Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận hệ thống quản lý chính trị, xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.37 KB, 28 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

TIỂU LUẬN

HỌC PHẦN: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ QUẢN LÝ XÃ HỘI

ĐỀ TÀI
Quản lý nhà nước về du lịch - thực trạng và giải pháp

Sinh viên thực hiện: Đinh Văn Hòa
Lớp: Chính trị phát triển K37B2
Đơn vị công tác: Chi cục Quản lý đường bộ I.8

Hà Nội - Năm 2020


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
CHƯƠNG I......................................................................................................5
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.....................................5
I. Du lịch, vị trí và vai trò của ngành du lịch đối với nền kinh tế quốc dân........5
1. Khái niệm về du lịch.........................................................................................5
2. Vị trí và vai trò của ngành du lịch trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập quốc tế ở nước ta.........................................................................6
II. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về du lịch..................................................7
1. Khái niệm quản lý Nhà nước và quản lý Nhà nước về du lịch..........................7
2. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về du lịch...................................................7


3. Chức năng và nội dung của quản lý Nhà nước về du lịch..................................9

CHƯƠNG II..................................................................................................12
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY..................................................................................12
I. Khái quát chung về sự ra đời Tổng cục Du lịch - cơ quan quản lý nhà nước
về du lịch................................................................................................................12
1. Sự ra đời của tổng cục du lịch.........................................................................12
2. Bộ máy quản lý của Tổng cục Du lịch.............................................................13
II. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta.........................13
1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật.....................13
2. Công tác tổ chức bộ máy quản lý du lịch và việc phối hợp các cơ quan quản lý
Nhà nước về du lịch............................................................................................14
3. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp...................................................14
4. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch và chiến lược phát triển du lịch.....................15
5. Quản lý Nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho
ngành du lịch.......................................................................................................16
6. Quản lý Nhà nước về công tác quảng bá, hợp tác quốc tế và xúc tiến du lịch. 16
III. Những vấn đề tồn tại trong công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta.
................................................................................................................................. 17
1. Về hệ thống pháp luật du lịch..........................................................................17
2. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch.......................................18
3. Về công tác quản lý và quy hoạch du lịch.......................................................19
4. Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho du lịch.................................20
5. Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch.................................................................21

CHƯƠNG III.................................................................................................22
1



MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ DU LỊCH....................................................................................22
I. Mục tiêu, phương hướng phát triển ngành du lịch và những vấn đề đặt ra
cho công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta trong giai đoạn tới...........22
1. Mục tiêu, phương hướng phát triển ngành du lịch Việt Nam...........................22
2. Những vấn đề dặt ra cho công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta trong
giai đoạn tới.........................................................................................................23
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về du lịch.....24
1. Tạo lập môi trường pháp lý cho du lịch...........................................................24
2. Hoàn thiện bộ máy tổ chức du lịch..................................................................24
3. Sắp xếp, kiện toàn hệ thống các doanh nghiệp làm du lịch.............................24
4. Tăng cường phối hợp liên ngành nhằm cải cách, tháo gỡ một số vướng mắc
trong du lịch........................................................................................................25
5. Tăng cường sự quản lý của Nhà nước trong công tác đào tạo,bồi dưỡng và phát
triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch...............................................................25
6. Tăng cường công tác quảng bá, xúc tiến du lịch, gắn thị trường du lịch Việt
Nam với thị trường quốc tế và khu vực...............................................................26
7. Khai thác và bảo vệ tài nguyên môi trường.....................................................26

KẾT LUẬN....................................................................................................27

2


MỞ ĐẦU
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế của đất nước
ta đã có những bước phát triển nhảy vọt với tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
(GDP) bình quân 7%/năm, cơ cấu ngành nghề ngày càng đa dạng, phong phú theo
hướng công nghiệp, dịch vụ. Đặc biệt trong 30 năm đổi mới vừa qua, các ngành
dịch vụ ở nước ta đã có bước phát triển đặc biệt và đóng góp đáng kể vào nền kinh

tế. Trong cơ cấu các ngành dịch vụ, ngành du lịch ngày càng có vị trí và vai trò
quan trọng, đặc biệt khi Việt Nam thực hiện quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới,
tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
Để ''Du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn'', một yêu cầu
không thể thiếu đó là vai trò quản lý Nhà nước về du lịch. Bởi lẽ, thông qua quản lý
Nhà nước về du lịch, Nhà nước sẽ định hướng cho du lịch phát triển về mọi mặt,
khai thác lợi thế tối đa với mục tiêu đem lại lợi nhuận đóng góp ngày càng nhiều
cho nền kinh tế. Cùng với sự ra đời của Tổng cục Du lịch năm 1992, hệ thống cơ
quan quản lý Nhà nước về du lịch đã được hình thành đồng bộ ở nước ta từ trung
ương đến địa phương. Hệ thống cơ quan quản lý đó đã thực hiện tốt công tác quản
lý Nhà nước trên lĩnh vực du lịch, thể hiện bằng việc tạo lập môi trường pháp lý về
du lịch, xây dựng các chương trình phát triển du lịch quy mô toàn quốc, ngành, địa
phương tổ chức thực hiện các chương trình du lịch, quản lý hệ thống doanh nghiệp
hoạt động du lịch, phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động du lịch, nâng cao
vị thế du lịch Việt Nam trên trường quốc tế...
Sự phát triển và đóng góp của công tác quản lý Nhà nước về du lịch trong việc
phát triển ngành du lịch nước ta trong thời gian vừa qua là rất quan trọng. Tuy
nhiên, trong tiến trình đổi mới, trước những biến đổi sâu sắc trong cả nước và thế
giới, ngành du lịch nước ta đang đứng trước thời cơ và thách thức to lớn trong việc
phát triển.
Để đáp ứng được những điều kiện đổi mới, công tác quản lý Nhà nước về du
lịch phải không ngừng được hoàn thiện. Đó chính là lý do để tôi chọn QLNN đối với
lĩnh vực văn hóa, cụ thể với đề tài ''Quản lý Nhà nước về du lịch - Thực trạng và
giải pháp'' làm bài tiểu luận cho môn học Hệ thống quản lý chính trị, xã hội.

3


Nội dung của tiểu luận được chia làm ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý Nhà nước và vai trò của quản lý Nhà nước

về du lịch trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta hiện
nay.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về du
lịch.
Đây là một đề tài rộng và phức tạp, hơn nữa do khả năng và thời gian có hạn
nên không tranh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý và giúp đỡ của thầy
cô giáo và các bạn để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.

4


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ DU LỊCH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA
I. Du lịch, vị trí và vai trò của ngành du lịch đối với nền kinh tế quốc dân.
1. Khái niệm về du lịch.
Ngành kinh tế du lịch được hình thành và phát triển từ khi xã hội loài người bước
vào quá trình phân công lao động lớn. Lúc đầu có thể là những hiện tượng riêng lẻ và cá
biệt, sau đó trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến và trở thành nhu cầu không thể
thiếu của con người.
Trước thực tế phát triển của du lịch, việc nghiên cứu, thảo luận để đi đến thống nhất
một số khái niệm cơ bản về du lịch, trong đó khái niệm du lịch là một đòi hỏi cần thiết.
Tuy nhiên do hoàn cảnh khác nhau, dưới góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người có một
cách hiểu về du lịch khác nhau.
Theo tiến sĩ Trần Nhạn đã viết: ''Du lịch là quá trình hoạt động của con người rời
khỏi quê hương đến một nơi khác với mục đích là được thẩm nhận những giá trị vật chất
và tinh thần đặc sắc, độc đáo và khác lạ với quê hương, không nhằm mục đích sinh lời
được tính bằng đồng tiền''.

Hiện nay, tổ chức du lịch thế giới WTO (Word Torism Organisation) đã thống nhất
khái niệm du lịch phản ánh các mối quan hệ có tính bản chất bên trong làm cơ sở cho
việc nghiên cứu các xu hướng và quy luật phát triển của nó. Theo đó ''Du lịch là tổng thể
của những hiện tượng và những mối quan hệ phát sinh do sự tác động qua lại khách du
lịch, người kinh doanh du lịch, chính quyền sở tại và cộng đồng dân cư địa phương trong
quá trình thu hút và lưu giữ khách du lịch''.
Như vậy, du lịch được coi như một quá trình mà ở đó có sự gặp nhau giữa lợi ích
tinh thần của khách du lịch và lợi ích kinh tế của người kinh doanh du lịch. Nhu cầu của
khách du lịch càng cao thì đòi hỏi của hệ thống tổ chức thực hiện, kinh doanh du lịch
càng phải hoàn thiện.

5


2. Vị trí và vai trò của ngành du lịch trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập quốc tế ở nước ta.
Hoạt động du lịch trên toàn thế giới mặc dù có giai đoạn bị ngưng trệ do chiến tranh
thế giới thứ I và thứ II, nhưng từ thập kỷ 60 trở lại đây, du lịch đã dần phát triển với tốc
độ nhanh. Sự phát triển của kinh tế thế giới đã tạo điều kiện cho nhân loại mở rộng và
tăng cường hoạt động du lịch. Du lịch đã và đang trở thành hiện tượng kinh tế xã hội phổ
biến, thành ngành kinh tế mũi nhọn của một số nước, ngành ''công nghiệp không khói''.
Hiện nay, ngành ''công nghiệp'' này chỉ đứng sau công nghiệp dầu khí và ô tô. Đối với các
nước đang phát triển thì du lịch được coi là một trong những cứu cánh để vực dậy nền
kinh tế ốm yếu của quốc gia.
Nước ta là một nước đang phát triển, nền kinh tế trong những năm gần đây đã có
nhiều bước phát triển so với thời kỳ những năm 2000 song so với một số nước trong khu
vực thì nền kinh tế của chúng ta vẫn còn thấp kém bởi nước ta phải trải qua hai cuộc
chiến tranh lớn và hậu quả mà chúng để lại là một khó khăn thách thức lớn đối với nước
ta. Khi đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã chủ trương phát triển
du lịch và coi du lịch như một ngành kinh tế thực sự.

Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp đóng vai trò quan trong trong việc thúc đẩy
nền kinh tế nước ta phát triển. Những lợi ích mà ngành du lịch nói riêng cũng như ngành
dịch vụ nói chung đem lại rất to lớn. Nhận thức được tầm quan trọng của du lịch, trong
những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến việc định hướng và
phát triển nhằm đưa du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước thể hiện
ở những chương trình phát triển du lịch, gắn phát triển du lịch với sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, gắn phát triển du lịch với bảo vệ và hoàn thiện môi trường.
Biểu hiện cụ thể của những nhính sách đó là chương trình hành động quốc gia về du lịch:
''Việt Nam - điểm đến của thiên niên kỷ mới''. Tại đại hội Đảng IX, Đảng và Nhà nước ta
đã khẳng định phát triển du lịch gắn liền với tăng cường quản lý Nhà nước, làm cho du
lịch phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, có nghĩa là làm sao cho du lịch thực sự
là cơ hội của đông đảo quần chúng nhân dân.

6


II. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về du lịch.
1. Khái niệm quản lý Nhà nước và quản lý Nhà nước về du lịch.
Kể từ khi xã hội phân chia giai cấp, Nhà nước xuất hiện thì quản lý Nhà nước cũng
xuất hiện. Nhà nước nào cũng có chức năng quản lý đất nước, đảm bảo sự an toàn quốc
gia và quản lý kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên vai trò kinh tế của Nhà nước trong mỗi giai đoạn
lịch sử không giống nhau. Vậy thế nào gọi là quản lý? Thuật ngữ quản lý có thể hiểu là
công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những người cộng sự khác cùng chung
một tổ chức. Tuy nhiên theo quan điểm chung nhất thì: Quản lý là sự tác động của chủ
thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đật được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến
động của môi trường.
Dựa trên khái niệm quản lý, ta có thể hiểu: Quản lý Nhà nước về kinh tế hay còn
gọi là quản lý hành chính kinh tế là sự tác động của Nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế
bằng quyền lực của Nhà nước thông qua các công cụ như: pháp luật, chính sách, chương
trình phát triển kinh tế, làm cho các thành phần kinh tế phát triển theo một trật tự, quỹ

đạo nhất định với mục tiêu phát triển tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước nhằm phát
triển kinh tế.
Du lịch là một ngành kinh tế tương đối mới mẻ đối với các nước đang phát triển,
đặc biệt là đối với nước ta. Tuy vậy đây là một ngành kinh doanh dịch vụ mang tính
chiến lược trong giai đoạn phát triển của đất nước. Do vậy, quản lý Nhà nước về du lịch
là hết sức cần thiết. Bởi vì quản lý Nhà nước về du lịch chính là làm cho du lịch phát
triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi tiềm năng du lịch, thu hút ngày
càng nhiều khách du lịch đóng góp vào ngân sách Nhà nước.
Quản lý Nhà nước về du lịch là quá trình tác động của Nhà nước đến du lịch thông
qua hệ thống chính sách pháp luật với mục tiêu phát triển du lịch đúng định hướng của
Nhà nước tạo nên trật tự trong hoạt động du lịch, làm cho du lịch thực sự là một ngành
kinh tế mũi nhọn. Đối tượng của quản lý đó chính là hoạt động du lịch, cơ quan tổ chức
hoạt động du lịch và cả chính các du khách.
2. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về du lịch.
2.1. Đối với nền kinh tế thị trường ở nước ta.

7


Thực tế chỉ ra rằng, mọi nền kinh tế đều cần có sự quản lý của Nhà nước. Song do
tính đa dạng của thực tiễn ở các nước là khác nhau, do đó, việc quản lý Nhà nước ở mỗi
nền kinh tế, mỗi quốc gia là không giống nhau. Thực tế cho thấy, nền kinh tế muốn phát
triển nhanh đòi hỏi đất nước phải có cơ sở hạ tầng (phục vụ sản xuất và đời sống) hiện
đại, lĩch vực mà ngoài Nhà nước ra không ai đảm nhiệm được. Cho nên người ta ngày
càng ý thức rõ kinh tế phát triển ngày càng cao, xã hội hoá sản xuất ngày càng mở rộng,
thị trường ngày càng phát triển, càng cần có sự quản lý của Nhà nước về kinh tế.
Ở nước ta, trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
Bên cạnh lập trường của chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Một yêu cầu
đặt ra là chúng ta phải biết tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Đặc biệt là

những tư tưởng, học thuyết về kinh tế thị trường, một vấn đề hết sức mới mẻ ở nước ta.
Do xu hướng hội nhập nền kinh tế của nước ta vào nền kinh tế thế giới, mở rộng
hợp tác, giao lưu quốc tế. Cho nên Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc ổn định môi
trường chính trị, xã hội, tạo cơ hội tốt cho nền kinh tế phát triển, thu hút đầu tư nước
ngoài. Mặt khác, do định hướng phát triển kinh tế nước ta là phát triển kinh tế thị trường
có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, cho nên sự quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế là tất
yếu khách quan. Chỉ có Nhà nước mới có đủ sức mạnh và cơ sở vật chất để thực hiện
chức năng quản lý nền kinh tế.
2.2. Đối với ngành du lịch.
Ngành kinh doanh du lịch giống như một cơ thể sống và luôn đòi hỏi sự quản lý
sáng tạo để duy trì và phát triển. Việc thành công hay thất bại của ngành du lịch cũng như
nhu cầu nền kinh tế của một nước phụ thuộc hoàn toàn vào việc xây dựng một cách sáng
tạo những chính sách thích hợp với điều kiện và trình độ phát triển của một đất nước. Do
vậy, vấn đề quản lý Nhà nước đối với du lịch là một vấn đề cần thiết được đặt lên hàng
đầu. Hơn nữa, du lịch mới trong giai đoạn đầu phát triển, còn gặp nhiều khó khăn và
thách thức lớn do vậy cần có sự tham gia chỉ đạo và định hướng của Nhà nước để du lịch
phát triển. Vì vậy, quản lý du lịch trong nền kinh tế thị trường của Nhà nước là cần thiết
và khách quan:

8


- Một mặt do những khuyết tật và hạn chế của cơ chế thị trường gây nên, mặt khác,
do Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thể hiện ở việc định hướng phát triển
kinh tế xã hội nói chung cũng như ngành kinh tế du lịch nói riêng trong từng thời kỳ.
- Để giải quyết các mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường, duy trì sự ổn định cũng
như thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Tạo ra sự thống nhất trong tổ chức và phối hợp các hoạt động của cơ quan quản lý
Nhà nước về du lịch. Đồng thời giúp cho việc khai thác các thế mạnh của từng vùng,
từng địa phương đạt kết quả. Hơn nữa, phát huy lợi thế so sánh của quốc gia trong phát

triển du lịch quốc tế.
- Du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta. Nó liên quan đến nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực khác nhau do vậy cần có sự quản lý của Nhà nước để điều hoà mối quan
hệ giữa du lịch với các ngành, các lĩnh vực liên quan.
Tóm lại, khi nền kinh tế của đất nước cần đến sự quản lý của Nhà nước thì công tác
quản lý đối với một ngành trong nền kinh tế là tất yếu khách quan.
3. Chức năng và nội dung của quản lý Nhà nước về du lịch.
3.1. Chức năng quản lý.
a) Chức năng hoạch định.
- Nhà nước thực hiện chức năng hoạch định để định hướng hoạt động du lịch, xác
lập các chương trình, các dự án, cụ thể hoá các chiến lược, đặc biệt là các lộ trình hội
nhập khu vực và quốc tế.
- Thiết lập khuôn khổ pháp lý thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn
bản quy phạm pháp luật về du lịch, tạo ra môi trường pháp lý cho hoạt động du lịch.
- Chức năng hoạch định giúp cho các doanh nghiệp du lịch có phương hướng hình
thành các phương án chiến lược, kế hoạch kinh doanh. Nó vừa giúp tạo lập môi trường
kinh doanh vừa cho phép Nhà nước có thể kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp và
các chủ kinh doanh du lịch trên thị trường.
b) Chức năng tổ chức và phối hợp.

9


- Nhà nước bằng việc tạo lập các cơ quan và hệ thống tổ chức quản lý về du lịch, sử
dụng bộ máy này để hoạch đinh các chiến lược, quy hoạch, các chính sách, các văn bản
quy phạm pháp luật... đồng thời thực hiện những vấn đề thuộc về quản lý Nhà nước nhằm
đưa chính sách phù hợp về du lịch và thực tiễn, biến quy hoạch, kế hoạch thành hiện
thực, tạo điều kiện cho du lịch phát triển.
- Hình thành cơ chế phối hợp hữu hiệu giữa cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch
với các cấp trong hệ thống quản lý du lịch của trung ương, tỉnh (thành phố), quận (huyện,

thị xã).
- Trong lĩnh vực du lịch quốc tế, chức năng này được thể hiện ở sự phối hợp giữa
các quốc gia có quan hệ song phương hoặc trong cùng một khối kinh tế, thương mại du
lịch trong nỗ lực nhằm đa dạng hoá đa phương thức quan hệ hợp tác quốc tế trong du lịch
đạt tới các mục tiêu và đảm bảo thực hiện các cam kết đã ký.
- Tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực du
lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục của dân tộc trong hoạt động du lịch.
c) Chức năng điều tiết các hoạt động du lịch và can thiệp thị trường.
- Nhà nước hướng dẫn, kích thích các doanh nghiệp du lịch hoạt động theo định
hướng đã vạch ra. Can thiệp, điều tiết thị trường khi cần thiết đảm bảo ổn định kinh tế vĩ
mô.
- Nhà nước sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau để điều tiết, can thiệp thị
trường và hoạt động kinh doanh du lịch, xử lý đúng đắn các quan hệ trao đổi.
- Nhà nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp về thông tin, tài chính, kết cấu hạ tầng của
thị trường và bảo vệ kinh tế Nhà nước đúng pháp luật nhằm chống thất thoát, đảm bảo
sinh lợi và tăng thu cho nhân sách Nhà nước.
d) Chức năng kiểm soát.
- Giám sát hoạt động của mọi chủ thể kinh doanh du lịch cũng như chế độ quản lý
của các chủ thể đó. Cấp và thu hồi giấy phép, giấy hoạt động trong hoạt động du lịch.
- Phát hiện những lệch lạc, nguy cơ chệch hướng hoặc vi phạp pháp luật và những
quy định của Nhà nước.

10


- Kiểm tra đánh giá sức mạnh của hệ thống tổ chức quản lý du lịch của Nhà nước
cũng như năng lực của đội ngũ cán bộ công chức quản lý Nhà nước về du lịch.
- Tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực du
lịch, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường,

giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
3.1. Nội dung quản lý Nhà nước về du lịch
Luật Du lịch 2017 có quy định nội dung quản lý Nhà nước về du lịch như sau:
- Ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về du lịch.
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát
triển du lịch.
- Quy định về tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch, về việc phối hợp của
các cơ quan Nhà nước trong việc quản lý Nhà nước về du lịch.
- Tổ chức và quản lý công tác xúc tiến và hợp tác quốc tế về du lịch.
- Cấp, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận.
- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo...
Thực tế đã chỉ rõ, hoạt động du lịch trong cơ chế thị trường cũng như trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hôị chủ nghĩa ở nước ta hiện nay rất cần đến sự điều
hành, quản lý của Nhà nước. Đặc biệt trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá của hoạt
động du lịch, việc hợp tác, liên kết luôn đi liền với cạnh tranh đòi hỏi mỗi nước phải có
chiến lược phát triển tổng thể du lịch. Xuất phát từ điều kiện của mình, mỗi nước phải
vừa biết phát huy đặc thù, huy động nội lực để tăng khả năng hấp dẫn khách du lịch, vừa
phù hợp với thông lệ quốc tế, tranh thủ được điều kiện bên ngoài để có điều kiện hội
nhập. Đây là vấn đề thuộc quyền Nhà nước và cũng là trách nhiệm của Nhà nước trong
phát triển du lịch.

11


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
I. Khái quát chung về sự ra đời Tổng cục Du lịch - cơ quan quản lý nhà nước
về du lịch.
1. Sự ra đời của tổng cục du lịch

Tính đến nay ngành du lịch Việt Nam đã có hơn 60 năm hình thành và phát triển.
Nghị định 26/CP ngày 09/07/1960 của Hội đồng chính phủ, Công ty du lịch Việt Nam đầu
tiên được thành lập là mốc đánh dấu sự ra đời của ngành du lịch Việt Nam. Là một công ty
trực thuộc Bộ Ngoại thương nhưng nhiệm vụ của công ty du lịch đầu tiên là phục vụ cho
các đoàn khách của Đảng và Chính phủ. Tổ chức du lịch đầu tiên của Việt Nam ra đời với
cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu, đội ngũ công nhân viên ít ỏi về số lượng, non
kém về nghiệp vụ nên gặp nhiều khó khăn trong công tác phục vụ và đón tiếp khách.
Nhưng với trách nhiệm và lòng nhiệt tình, với tính cần cù vốn có của 112 cán bộ nhân
viên đầu tiên của ngành du lịch Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ được giao. Về ý nghĩa,
tổ chức này đã đặt nền móng cho sự hình thành một ngành kinh tế mới mẻ ở nước ta.
Do lượng khách ngày một tăng và nhu cầu tham quan, du lịch ra nước ngoài xuất
hiện đòi hỏi ngành du lịch phải không ngừng đầu tư về mọi mặt nhằm giảm bớt nhứng
khó khăn về tài chính. Trước sự phát triển không ngừng về mọi mặt của ngành du lịch,
một đòi hỏi thực tiễn là phải có một cơ quan có đủ thẩm quyền và chức năng quản lý du
lịch. Với sự đầu tư lớn mạnh về cơ sở vật chất, quyền hạn, chức năng quản lý mở rộng,
giai đoạn này Tổng cục du lịch Việt Nam trực tiếp quản lý trên 30 công ty du lịch trong
cả nước cùng với hàng trăm khách sạn, nhà hàng, biệt thự, hàng ngàn phương tiện, hàng
vạn cán bộ công nhân viên có trình độ và kinh nghiệm để phục vụ khách du lịch trong và
ngoài nước. Tình hình hoạt động kinh doanh du lịch ngày một phong phú đa dạng và là
một lĩnh vực không thể thiếu được trong ngành du lịch.
Do trực thuộc một bộ, không mang tính kinh tế, chưa được sự chỉ đạo phù hợp về
mặt chuyên môn và đặc biệt còn non về mặt hoạt động kinh doanh, nhiều công ty lâm vào
tình trạng thua lỗ, vi phạm quy chế, pháp luật, gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế

12


nước nhà. Bên cạnh đó còn phải kể đến công tác quản lý chưa sát với thực tế, chuyên
môn do trình độ thấp kém nên sản phẩm du lịch khá đơn điệu, chất lượng thấp. Bản chất
của du lịch không chỉ là một ngành kinh tế nên công tác tổ chức, quản lý còn một số

vướng mắc nhất định, hiệu quả của hoạt động du lịch chưa đồng bộ.
2. Bộ máy quản lý của Tổng cục Du lịch.
Xuất phát từ mục tiêu, phương hướng phát triển của mỗi quốc gia, từ chức năng
nhiệm vụ của ngành du lịch mà mỗi quốc gia thiết lập một hệ thống cơ quan quản lý Nhà
nước tương ứng nhằm đảm bảo hiệu lực quản lý và sự linh hoạt. Các nước trên thế giới
và trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương lựa chọn những mô hình tổ chức hệ thống cơ
quan quản lý Nhà nước khác nhau.
Ở nước ta, bộ máy quản lý hành chính Nhà nước về du lịch cấp Trung ương hiện
nay ở nước ta là Tổng cục Du lịch.
Theo Quyết định số 17/2018/QĐ-TTg ngày 30/3/2018 của Thủ tướng Chính phủ, Vị
trí, chức năng và cơ cấu tổ chức của Tổng cục du lịch như sau:
- Tổng cục Du lịch là tổ chức trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện
chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý Nhà nước
và tổ chức thực thi pháp luật về du lịch trên phạm vi cả nước, quản lý các dịch vụ công về
du lịch theo quy định của pháp luật.
- Tổng cục Du lịch có 07 tổ chức giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch thực hiện
chức năng quản lý nhà nước (06 vụ chuyên môn và văn phòng Tổng cục) và 03 đơn vị sự
nghiệp thuộc Tổng cục Du lịch.
- Tổng cục Du lịch có Tổng cục trưởng và không quá 04 Phó Tổng cục trưởng.
Tổng cục trưởng và các Phó Tổng cục trưởng do Bộ trưởng Bộ Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm.
II. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta.
1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật.
Để quản lý được các hoạt động kinh tế xã hội của đất nước, Nhà nước phải sử dụng
các công cụ quản lý. Một trong những công cụ hữu hiện nhất của Nhà nước là ban hành
pháp luật vì pháp luật tạo ra môi trường pháp lý để điều chính các hoạt động quản lý,

13



hoạt động kinh doanh du lịch, ghi nhận quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong việc kinh doanh và phát triển du lịch. Với công cụ pháp lý, Nhà nước
sẽ điều chỉnh vĩ mô hoạt động du lịch. Pháp luật cũng là kênh quan trọng để đưa những
chủ trương chính sách của Đảng và phát triển du lịch ở nước ta vào cuộc sống.
Các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực du lịch đã bao quát được những vấn đề
cấp bách và thời sự của hoạt động kinh doanh du lịch. Về quan hệ quốc tế, Những văn
bản quy phạm pháp luật về du lịch cũng đã tạo ra sự tin tưởng yên tâm của bạn bè quốc tế
đến với Việt Nam tham gia hợp tác vào lĩnh vực kinh tế, du lịch.
Nhìn chung các công tác ban hành và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật du
lịch trong thời gian qua là hợp lý, cần thiết và đạt được kết quả to lớn, thể hiện ở lượt
khách, cơ sở vật chất, đội ngũ lao động... đều có bước phát triển nhanh chóng và đáng ghi
nhận. Tuy nhiên bên cạnh đó còn bộc lộ những hạn chế cần được giải quyết.
2. Công tác tổ chức bộ máy quản lý du lịch và việc phối hợp các cơ quan quản
lý Nhà nước về du lịch.
Du lịch được coi là một ngành kinh tế tổng hợp, có liên quan đến nhiều ngành kinh
tế. Do đó công tác quản lý du lịch là phải làm sao phối hợp được với các ngành, các cấp
liên quan đến ngành du lịch nhằm đưa du lịch pháp triển cùng với sự phát triển của nền
kinh tế. Bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch từ Trung ương đến địa phương đang dần
được hoàn thiện và phát huy chức năng quản lý Nhà nước về du lịch.
Tổng cục Du lịch - cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch được thành lập đã góp
phần vào công tác chỉ đạo, phối hợp thực hiện kế hoạch quy hoạch, phát triển du lịch. Từ
khi thành lập đến nay, Tổng cục Du lịch đã từng bước tăng cường hiệu lực quản lý của
mình đối với hoạt động du lịch: rà soát, cấp giấy phép kinh doanh, đặc biệt là lĩnh vực
kinh doanh lữ hành quốc tế.
3. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp.
''Doanh nghiệp du lịch là tổ chức kinh doanh một hoặc một số dịch vụ du lịch có tư
cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập và hoạt động theo pháp luật, Luật Doanh
nghiệp''.

14



Trong hệ thống doanh nghiệp du lịch, bên cạnh phân loại doanh nghiệp theo hình
thức sở hữu, theo quy mô... như các ngành kinh tế khác thì theo các bộ phân cấu thành
trong hệ thống kinh doanh du lịch, hệ thống các doanh nghiệp du lịch được phân thành:
doanh nghiệp lữ hành, doanh nghiệp khách sạn, doanh nghiệp vận chuyển khách du lịch...
và cũng theo các quan niệm về doanh nghiệp nêu trên, đồng thời dựa trên cơ sở pháp luật
về du lịch Việt Nam hiện hành, các loại doanh nghiệp đó có thể được hiểu:
- Doanh nghiệp lữ hành: làm nhiệm vụ giao dịch ký kết với các tổ chức kinh doanh
du lịch trong và ngoài nước để xây dựng và thực hiện các chương trình du lịch bán cho
khách du lịch.
- Doanh nghiệp khách sạn: làm nhiệm vụ tổ chức, đón tiếp, phục vụ việc lưu trú, ăn
uống, vui chơi giải trí, bán hàng cho khách du lịch.
- Doanh nghiệp vận chuyển khách du lịch: được thành lập nhằm mục đích sinh lời
bằng việc kinh doanh dịch vụ, vận chuyển thông qua các phương tiện vận chuyển, phục
vụ các chương trình du lịch của khách.
Ngoài các loại hình doanh nghiệp trên, trong hệ thống các doang nghiệp du lịch còn
có các loại hình doanh nghiệp du lịch khác cung ứng các dịch vụ như: tuyên truyền,
quảng cáo du lịch; tư vấn, đầu tư du lịch; cung ứng các hoạt động giải trí.
Các công tác quản lý Nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp du lịch chủ yếu
tập trung vào việc ban hành các văn bản quản lý, quy chế, quy định, tạo môi trường pháp
lý thông thoáng cho các doanh nghiệp du lịch hoạt động; kiểm tra việc kinh doanh, hoạt
động của các doanh nghiệp; cấp, đình chỉ, thu hồi giấy phép kinh doanh du lịch.
4. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch và chiến lược phát triển du lịch.
Ngày 22/01/2013, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 201/QĐ-TTg phê
duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030”.
Có thể nói trong những năm qua việc thực hiện quản lý Nhà nước đối với công tác
quy hoạch, kế hoạch của ngành du lịch đã được triển khai mạnh mẽ và có kết quả. Những
nội dung và kết quả nghiên cứu, quy hoạch của ngành đã đóng góp tích cực vào việc xây

dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta và mỗi địa phương. Mặt khác,

15


quy hoạch du lịch cũng có cơ sở giúp cho ngành trong công tác chỉ đạo, quản lý, xây
dựng các kế hoạch phát triển du lịch của cả nước, đồng thời phối hợp với các bộ, ngành,
địa phương trong việc quản lý thực hiện quy hoạch tạo điều kiện cho du lịch phát triển.
5. Quản lý Nhà nước đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho
ngành du lịch.
Do tình hình phát triển nhanh của các doanh nghiệp trong ngành du lịch đã thu hút
được một lực lượng lao động trực tiếp khá lớn. Tuy nhiên chất lượng chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển của ngành. Mới có khoảng 7% đạt trình độ đại học và trên đại học,
50% được đào tạo qua các trường dạy nghề còn lại chưa qua đào tạo. Chất lượng của lực
lượng lao động có ảnh hưởng lớn đến chất lượng của sản phẩm du lịch. Vì vậy sự quản lý
của Nhà nước đối với việc đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực cho ngành du
lịch là rất cần thiết.
Trên cả nước đã có nhiều trường và trung tâm dạy nghề du lịch và khách sạn, nhiều
trường đại học có khoa, tổ hoặc bộ môn chuyên ngành du lịch. Các cơ sở này hàng năm
cung cấp khoảng >8.000 công nhân kỹ thuật và hàng trăm cử nhân.
Công tác thu hút các chuyên gia hoặc các tổ chức đào tạo nguồn nhân lực về du lịch
từ nước ngoài được chú ý hơn. Các trường đào tạo du lịch của các quốc gia như: Cộng
hoà liên bang Đức, Cộng hoà Pháp, Austraylia... cùng với các tổ chức du lịch thế giới và
khu vực như: WTO, ASIA, PATA... đều muốn hợp tác giúp đỡ ngành du lịch nước ta
trong công tác đào tạo nguồn nhân lực.
Nhìn chung công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho ngành du lịch trong
những năm qua đã dần được hoàn thiện cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu
phát triển về du lịch. Trong những năm tới, công tác này cần tiếp tục phát huy để ngày
càng theo kịp với trình độ khu vực và thế giới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.

6. Quản lý Nhà nước về công tác quảng bá, hợp tác quốc tế và xúc tiến du lịch.
Đối với các ngành sản xuất và du lịch thì vấn đề quảng bá, hợp tác quốc tế và xúc
tiến thương mại chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình tạo một sản phẩm có chỗ
đứng trên thị trường. Ở nước ta, du lịch đang trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, vì

16


vậy công tác tuyên truyền, quảng bá, hợp tác quốc tế và xúc tiến du lịch ngày càng được
quan tâm. Tổng cục Du lịch đã tham gia nhiều hội thảo, hội nghị, diễn đàn quốc tế và
phối hợp với các tổ chức quốc tế tại Việt Nam với mục tiêu quảng bá, thúc đẩy quan hệ
quốc tế, giới thiệu hình ảnh Việt Nam với thế giới. Các chương trình du lịch, sản phẩm du
lịch của Việt Nam giới thiệu trên thị trường thế giới thông qua các hội chợ du lịch quốc
tế.
Hợp tác đa phương được đẩy mạnh và chủ động hơn những năm trước, du lịch Việt
Nam xuất hiện trong các diễn đàn, các sự kiện quốc tế với một vị thế mới, cao hơn.
Các hoạt động trên đã nâng cao vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch,
phát huy tác dụng xúc tiến, quảng bá cho du lịch Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
III. Những vấn đề tồn tại trong công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta.
1. Về hệ thống pháp luật du lịch.
Luật du lịch ngày 19/6/2017 là một văn bản pháp luật mang tính pháp lý cao nhất
trong lĩnh vực du lịch nhưng việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành dưới luật vẫn
còn chậm chạp. Do đó đã gây ra những hạn chế nhất định trong công tác quản lý Nhà
nước về du lịch và bản thân hoạt động của các doanh nghiệp du lịch.
Các văn bản hiện nay mới chỉ là các văn bản pháp quy dưới luật nên tính ổn định
pháp lý của các văn bản này không cao mà du lịch lại là lĩnh vực rất rộng, có liên quan
đến nhiều ngành và lĩnh vực khác. Hơn nữa công tác tuyên truyền, hướng hẫn thực thi
còn hạn chế, chưa nhanh nhạy với những biến động của nền kinh tế thị trường.
Việc ban hành Nghị định, Nghị quyết, Chỉ thị, văn bản hướng dẫn trong thời gian
qua là phù hợp tuy nhiên việc triển khai thực hiện chưa được tốt ở doanh nghiệp, nguyên

nhân là do:
- Việc nhận thức của các doanh nghiệp về văn bản pháp luật chưa đúng đắn.
- Việc ban hành các văn bản pháp luật đôi khi chưa hợp lý, còn chồng chéo giữa các
ngành hoặc chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành hữu quan trong việc ban hành
pháp luật.

17


- Các văn bản pháp luật ban hành mới chỉ nhằm giải quyết kịp thời từng vấn đề nảy
sinh trong hoạt động du lịch vì vậy các văn bản chưa có hệ thống trong một khung pháp
lý gắn bó chặt chẽ với nhau.
Môi trường pháp lý là hết sức quan trọng đối với mọi lĩnh vực kinh doanh đặc biệt
trong lĩnh vực kinh doanh du lịch. Do vậy để xây dựng một môi trường pháp lý phù hợp
thì trước tiên hệ thống pháp luật du lịch phải được nhất quán, đồng bộ và phù hợp với
điều kiện của đất nước. Đó là cơ sở pháp lý để xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan
chức năng, tổ chức doanh nghiệp và các cá nhân trong hoạt động và phát triển du lịch ở
nước ta.
2. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch.
Mặc dù công tác quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch (chủ yếu là
doanh nghiệp khách sạn, doanh nghiệp lữ hành và vận chuyển khách du lịch) đã có nhiều
cố gắng song vẫn còn một số hạn chế sau:
- Các văn bản quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh khách sạn chưa
phát huy hết hiệu lực trong thực tế. Nguyên nhân do các bộ các ngành không quan tâm
đúng mức và không có sự chỉ đạo kiên quyết của Chính phủ.
- Chức năng quản lý Nhà nước về khách sạn còn chồng chéo, ảnh hưởng đến hoạt
động king doanh của khách sạn do cung vượt quá cầu.
- Đối với các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành thì sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong nước ngày càng gay gắt, thiếu lành mạnh, môi trường kinh doanh lộn xộn.
Điều này tạo điều kiện cho các hãng lữ hành nước ngoài lợi dụng ép giá cũng như can

thiệp sâu hơn vào hoạt động kinh doanh của Việt Nam.
- Tình trạng kinh doanh lữ hành trái phép, nép bóng, bán chức năng đang diễn ra
ngày càng phức tạp. Một số doanh nghiệp lữ hành quốc tế tự ý hình thành nhiều trung
tâm du lịch mà không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Chúng ta buông
lỏng để các trung tâm này hoạt động trái pháp luật, gây phá giá, trốn thuế, làm xáo trộn
thị trường du lịch, ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp làm ăn
nghiêm túc.

18


Nhiều doanh nghiệp lữ hành trong nước còn thụ động, không chủ động vươn ra thị
trường nước ngoài để tiếp cận mở rộng thị trường và tìm kiếm nguồn khách hoạt động,
đối tác vì vậy hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp này còn thấp.
Nguyên nhân là do công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan quản lý
Nhà nước về du lịch nói chung và về lữ hành nói riêng còn bị buông lỏng. Việc xử lý
không nghiêm túc các vi phạm cũng đã tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp kinh
doanh trái phép, coi thường pháp luật kỷ cương; việc áp dụng luật thuế VAT còn nhiều
bất cập, một số thuế suất dịch vụ chưa phù hợp, gây trở ngại cho các hoạt động doanh
nghiệp. Chính sách thuế, chính sách ưu đãi về vốn và đầu tư đổi mới ngành du lịch còn ít
được quan tâm. Chính sách tiền lương còn bất cập chưa khuyến khích được các doanh
nghiệp tích luỹ vốn, đổi mới phương tiện và công nghệ, nâng cao đời sống cán bộ công
nhân viên.
3. Về công tác quản lý và quy hoạch du lịch.
Có thể nói công tác quản lý và quy hoạch du lịch ở nước ta đã đạt được những kết
quả nhất định nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế. Năm 2013, Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030'', song nhiều khu tài nguyên du lịch được xác định để xây dựng các
điểm du lịch đã bị khai thác, chen lấn hoặc xây dựng cho những mục đích khác nhau.
Trong những năm qua, việc phát triển du lịch thiếu quy hoạch, kế hoạch đã dẫn đến

việc xây dựng hàng loạt các cơ sở lưu trú, các khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ một cách
nhanh chóng, ồ ạt. Nhiều nhà nghỉ, nhiều khách sạn thiếu thẩm mỹ kiến trúc, không tuân
theo các quy định về cấu tạo địa chất, về độ cao, cấu trúc không gian mở, gây ảnh hưởng
cho cảnh quan, mất đi vẻ tự nhiên cho phong cảnh khu, điểm du lịch.
Ngoài ra tại các điểm khu du lịch, nạn hàng rong, chèo kéo khách, cướp giật, ăn xin,
mất vệ sinh... vẫn tồn tại bất chấp các cơ quan quản lý. Nguyên nhân là do các cơ quan
này còn buông lỏng công tác quản lý cũng như việc xử phạt hành chính nên các vấn đề
này vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Những tình trạng trên do một số nguyên nhân sau:

19


- Việc phối hợp giưa UBND các tỉnh, thành phố với Tổng cục Du lịch còn chưa
thống nhất.
- Việc đầu tư vốn để thực hiện quy hoạch còn chưa hợp lý.
- Thiếu vốn đầu tư, thủ tục hành chính phức tạp, rắc rối, cản trở không nhỏ đối với
nguồn đầu tư nước ngoài, khả năng huy động vốn trong nước thấp.
- Nguồn nhân lực phục vụ trong các khu vui chơi giải trí đang rơi vào tình trạng dư
người. Kinh nghiệm tổ chức, quản lý khai thác ở các khu vui chơi giải trí còn yếu.
- Việc quản lý các khu, điểm du lịch còn chồng chéo giữa UBND các địa phương
với Tổng cục Du lịch.
- Theo kết luận của Tổng cục Du lịch: du khách nước ngoài đến ta không có gì để
mua. Từng địa phương, từng điểm du lịch đáng lẽ phải có những vật kỷ niệm mang đặc
điểm, sắc thái của riêng mình nhưng lại toàn những thứ y như nhau và có thể mua ở Hà
Nội.
Những tình trạng trên cần được khắc phục để đẩy mạnh công tác quản lý Nhà nước
về du lịch.
4. Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho du lịch.
Đội ngũ cán bộ của ngành tuy có sự trưởng thành về số lượng và chất lượng, nhưng

cơ cấu thiếu hợp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Người làm việc trong ngành
vẫn còn hạn chế nhiều về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch chưa phát triển đồng bộ, thiếu
thống nhất và thiếu sự phối hợp giữa các cơ sở đào tạo. Do đó, chất lượng đào tạo không
đều, ảnh hưởng đến việc thực thi nghiệp vụ du lịch.
Chưa có sự phối hợp giữa các cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp du lịch trong việc
tổ chức cho các sinh viên trong ngành du lịch được tham gia làm một hoặc một số công
việc cụ thể tại các cơ sở mà họ thực tập. Mà đối với sinh viên việc kết hợp lý thuyết vơí
thực hành là vô cùng quan trọng vì kỹ năng của sinh viên sau khi ra trường kém, doanh
nghiệp du lịch phải mất tiền của, thời gian để đào tạo lại gây lãng phí.

20


Vấn đề tồn tại lớn nhất của du lịch nước ta về công tác đào tạo đội ngũ trong ngành
là chưa tiến hành đánh giá, phân loại chất lượng đội ngũ lao động doanh nghiệp vì vậy
chưa xây dựng được chiến lược phát triển nguồn nhân lực lâu dài.
5. Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch.
Công tác quảng bá, tiếp thị cho du lịch là một công việc quan trọng hàng đầu nhằm
tăng cường thu hút khách du lịch. Nhưng cho đến nay, ngành du lịch nước ta vẫn chưa
xây dựng được kế hoạch và chiến lược thực thi cho công tác tiếp thị toàn ngành.
Việc nghiên cứu thị trường vẫn chưa tập trung, còn mang tính chất tự phát ở một số
doanh nghiệp chứ chưa mang tầm quốc gia. Vì thế du lịch Việt Nam chưa nắm được xu
thế vận động của từng loại thị trường để so sánh nhằm đầu tư, khai thác cho từng loại thị
trường cụ thể.

21


CHƯƠNG III

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
DU LỊCH.
I. Mục tiêu, phương hướng phát triển ngành du lịch và những vấn đề đặt ra
cho công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta trong giai đoạn tới.
1. Mục tiêu, phương hướng phát triển ngành du lịch Việt Nam.
Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống kinh tế xã hội và trở
nên phổ biến ở nhiều quốc gia, có nước coi du lịch như một nguồn thu chủ yếu, điều
chỉnh cán cân thanh toán quốc tế, lại có những nước coi du lịch như một ngành kinh tế
mũi nhọn, có sức hút nhiều ngành. Ở nước ta trong suốt 75 năm hình thành và phát triển,
đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, ngành du lịch nước ta đã có những bước
phát triển vượt bậc, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về du lịch với các nước trong khu
vực, trở thành ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, du lịch Việt Nam con có những
hạn chế, chưa phát huy đầy đủ những tiềm năng và lợi thế của mình.
Để phát triển du lịch trong tình hình mới để du lịch Việt Nam thực sự phát huy vai
trò ngành kinh tế mũi nhọn, đảm bảo sự phát triển bền vững trong bối cảnh còn nhiều khó
khăn và cạnh tranh gay gắt, từng bước đưa nước ta thành trung tâm du lịch, thương mại,
du lịch có tầm cỡ trong khu vực và trên thế giới. Để đạt được điều đó, du lịch Việt Nam
cần có một chiến lược phát triển lâu dài, phù hợp. Chiến lược này phải dựa trên cơ sở bài
học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn phát triển du lịch thế giới nói chung và phát triển du
lịch Việt Nam nói riêng.
Cùng với việc đưa ra các mục tiêu phát triển chiến lược, những định hướng cơ bản
về phát triển thị trường, xúc tiến du lịch, tuyên truyền, quảng bá du lịch; về phát triển du
lịch; về đầu tư du lịch; về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu ứng dụng
khoa học công nghệ; bảo vệ, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch; về hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực du lịch... đã được xác định. Những định hướng chiến lược này nhằm
hướng tới việc tạo ra những hình ảnh mới về du lịch Việt Nam trong khu vực và thế giới
với các sản phẩm du lịch sinh thái và văn hoá lịch sử mang đậm bản sắc dân tộc, có sức

22



cạnh tranh trên cơ sở khai thác có hiệu quả những tiềm năng về lợi thế du lịch trên phạm
vi cả nước nói chung và ở từng vùng du lịch nói riêng, đảm bảo sự phát triển lâu dài và
bền vững, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hội
nhập quốc tế.
2. Những vấn đề dặt ra cho công tác quản lý Nhà nước về du lịch ở nước ta
trong giai đoạn tới.
Tự do hoá thương mại hợp tác và cạnh tranh kinh tế toàn cầu là một xu thế tất yếu
khách quan. Nước ta nói chung và ngành du lịch Việt nam nói riêng đang phát triển theo
xu hướng đó và chấp nhận nó như một thực tế.
Để nhanh chóng thu hẹp những bất lợi trong cạnh tranh Du lịch và khẳng định vị
thế của sản phẩm Du lịch trên thị trường Du lịch quốc tế thì công tác quản lý Nhà nước
về du lịch trong thời gian tới đã được xác định dựa trên những quan điểm phát triển
ngành du lịch trong Chỉ thị 46-CT/TW khoá IX của ban Bí thư Trung ương Đảng:
- Phát triển bền vững kinh tế
- Phát triển bền vững về sinh thái
- Phát triển bền vững văn hoá
- Phát triển bền vững an ninh quốc gia
Để thực hiện tốt các mục tiêu này, ngành du lịch cần thực hiện những vấn đề sau:
+ Tuyên truyền giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân có trách nhiệm tham gia tích
cực vào công tác giữ gìn vệ sinh môi trường ở những nơi công cộng, tham gia bảo vệ giữ
gìn an ninh, trật tự trị an, đảm bảo tốt tính mạng, và tài sản của khách du lịch, có thái độ
đúng mực, lịch thiệp và mến khách.
+ Ưu tiên đầu tư nâng cấp và nâng cao chất lượng đối với hệ thống cơ sở hạ tầng xã
hội, phát triển các dịch vụ công.
+ Cải cách nhanh chóng thủ tục hành chính theo hướng cải thiện nhanh, thuận lợi,
hoà nhập quốc tế.

23



II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về du lịch.
1. Tạo lập môi trường pháp lý cho du lịch.
Ngày nay, du lịch đã trở thành một nhu cầu cần thiết và là tiêu chuẩn để đánh giá
chất lượng cuộc sống. Hơn nữa, hoạt động du lịch có liên quan đến nhiều ngành, nhiều
lĩnh vực, vì vậy một môi trường kinh doanh thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho du lịch phát
triển. Luật du lịch sẽ tạo môi trường pháp lý định hướng cho các doanh nghiệp du lịch
phát triển, ngăn chặn các tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường nói chung và ngành
kinh tế dịch vụ nói riêng đến đời sống kinh tế xã hội và môi trường của đất nước. Với sự
ra đời của Luật Du lịch 2017, đây sẽ là động lực để du lịch Việt Nam phát triển.
2. Hoàn thiện bộ máy tổ chức du lịch.
Việc kiện toàn bộ máy Tổng cục Du lịch năm 2018 đã cho thấy tầm quan trọng của
ngành du lịch. Từ đây ngành du lịch sẽ có các định hướng, chiến lược và quy hoạch được
thống nhất, xuyên suốt. Đồng thời các hệ thống văn bản chỉ đạo có phần nhanh và thuận
tiện hơn
3. Sắp xếp, kiện toàn hệ thống các doanh nghiệp làm du lịch
Đây là việc làm cần thiết tạo điều kiện cho việc quản lý các doanh nghiệp du lịch
đạt hiệu quả. Việc sắp xếp kiện toàn hệ thống các doanh nghiệp du lịch nên theo một số
hướng sau:
- Củng cố và phát triển các doanh nghiệp du lịch có chuyên môn hoá cao, quy mô
thích hợp.
- Thành lập các tập đoàn, các tổng công ty kinh doanh du lịch, khách sạn, khuyến
khích phát triển các hình thức công ty cổ phần, khối tư nhân tham gia. Tạo quá trình khép
kín giữa kinh doanh khách sạn, kinh doanh vận chuyển du lịch, kinh doanh điểm du lịch.
- Thành lập hiệp hội về du lịch trên cơ sở kinh doanh chính như lữ hành, khách sạn,
vận chuyển khách du lịch.
- Tiến hành công tác kiểm tra, thành tra các doanh nghiệp du lịch một cách thường
xuyên.


24


×