơn vị thì việc tổng kết, sơ kết càng phải đặt ra với chất lượng
cao hơn để tránh hình thức, phô trương, tốn kém mà không hiệu quả.
Trên đây là những nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về công tác Thi
đua, khen thưởng. Những nội dung này quan hệ chặt chẽ với nhau, phải được
tiến hành đồng thời, không thể coi nhẹ nội dung nào.
1.4. Hệ thống cơ quan làm công tác Thi đua, khen thưởng.
Từ khi mới ra đời Đảng và nhà nước rất quan tâm đến việc tổ chức cơ
quan làm công tác thi đua, khen thưởng. Ngày 17/9/1947 đã có Sắc lệnh số
83/SL thành lập Viện Huân chương thuộc Phủ Chủ tịch với nhiệm vụ: giúp Chủ
tịch nước nghiên cứu ban hành các chế độ, thể lệ khen thưởng Huân chương,
Huy chương, xét duyệt, đặt sản xuất và cấp phát các loại Huân chương, Huy
chương.
Để đẩy mạnh và quản lý công tác thi đua, khen thưởng, năm 1964 đã có
Quyết định số 28/CP ngày 04/02/1964 của Phủ Thủ tướng thành lập Ban Thi
đua Trung ương. Để thống nhất quản lý, chỉ đạo công tác thi đua và khen
thưởng, năm 2004 chuyển Viện Thi đua khen thưởng Nhà nước thành Ban Thi
đua, khen thưởng Trung ương trực thuộc Chính phủ, Ban Thi đua, khen thưởng
18
Trung ương và là cơ quan thường trực Hội đồng thi đua, khen thưởng Trung
ương.
1.4.1. Ở Trung ương.
- Ban Thi đua, khen thưởng Trung ương được thành lập theo Quyết định
158/2004/NĐ-CP ngày 25/8/2004 của Chính phủ về việc thành lập Ban Thi đua,
khen thưởng Trung ương. Để giảm bớt cơ quan đầu mối thuộc Chính phủ. Ngày
08/8/2007 Chính phủ có Nghị định số 08/2007/NĐ-CP quy định. Ban Thi đua,
khen thưởng Trung ương thuộc Bộ Nội vụ, giúp Chính phủ quản lý nhà nước về
thi đua, khen thưởng trong phạm vi cả nước và tổ chức các hoạt động thi đua,
khen thưởng theo qui định của pháp luật; quản lý nhà nước các dịch vụ công
thuộc lĩnh vực, phạm vi quản lý của Ban theo quy định của pháp luật.
Theo Quyết định số 158/QĐ-CP Ban Thi đua, khen thưởng Trung ương
có tư cách pháp nhân, có con dấu hình quốc huy, kinh phí hoạt động do ngân
sách nhà nước cấp, có tài khoản riêng, trụ sở đặt tại Hà Nội.
Ban Thi đua, khen thưởng Trung ương chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm
vụ quyền hạn của cơ quan thuộc Chính phủ quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực
chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức gồm:
1. Làm nhiệm vụ cơ quan thường trực của Hội đồng Thi đua, khen thưởng
Trung ương;
2. Chủ trì hoặc tham gia soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh và các văn
bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng theo sự phân công của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ;
3. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các chương trình, kế hoạch dài
hạn, hàng năm về công tác thi đua, khen thưởng; tổ chức thực hiện chương trình,
kế hoạch sau khi được phê duyệt; tổng hợp tình hình và báo cáo định kỳ về công
tác thi đua, khen thưởng;
4. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định về đối tượng, thủ tục,
quy trình, thời gian xét đối với các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng;
hình thức, thủ tục khen thưởng đơn giản;
19
5. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định các mẫu hiện vật khen
thưởng thuộc phạm vi nhà nước quản lý;
6. Trình Bộ trưởng được Thủ tướng Chính phủ phân công ký ban hành
các căn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ban;
7. Tổ chức thực hiện các phong trào thi đua và triển khai thực hiện chính
sách khen thưởng của Đảng, Nhà nước; hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn về thi
đua, khen thưởng đối với các ngành, các cấp;
8. Tổng hợp và thẩm định hồ sơ đề nghị khen thưởng của các cơ quan, tổ
chức để trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định khen thưởng hoặc để
Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước quyết định khen thưởng;
9. Tổ chức việc chế tạo, bảo quản, cấp phát hiện vật khen thưởng; chuẩn
bị hiện vật kèm theo các hình thức khen thưởng của Chủ tịch nước, Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ; tổ chức thu hồi, cấp đổi hiện vật khen thưởng theo quyết
định của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước;
10. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng lý luận, nghiệp vụ cho cán bộ công chức
làm công tác thi đua, khen thưởng ở các ngành, các cấp;
11. Chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Ban theo mục
tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính nhà nước đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt;
12. Quản lý, lưu trữ hồ sơ khen thưởng thuộc thẩm quyền quyết định của
Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước;
13. Vận động các nguồn tài trợ và quản lý, sử dụng quỹ thi đua, khen
thưởng Trung ương; chỉ đạo và kiểm tra việc quản lý, sử dụng quỹ thi đua, khen
thưởng ở các ngành, các cấp;
14. Thực hiện hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng theo quy định của
pháp luật;
15. Thanh tra kiểm tra và kiến nghị với các cấp có thẩm quyền xử lý các
vi phạm trong việc thực hiện chính sách, chế độ, pháp luật, những quy chế, quy
trình nghiệp vụ về thi đua, khen thưởng. Tổ chức tiếp công dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo về công tác thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp luật;
20
16. Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính, tài sản của Ban theo
quy định của pháp luật. Thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức,
viên chức thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ban.
1.4.2. Ở địa phương
- Cấp tỉnh từ năm 1964 đến năm 1976 chuyển bộ phận khen thưởng tổng
kết kháng chiến ở Ban Tổ chức Chính quyền sang Ban Thi đua, từ đó thành Ban
Thi đua và Khen thưởng. Ban Thi đua và Khen thưởng là cơ quan chuyên môn
thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản
riêng.
Ban Thi đua, khen thưởng tỉnh là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân
dân tỉnh, có trách nhiệm tham mưu giúp chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh và Hội
đồng Thi đua, khen thưởng tỉnh cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh; thực
hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân tỉnh và
theo quy định của pháp luật.
Ban Thi đua, khen thưởng tỉnh, thành phố thuộc Trung ương chịu sự lãnh
đạo, quản lý trực tiếp toàn diện của Uỷ ban nhân dân tỉnh, đồng thời chịu sự
hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Ban Thi đua, khen thưởng Trung
ương.
Ban Thi đua, khen thưởng tỉnh làm nhiệm vụ Thường trực Hội đồng Thi
đua, khen thưởng tỉnh; có những nhiệm vụ chủ yếu:
+ Trình Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành các quyết định, chỉ thị về công tác
Thi đua, khen thưởng thuộc phạm vi quản lý của Ban và chịu trách nhiệm về nội
dung các văn bản đã trình;
+ Trình Uỷ ban nhân dân tỉnh kế hoạch, nội dung thi đua, khen thưởng
cho từng thời kỳ và từng lĩnh vực nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của tỉnh;
+ Giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh tổ chức các phong trào thi đua và
thực hiện chính sách khen thưởng tại địa phương;
21
+ Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn tổ chức kiểm tra, đôn đốc các đơn vị
trực thuộc thực hiện công tác thi đua, khen thưởng;
+ Giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh trong công tác sơ kết, tổng kết,
phát hiện điển hình, đúc kết kinh nghiệm, nhân rộng phong trào thi đua và các
điển hình tiên tiến; kiến nghị đổi mới công tác Thi đua, khen thưởng; xem xét,
thẩm định, đề xuất các hình thức khen thưởng bảo đảm chính xác, kịp thời theo
đúng quy định của pháp luật;
+ Tổ chức bồi dưỡng về các chủ trương chính sách, nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ về thi đua, khen thưởng cho cán bộ, công chức làm công
tác thi đua, khen thưởng.
+ Kiểm tra việc thực hiện các quy định về chính sách khen thưởng; tham
gia giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác thi đua, khen thưởng.
+ Xây dựng và quản lý quỹ thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp
luật;
+ Quản lý, cấp phát hiện vật khen thưởng của địa phương theo phân cấp;
thực hiện việc tổ chức và trao tặng khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Làm thủ tục cấp đổi hiện vật khen thưởng bị hư hỏng, thất lạc và xác nhận các
hình thức khen thưởng;
- Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng hệ
thống thông tin, lưu trữ phục vụ công tác thi đua, khen thưởng;
- Ở cấp huyện, thị xã có cán bộ chuyên trách làm công tác thi đua, khen
thưởng trực thuộc văn phòng Uỷ ban nhân dân huyện.
- Ở cấp xã, phường không có cán bộ biên chế chuyên trách làm công tác
Thi đua, khen thưởng, do cán bộ văn phòng Uỷ ban nhân dân xã, phường kiêm
nhiệm.
Như vậy hệ thống cơ quan làm công tác thi đua khen thưởng từ Trung
ương đến cơ sở xã, phường được hình thành và phát triển cùng với bộ máy công
quyền nhà nước. (xem sơ đồ hệ thống)
Mặc dù qua từng giai đoạn phát triển của đất nước, tên gọi, tổ chức có
những thay đổi, nhưng đến nay, trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế của
22
t nc, ng v Nh nc ta vn quan tõm n h thng c quan, cụng chc
v cỏn b lm cụng tỏc thi ua, khen thng t Trung ng n a phng. Ch
thi 35/CT-TW ngy 03/6/1998 ca B Chớnh tr v i mi cụng tỏc thi ua,
khen thng trong giai on mi ch rừ: Kin ton v i mi t chc cỏn b
ca c quan tham mu thi ua, khen thng. Nay c th hin trong Ngh
nh 122/2005/N-CP ngy 04/10/2005 ca Chớnh ph quy nh t chc lm
cụng tỏc thi ua, khen thng.
H thng t chc b mỏy qun lý
cụng tỏc thi ua - khen thng cỏc cp
23
Chính phủ
Hội đồng thi đua - khen th
ởng trung ơng
Bộ nội vụ
ban thi đua - khen th ởng
trung ơng
Hội đồng TĐ - kt bộ, ngành,
tỉnh, thành phố
- ban TĐ - KT tỉnh, thành phố
- Phòng TĐ - KT bộ, ngành
Trung ơng
Hội đồng tđ - kt các sở,
quận, huyện, thị xã
Th ờng trực TĐ - KT các sở,
quận, huyện, thị xã
Hội đồng thi đua - khen th
ởng các xã, ph ờng
cán bộ thi đua các xã ph ờng
CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
CÔNG TÁC THI ĐUA KHEN THƯỞNG Ở ĐỊA
PHƯƠNG (TỈNH NINH BÌNH)
2.2. Tổng quan về công tác thi đua, khen thưởng trong những năm qua ở
nước ta.
2.2.1. Sự hình thành công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta.
Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, Bác Hồ, Đảng và
Nhà nước rất quan tâm đến công tác thi đua, khen thưởng. Ngày 20/01/1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Quốc lệnh ban hành 10 điều thưởng. Đây là văn
bản pháp lý đầu tiên về khen thưởng đặt nền móng để quản lý công tác khen
thưởng của nhà nước ta. Ngày 11/6/1948 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh số
195 thành lập Ban vận động thi đua ái quốc là cơ quan tham mưu giúp Chính
phủ quản lý, tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng.
Tiếp theo Hồ Chủ tịch lần lượt ký các sắc lệnh đặt ra các loại Huân, Huy
chương của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sau đó Quốc hội, Chính phủ ban
hành nhiều lệnh, nghị định với nhiều chủ trương chính sách về thi đua, khen
thưởng theo từng giai đoạn cách mạng. Từ đó đến nay, công tác thi đua, khen
thưởng được xác định là một lĩnh vực quản lý nhà nước, góp phần quan trọng
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, công tác thi đua, khen thưởng đã ra đời cùng với nhà nước và có
đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của nhà nước. Tuy nhiên, cũng như lịch
sử dân tộc, công tác thi đua, khen thưởng cùng trải qua những biến cố thăng
trầm theo từng giai đoạn của cách mạng.
2.3. Công tác thi đua, khen thưởng qua các thời kỳ.
2.3.1. Thời kỳ bảo vệ xây dựng chính quyền non trẻ.
Nhà nước ta mới ra đời, còn non trẻ đứng trước vô vàn khó khăn, trong
thế ngàn cân treo sợi tóc. Thực dân Pháp nổ súng quay lại miền Nam, 28 vạn
quân Tưởng vào miền Bắc giải giáp quân đội Nhật, theo sau là bọn tay sai Việt
24
gian phản động định lật đổ chính quyền cách mạng; lũ lụt thiên tai hoành hành,
nhân dân đói khổ, dịch bệnh, mù chữ.
Tin vào nhân dân, tin vào sức mạnh của quần chúng cần lao khi được giải
phóng khỏi ách nô lệ Đảng và nhà nước đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh có
những chính sách phát động tinh thần yêu nước, tình thương đồng bào của nhân
dân ta nên đã thu hút được đông đảo nhân dân tham gia phong trào thi đua tiết
kiệm, lá lành đùm lá rách, nhường cơm sẻ áo cho nhau để cứu những người bị
đói, Bác Hồ cũng một tuần nhịn một bữa để san sẻ cho đồng bào bị đói; tuần lễ
vàng đã huy động những người có điều kiện giúp tài chính xây dựng chính
quyền; phong trào bình dân học vụ được phát động mọi người đi học, người biết
chữ dạy người chưa biết chữ cùng nhau diệt giặc dốt. Đặc biệt với phong trào
Nam tiến đã huy động được lực lượng đáng kể vào Nam cùng đồng bào miền
Nam chống thực dân Pháp. Phong trào tăng gia sản xuất đã giúp nhân dân ta
thoát khỏi nạn đói kém.
Với sức mạnh của quần chúng nhân dân trong phong trào thi đua yêu
nước được Đảng, Nhà nước và Bác Hồ phát động, chính quyền non trẻ của ta
được giữ vững, âm mưu của Tưởng bị thất bại, giặc đói bị đẩy lùi, chuẩn bị
được lực lượng ban đầu tập trung chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp.
2.3.2. Thời kỳ kháng chiến chống pháp.
Nhiệm vụ chính trị của thời kỳ này là kháng chiến chống thực dân Pháp
giành độc lập hoàn toàn cho đất nước, tự do ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Thời kỳ này Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm đến công tác thi đua,
khen thưởng đó là:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 83/ SL: ngày 17/9/1947 thành lập
Viện Huân chương thuộc Phủ Chủ tịch với nhiệm vụ “giúp Chủ tịch nước
nghiên cứu ban hành các chế độ thể lệ khen thưởng Huân, Huy chương. Tiếp
theo sắc lệnh thành lập Viện Huân chương, ngày 11/6/1948 Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra sắc lệnh số 195 thành lập Ban vận động Thi đua ái quốc Trung ương.
25