Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.97 KB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

PH¸P LUËT QUèC TÕ Vµ PH¸P LUËT VIÖT
NAM
VÒ NG¡N NGõA Vµ XãA Bá LAO §éNG TRÎ
EM
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con người
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ CÔNG GIAO


HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN



Nguyễn Thị Vân Anh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA NGĂN NGỪA VÀ
XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM ......................................................7
1.1.

MỘT SỐ KHÁI NIỆM QUAN TRỌNG .............................................7

1.1.1.

Trẻ em ................................................................................................7

1.1.2.

Quyền trẻ em ......................................................................................9

1.1.3.

Lao động trẻ em ................................................................................11


1.1.4.

Ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em ................................................21

1.2.

THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ TÁC ĐỘNG TIÊU
CỰC CỦA LAO ĐỘNG TRẺ EM TRÊN THẾ GIỚI .......................22

1.2.1.

Thực trạng ........................................................................................22

1.2.2.

Nguyên nhân ....................................................................................26

1.2.3.

Tác động tiêu cực .............................................................................28

1.3.

MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGĂN NGỪA VÀ XÓA
BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM ...............................................................30

1.3.1.

Mục đích.......................................................................................... 30


1.3.2.

Ý nghĩa .............................................................................................32

Kết luận Chương 1..........................................................................................34
Chương 2: KHUÔN KHỔ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ NGĂN NGỪA VÀ XÓA BỎ LAO
ĐỘNG TRẺ EM .............................................................................35


2.1.

KHUÔN KHỔ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ NGĂN NGỪA
VÀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM................................................ 35

2.1.1.

Khái quát các văn bản pháp luật quốc tế về ngăn ngừa và xóa
bỏ lao động trẻ em ............................................................................35

2.1.2.

Pháp luật quốc tế về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em .................45

2.2.

KHUÔN KHỔ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NGĂN NGỪA
VÀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM ................................................58


2.2.1.

Khái quát các văn bản pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa và xóa
bỏ lao động trẻ em ............................................................................58

2.2.2.

Pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em............. 63

2.3.

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ TƯƠNG THÍCH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỚI PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ NGĂN NGỪA
VÀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM ................................................79

Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC THI PHÁP LUẬT VÀ
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ NGĂN NGỪA VÀ XÓA BỎ LAO
ĐỘNG TRẺ EM Ở VIỆT NAM .....................................................81
3.1.

THỰC TRẠNG THỰC THI PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ
NGĂN NGỪA VÀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM ........................81

3.1.1.

Khái quát thực trạng, nguyên nhân và tác động tiêu cực của lao
động trẻ em ở Việt Nam ....................................................................81

3.1.2.


Thực trạng thực thi pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động
trẻ em ở Việt Nam .............................................................................84

3.2.

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ NGĂN NGỪA VÀ XÓA BỎ LAO
ĐỘNG TRẺ EM ..............................................................................92

3.2.1.

Sự cần thiết phải hoàn thiện khuôn khổ pháp luật Việt Nam về
ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em .................................................92


3.2.2.

Quan điểm về hoàn thiện khuôn khổ pháp luật Việt Nam về
ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em ................................................94

3.2.3.

Những giải pháp cụ thể về hoàn thiện khuôn khổ pháp luật Việt
Nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em ....................................96

3.2.4.

Một số biện pháp hỗ trợ khác ..........................................................102


Kết luận Chương 3 .......................................................................................104
KẾT LUẬN ..................................................................................................105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................107


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Công ước số 138

Công ước số 138 của ILO về tuổi lao động tối thiểu

Công ước số 182

(Minimum Age Convention), 1973
Công ước số 182 của ILO về cấm và hành động ngay lập
tức nhằm xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ

ILO

nhất (Worst Forms of Child Labour Convention), 1999
Tổ chức Lao động Quốc tế (the International Labour

IPEC

Organization)
Chương trình quốc tế về xóa bỏ lao động trẻ em của ILO
(International Programme on the Elimination of Child

Khuyến nghị số 146


Labour)
Khuyến nghị số 146 của ILO về tuổi lao động tối thiểu

Khuyến nghị số 190

(Minimum Age Recommendation), 1973
Khuyến nghị số 190 của ILO về cấm và hành động ngay
lập tức nhằm xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em
tồi

SIMPOC

tệ

nhất

(Worst

Forms

of

Child

Labour

Recommendation), 1999
Chương trình Thông tin thống kê và giám sát lao động trẻ
em (Statistical Information and Monitoring Programme on


UNICEF

Child Labour)
Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (United Nations Children’s
Fund)


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Bảng 1.1:
Bảng 1.2:
Bảng 1.3:
Bảng 1.4:

Tên bảng
Trang
Phân loại lao động trẻ em dựa theo tính chất nguy hại
17
Phân loại lao động trẻ em theo tình trạng công việc
18
Phân loại lao động trẻ em theo lĩnh vực ngành nghề
21
Thống kê tỷ lệ lao động trẻ em trong nhóm tuổi từ 5-17,
24

Bảng 2.1:

năm 2000-2012
Mức tuổi lao động tối thiểu xác lập theo Công ước số 138


Bảng 2.2:
Bảng 2.3

của ILO
Độ tuổi lao động tối thiểu theo pháp luật Việt Nam
Bảng đối chiếu giữa những hình thức lao động trẻ em tồi tệ

45
64

nhất theo Công ước số 182 và các tội có liên quan trong Bộ
luật Hình sự Việt Nam

76


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, trên thế giới, tình trạng lao động trẻ em vẫn là một hiện
tượng phổ biến, trong đó, nhiều trẻ em phải lao động nặng nhọc trong điều
kiện độc hại, nguy hiểm và bị khai thác triệt để. Những mối nguy hại đe dọa
từ lao động trẻ em thay đổi tùy thuộc vào loại hình lao động, điều kiện lao
động và để lại những hậu quả nghiêm trọng cho sự phát triển bình thường của
trẻ. Không những thế, lao động trẻ em gia tăng còn gây ra những tác động tiêu
cực tới cộng đồng, xã hội, tăng trưởng kinh tế và sự phát triển lâu dài của mỗi
quốc gia. Vì vậy, ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em là mục tiêu chung mà
cộng đồng quốc tế đang hướng tới.
Ở Việt Nam, số lượng trẻ em lao động vẫn còn ở mức cao, trong đó có
nhiều em đang rơi vào những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất được quy
định trong Công ước số 182 của ILO về cấm và hành động ngay lập tức để

xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Thực tế đó đặt ra những
yêu cầu cấp bách cho Chính phủ và toàn xã hội Việt Nam trong việc ngăn
ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
Nhà nước Việt Nam đã rất tích cực trong vấn đề đảm bảo thực hiện quyền
trẻ em. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn
Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Việt Nam cũng đã phê chuẩn và
gia nhập cả hai điều ước chủ chốt của ILO về lao động trẻ em, bao gồm Công
ước số 182 và Công ước số 138 về tuổi lao động tối thiểu. Đây là những bằng
chứng cho thấy cam kết mạnh mẽ của nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ
quyền trẻ em nói chung và ngăn ngừa, xóa bỏ lao động trẻ em nói riêng.
Mặc dù vậy, Việt Nam hiện vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn
trong việc giải quyết vấn đề lao động trẻ em. Các nguyên nhân cơ bản dẫn đến

1


tình trạng lao động trẻ em ở Việt Nam gồm có: do nghèo đói, do người sử
dụng lao động muốn tiết kiệm chi phí sản xuất đã sử dụng lao động trẻ em với
tiền công rẻ mạt, do sự thiếu hiểu biết của một bộ phận dân cư về điều kiện
làm việc, về nguy cơ tiềm ẩn khi trẻ em tham gia lao động… Tuy nhiên,
không thể kể đến nguyên nhân quan trọng là pháp luật về lao động trẻ em còn
bộc lộ những bất cập, hạn chế nhất định: quy định hiện hành liên quan trực
tiếp đến lao động trẻ em còn ít, đặc biệt là chưa xây dựng hoàn thiện khung
pháp lý quy định các vấn đề cơ bản về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
Bên cạnh đó, việc thực thi pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em
còn kém hiệu quả, công tác thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật lao
động trẻ em vẫn hạn chế và bị coi nhẹ, việc tuyên truyền và phổ biến pháp
luật trong lĩnh vực này chưa thường xuyên và chưa sâu rộng. Điều này đòi hỏi
một số quy định pháp luật lao động, pháp luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em cần được sửa đổi, bổ sung nhằm điều chỉnh và phù hợp với tình trạng

lao động trẻ em đang ngày một gia tăng và diễn biến phức tạp.
Vì những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em” làm đề tài
luận văn thạc sĩ của mình, nhằm nghiên cứu pháp luật quốc tế và làm sáng
tỏ lý luận, thực tiễn pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em ở
Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh
vực này.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề lao động trẻ em đã thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế
và được tổ chức nghiên cứu ở nhiều phạm vi khác nhau. Có thể kể tới các báo
cáo thường kỳ của Tổ chức Lao động quốc tế ILO như: Báo cáo về xu hướng
lao động trẻ em toàn cầu giai đoạn 2000-2004, 2004-2008, 2008-2012, Báo
cáo “Đánh dấu sự tiến bộ chống lại lao động trẻ em năm 2013”... Các báo

2


cáo này đã đưa ra tình hình lao động trẻ em ở nhiều khu vực trên thế giới và
chỉ ra những nỗ lực của nhiều quốc gia trong việc ngăn chặn và loại bỏ các
hình thức lao động trẻ em tồi tệ. Báo cáo cũng khuyến nghị các quốc gia thực
hiện các chính sách kinh tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo cần thiết nhằm loại
bỏ lao động trẻ em.
Ở Việt Nam, ngày càng có nhiều công trình khoa học, báo cáo thường
kỳ, bài viết và các cuộc hội thảo, hội nghị chuyên đề về lao động trẻ em, lao
động chưa thành niên. Có thể kể đến một số công trình như:
“Vấn đề lao động trẻ em” của Vũ Ngọc Bình, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Hà Nội, năm 2000, phân tích vấn đề lao động trẻ em trên thế giới và
vấn đề lao động trẻ em ở Việt Nam hiện nay, đưa ra các giải pháp nhằm giải
quyết vấn đề lao động trẻ em trong nền kinh tế thị trường.
Bài viết “Quản lý và ngăn ngừa lao động trẻ em ở Việt Nam hiện nay”

của tác giả Nguyễn Bao Cường đăng trên Bản tin số 23 - Viện Khoa học và
Lao động xã hội đưa ra một số điểm cơ bản về tình trạng, nguyên nhân của
lao động trẻ em, một số hoạt động ưu tiên nhằm giải quyết tình trạng lao động
trẻ em giai đoạn 2010-2015.
Bài viết “Giúp trẻ thoát khỏi các hình thức lao động tồi tệ: cần sự
chung tay của toàn xã hội” của tác giả Anh Nguyễn đăng trên Báo Giáo dục
và Thời đại số 22 ra ngày 30.5.2010; bài viết “Xóa bỏ lao động trẻ em - một
việc làm cấp bách” của tác giả Lan Hương đăng trên Tạp chí Cộng sản số 844
ra ngày 01-4-2013; bài viết “Giải quyết vấn đề lao động trẻ em và trẻ em lang
thang trong Chiến lược bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em” của tác giả
Quách Thị Quế đăng trên Tạp chí Cộng sản số 846 ra ngày 01-06-2013... và
một số bài báo, tạp chí khác. Tuy nhiên, các bài viết, công trình này chủ yếu
tập trung vào đối tượng trẻ em và lao động trẻ em mà không đi sâu vào nghiên
cứu vấn đề ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em hoặc nếu có đề cập tới vấn

3


đề xóa bỏ lao động trẻ em thì mới chỉ được thực hiện dưới góc độ kinh tế, xã
hội mà chưa đề cập nhiều dưới góc độ luật học.
Tóm lại, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu dưới các dạng khác nhau
về vấn đề lao động trẻ em nhưng các công trình nghiên cứu này hầu như chưa đề
cập tới ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em - mục tiêu chung mà cộng đồng
quốc tế đang hướng tới cũng như chưa đưa ra được những bất cập của thực trạng
pháp luật về vấn đề này. Cho nên, có thể nói đề tài “Pháp luật quốc tế và pháp
luật Việt Nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em là công trình đầu tiên
nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện và cập nhật về pháp luật quốc tế và
thực tiễn pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến việc ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em, đồng thời đưa ra các
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những vấn
đề cụ thể sau:
- Phân tích cơ sở lý luận của việc cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về
ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
- Nghiên cứu, phân tích nội dung các Công ước quốc tế liên quan đến
ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em
ở Việt Nam.
- Tổng kết lý luận và đánh giá thực tiễn, luận văn đề xuất phương
hướng, giải pháp để hoàn thiện pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ
em ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Lao động trẻ em là vấn đề phức tạp, liên quan tới cả các lĩnh vực kinh
tế, xã hội. Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định cơ bản

4


của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động
trẻ em; phân tích, đánh giá việc thực thi pháp luật về vấn đề trên tại Việt Nam
và từ đó nêu ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được tiếp cận nghiên cứu trên cơ sở kế thừa các công trình
nghiên cứu trước đây cùng cơ sở lý luận và pháp luật thực định quốc tế và của
Việt Nam về lao động trẻ em nói chung và ngăn ngừa, xóa bỏ lao động trẻ em
nói riêng.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy

vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước Việt Nam về pháp
luật và xây dựng pháp luật.
Trong Chương 1, để làm sáng tỏ vấn đề lý luận về lao động trẻ em, luận
văn sử dụng phương pháp hệ thống, phân tích, so sánh để làm rõ khái niệm
“trẻ em”, “lao động trẻ em”, “ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em”. Phương
pháp phân tích cũng được vận dụng để đề cập tới nguyên nhân, tác động tiêu
cực, mục đích và ý nghĩa của ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
Tại Chương 2 của luận văn, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng
là thống kê, so sánh, phân tích để làm rõ mức độ tương thích giữa pháp luật
quốc tế và pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
Với Chương 3, phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp được sử
dụng để nghiên cứu thực trạng lao động trẻ em tại Việt Nam, tính cấp thiết
của việc hoàn thiện khuôn khổ pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa, xóa bỏ lao
động trẻ em và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
vấn đề này.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Lao động trẻ em là một thực tế đã có từ rất lâu. Vấn đề bảo vệ lao động
trẻ em cũng đã được Đảng và Nhà nước quan tâm. Các nghiên cứu và nhận
thức từ trước tới nay luôn cho rằng, lao động trẻ em vẫn cần được duy trì để
đáp ứng nhu cầu của xã hội và của chính bản thân, gia đình các em. Tuy
5


nhiên, nhìn nhận dưới góc độ quyền con người, lao động trẻ em cần phải được
ngăn ngừa và xóa bỏ, đặc biệt là các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.
Yêu cầu này cũng đặt ra việc xác định một cách rõ ràng khái niệm “lao động
trẻ em”, phân biệt với một số loại hình khác gần giống nhưng dễ gây nhầm
lẫn, đó là trẻ em làm việc, trẻ em tham gia hoạt động kinh tế…
Luận văn là công trình đầu tiên đi sâu vào phân tích một cách toàn diện

và cập nhật hệ thống các quy định quốc tế và quy định pháp luật Việt Nam về
ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em, đánh giá thực trạng thực thi pháp luật
về vấn đề này ở Việt Nam. Từ đó đóng góp một số giải pháp hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Luận văn làm rõ một số nội dung cơ bản về lao động trẻ em và ngăn
ngừa, xóa bỏ lao động trẻ em trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam.
Đánh giá mức độ tương thích của pháp luật Việt Nam với các công ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên và thực trạng thực thi pháp luật Việt Nam, nêu
ra một số vấn đề tồn tại cần sửa đổi, bổ sung trong pháp luật Việt Nam hiện
hành nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa, xóa bỏ
lao động trẻ em.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận, thực tiễn của việc ngăn ngừa và xóa bỏ lao
động trẻ em
Chương 2: Khuôn khổ pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về ngăn
ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em
Chương 3: Thực trạng thực thi pháp luật và phương hướng, giải pháp
hoàn thiện pháp luật về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ
em ở Việt Nam.
Chương 1

6


CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA
NGĂN NGỪA VÀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG TRẺ EM
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM QUAN TRỌNG

1.1.1. Trẻ em
Về phương diện khoa học, trẻ em được định nghĩa tùy theo góc độ tiếp
cận của từng khoa học cụ thể. Trong triết học, trẻ em được xem xét trong mối
quan hệ biện chứng với sự phát triển xã hội nên ở mọi thời đại, tương lai của
quốc gia, dân tộc đều tùy thuộc vào việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Đối với chuyên ngành xã hội học, trẻ em được xác định là người có vị thế, vai
trò xã hội khác với người lớn, vì vậy, cần được xã hội quan tâm, tạo điều kiện
sinh trưởng, nuôi dưỡng, bảo vệ, chăm sóc phát triển. Trong tâm lý học, khái
niệm trẻ em được dùng để chỉ giai đoạn đầu của sự phát triển tâm lý, nhân
cách con người. Dưới khía cạnh pháp lý, khái niệm trẻ em thường được tiếp
cận theo độ tuổi.
Trẻ em có những đặc điểm tâm sinh lý khá đặc thù do chưa phát triển
đầy đủ về thể chất và trí tuệ, dễ thay đổi, dễ thích nghi, dễ uốn nắn và đặc biệt
là dễ bị tổn thương. Chính vì vậy, việc xác định trẻ em theo độ tuổi là điều
cần thiết nhằm bảo vệ trẻ em một cách tốt nhất khỏi những nguy cơ từ xã hội
ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ.
Theo Điều 1 Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em: “Trẻ em là
những người dưới 18 tuổi” [18]. Đây là một quy định mở, trong đó mức trần
18 tuổi được coi là mức tiêu chuẩn nhưng không phải là cố định, bắt buộc đối
với mọi quốc gia, nói cách khác, điều này cho phép các quốc gia thành viên xác
định độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn so với quy định kể trên. Công ước số
182 cũng quy định “Trong phạm vi Công ước này, thuật ngữ “trẻ em” được áp
dụng để chỉ tất cả những người dưới 18 tuổi” [33, Điều 1] và không quy định
ngoại lệ. Điều này là do mục đích của Công ước 182, độ tuổi 18 được xác định

7


là độ tuổi trưởng thành của một con người mà từ khi đó họ mới có khả năng
đảm nhiệm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Như vậy, nếu cho

phép các quốc gia thành viên có ngoại lệ quy định độ tuổi thấp hơn được công
nhận là trẻ em, sẽ có nguy cơ nhiều trẻ em trên thế giới phải làm các công việc
nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm khi các em chưa đủ trưởng thành.
Cũng theo định nghĩa kể trên, Công ước về quyền trẻ em không quy
định từ khi nào được coi là trẻ em, nhưng theo Lời nói đầu thì “… trẻ em cần
phải được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt
pháp lý từ trước cũng như khi chào đời” [18]. Quy định này hàm nghĩa rằng
việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em cần phải được thực hiện ngay từ giai đoạn bào
thai chứ không đợi đến lúc trẻ chào đời.
Trong pháp luật Việt Nam, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm
2004 quy định: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi” [25, Điều 1].
Như vậy trong pháp luật chuyên ngành, Việt Nam thừa nhận độ tuổi trẻ em
được pháp luật bảo vệ và chăm sóc là những công dân dưới 16 tuổi. Mặc dù
quy định độ tuổi thấp hơn so với Công ước quốc tế, nhưng quy định của Việt
Nam vẫn được coi là phù hợp bởi quy định mở của Công ước.
Bên cạnh văn bản luật chuyên ngành, trong hệ thống pháp luật Việt
Nam còn có nhiều ngành luật khác cũng đề cập tới vấn đề trẻ em như Bộ luật
Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật
Thanh niên, Luật Quốc tịch, Luật Giáo dục, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học…
Tuy nhiên trong mỗi ngành luật đều tiếp cận khái niệm trẻ em ở một khía
cạnh khác nhau. Đặc biệt, một số văn bản luật đã có các chế định cụ thể quy
định quyền tự định đoạt của trẻ em đối với các vấn đề liên quan trực tiếp tới
mình như: trẻ em từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng
hoặc nhờ cha mẹ quản lý (Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, sửa đổi, bổ
sung năm 2014); trẻ em từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được lấy ý kiến

8


bằng văn bản khi thay đổi quốc tịch (Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008)…

Ngoài khái niệm trẻ em, luật pháp Việt Nam còn có nhiều quy định đề
cập đến nhóm người trong độ tuổi từ 16 đến dưới 18 (hay còn gọi là người
chưa thành niên). Theo Điều 18 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Người đủ
mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là
người chưa thành niên” [26]. Điều 161 Bộ luật Lao động 2012 cũng quy
định: “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi” [29].
Như vậy, chúng ta đang sử dụng đồng thời hai thuật ngữ “trẻ em” và
“người chưa thành niên”. Điều này gây khá nhiều rắc rối trong việc áp dụng
cũng như nghiên cứu luật.
1.1.2. Quyền trẻ em
Từ lâu trẻ em luôn được coi là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn
thương nhất và được các nhà nước, các cộng đồng quan tâm bảo vệ. Mặc dù
vậy, trong các thời kỳ trước đây, ở tất cả các xã hội, việc bảo vệ trẻ em cơ bản
xuất phát từ góc độ tình thương, lòng nhân đạo, sự che chở chứ không phải
dưới góc độ nghĩa vụ bảo vệ quyền. Do vậy, việc bảo vệ trẻ em ở thời kỳ
trước về cơ bản chưa mang tính phổ biến, thống nhất, quy chuẩn và ràng buộc
về nghĩa vụ với mọi đối tượng trong xã hội.
Đến đầu thế kỷ XX, thuật ngữ pháp lý “quyền trẻ em” mới được đề cập
sau một loạt biến cố quốc tế lớn, nhất là cuộc Chiến tranh thế giới I (19141918). Cuộc chiến tranh này đã khiến rất nhiều trẻ em ở châu Âu bị rơi vào
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như mồ côi không nơi nương tựa, đói khát, bệnh
tật và thương tích… Tình cảnh đó đã thúc đẩy việc thành lập hai tổ chức cứu
trợ trẻ em đầu tiên trên thế giới ở Anh và Thụy Điển vào năm 1919. Vào năm
1923, bà Eglantyne - người sáng lập Quỹ cứu trợ trẻ của nước Anh năm 1919
- đã soạn thảo một bản Tuyên bố gồm 7 điểm, trong đó kêu gọi bảo vệ và thừa
nhận các “quyền của trẻ em”. Vào năm 1924, Tuyên bố này được Hội Quốc

9


liên thông qua (được gọi là Tuyên ngôn Geneva về quyền trẻ em). Sự kiện

này có thể coi là mốc đánh dấu thời điểm thuật ngữ “quyền trẻ em” lần đầu
tiên được nêu chính thức trong pháp luật quốc tế, đồng thời cũng là mốc đánh
dấu một bước ngoặt trong nhận thức và hành động bảo vệ trẻ em trên thế giới.
Vì khi trẻ em được coi là một chủ thể của quyền, các hành động liên quan đến
trẻ em sẽ không chỉ còn đặt trên nền tảng tình thương, lòng nhân đạo hay sự
che chở nữa, mà còn là nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan, kể cả cha mẹ.
Sau khi được thành lập, Liên hợp quốc đã đưa vấn đề quyền trẻ em phát
triển lên một bước ngoặt mới. Với mệnh đề mở đầu phổ biến trong Tuyên
ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 và hai công ước về các
quyền dân sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 là
“mọi người có quyền” hoặc “bất cứ người nào đều có quyền”… thì trẻ em
được thừa nhận là chủ thể bình đẳng với người lớn trong việc hưởng tất cả các
quyền và tự do cơ bản được ghi nhận trong luật quốc tế về quyền con người.
Tuy nhiên, do đặc trưng của trẻ em là còn non nớt cả về thể chất và tinh
thần, nên ngay trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 và Công ước quốc tế về quyền trẻ
em, trẻ em đã được ghi nhận những quyền đặc thù, đó là quyền được chăm
sóc, giáo dưỡng và được bảo vệ đặc biệt.
Như vậy, quyền trẻ em là những đặc quyền tự nhiên mà trẻ em được
hưởng, được làm, được tôn trọng và thực hiện nhằm bảo đảm sự sống còn,
tham gia và phát triển toàn diện.
Công ước về quyền trẻ em là luật quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em bao
gồm 54 điều khoản được Liên hợp quốc thông qua năm 1989. Công ước đề ra
các quyền cơ bản của con người mà trẻ em trên toàn thế giới đều được hưởng.
Bốn nhóm quyền trẻ em theo Công ước quốc tế gồm:
- Nhóm quyền được sống: nhằm đảm bảo quyền được sống và đáp ứng

10



các nhu cầu cơ bản để tồn tại;
- Nhóm quyền được bảo vệ: nhằm bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức bị
bỏ rơi và bị lạm dụng và bóc lột hay phân biệt đối xử;
- Nhóm quyền được phát triển: nhằm đảm bảo nhu cầu cải thiện chất
lượng cuộc sống để trẻ phát triển toàn diện cả về thể chất và tinh thần, gồm
các quyền được học tập, nghỉ ngơi và giải trí, tham gia hoạt động văn hóa…;
- Nhóm quyền được tham gia: là những quyền cho phép trẻ em tham dự
vào những công việc ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng, như quyền được
bày tỏ quan điểm riêng, quyền tiếp cận thông tin…
1.1.3. Lao động trẻ em
1.1.3.1. Khái niệm lao động trẻ em
Cho tới nay, trên phạm vi quốc tế vẫn chưa có một định nghĩa thống
nhất về lao động trẻ em.
Không phải mọi công việc hàng ngày mà trẻ em làm đều được coi là
lao động trẻ em. Cần xác định rõ khái niệm lao động trẻ em và lấy đó là căn
cứ để thực hiện ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em.
Khác với khái niệm trẻ em, khái niệm về “lao động trẻ em” đòi hỏi
ngoài góc độ độ tuổi còn phải tiếp cận ở góc độ tính chất công việc mà chủ
thể phải làm.
Về độ tuổi, sau khi Công ước về quyền trẻ em và Công ước số 182 về
cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi
tệ nhất của ILO được ban hành, trong đó đưa ra định nghĩa trẻ em là những
người dưới 18 tuổi thì độ tuổi này được cộng đồng quốc tế coi là mốc chuẩn
để xác định phạm vi chủ thể của khái niệm lao động trẻ em.
Về tính chất công việc, lao động trẻ em bao gồm những công việc có
ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển toàn diện của trẻ em. Nói cách khác,
thuật ngữ này đề cập đến những công việc và điều kiện làm việc không thể
chấp nhận được đối với trẻ em.


11


Trên thực tế, nhận thức về công việc có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát
triển toàn diện của trẻ em không đồng nhất do sự khác biệt về hoàn cảnh kinh
tế, xã hội, quan niệm truyền thống, phong tục tập quán của mỗi quốc gia. Do
đó, khó có thể đưa ra một định nghĩa thống nhất về lao động trẻ em.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế ILO, nhìn chung, những công việc có
ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển toàn diện của trẻ là những công việc mà:
gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, đạo đức và xã
hội của trẻ; làm ảnh hưởng đến việc học tập của trẻ (ví dụ, khiến cho trẻ
không được đến trường, buộc trẻ phải nghỉ học sớm, buộc trẻ phải cố gắng để
vừa học vừa làm các công việc nặng nhọc hay mất nhiều thời gian).
Có những công việc có thể chấp nhận được với trẻ em. Đó là những
công việc không gây ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển, không cản trở
việc học của trẻ và mang ý nghĩa tích cực. Ví dụ như việc trẻ em giúp đỡ cha
mẹ trong công việc nhà hoặc tham gia việc kinh doanh của gia đình ngoài giờ
học. Đây là những hoạt động góp phần vào sự phát triển của trẻ và cũng nâng
cao phúc lợi của gia đình, cung cấp cho trẻ những kỹ năng và kinh nghiệm có
ích cho việc hòa nhập xã hội khi trưởng thành.
Theo Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc UNICEF, lao động trẻ em là những
công việc mà:
(a) Làm việc ở độ tuổi quá sớm;
(b) Phải làm việc quá nhiều giờ, ảnh hưởng đến việc học tập của
trẻ;
(c) Lao động trong những điều kiện xấu;
(d) Công việc hạ thấp danh dự nhân phẩm, lòng tự trọng của trẻ, có
hại đến sự phát triển toàn diện của trẻ;
(e) Gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại cho trẻ em trên các
phương diện thể chất, tinh thần, tâm lý và xã hội [49].

Ở Việt Nam, pháp luật cũng chưa có định nghĩa nào về lao động trẻ em,
mặc dù thuật ngữ này đã được đề cập đến trong một số văn bản pháp luật. Ví

12


dụ, Khoản 7 Điều 7 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 quy định
các điều nghiêm cấm, trong đó có hành vi lạm dụng lao động trẻ em.
Bộ luật Lao động 2012 có quy định khái niệm lao động chưa thành niên
và định nghĩa lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi và ít
nhất phải đủ 15 tuổi, trừ một số ngành nghề và công việc do Bộ Lao động thương binh xã hội quy định có thể là người nhỏ hơn 15 tuổi. Cụ thể, theo
Điều 164 Bộ luật Lao động:
Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người từ đủ 13
tuổi đến dưới 15 tuổi làm các công việc nhẹ theo danh mục do Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội quy định và không được sử
dụng lao động là người dưới 13 tuổi làm việc trừ một số công việc
cụ thể do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định [29].
Điều 165 Bộ luật Lao động cũng quy định về các công việc và nơi làm
việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên.
Như vậy, khái niệm lao động chưa thành niên trong pháp luật Việt
Nam chưa hoàn toàn đồng nhất với khái niệm lao động trẻ em trong pháp
luật quốc tế. Lao động chưa thành niên chỉ bị coi là lao động trẻ em khi làm
một số ngành nghề hoặc trong các điều kiện bị cấm theo quy định của pháp
luật. Trong khi đó, lao động trẻ em luôn bị coi là bất hợp pháp, bao gồm: lao
động dưới độ tuổi luật cho phép; lao động quá nhiều giờ; không được trả
công đầy đủ hoặc cản trở việc học hành của các em; lao động trong điều kiện
xấu, công việc hạ thấp danh dự nhân phẩm hay có hại đến sự phát triển tâm
lý, xã hội của trẻ.
Báo cáo “Điều tra quốc gia về lao động trẻ em 2012: Các kết quả
chính” do Viện Khoa học Lao động và Xã hội thuộc Bộ Lao động - Thương

binh và Xã hội thực hiện với sự hỗ trợ kỹ thuật của ILO - IPEC/SIMPOC xuất
bản lần đầu năm 2014 đưa ra khái niệm lao động trẻ em như sau:

13


(a) Trẻ em từ 5-11 tuổi: tham gia hoạt động kinh tế từ 1 giờ
trở lên vào bất kỳ ngày nào trong tuần tham chiếu hoặc từ 5 giờ trở
lên trong cả tuần tham chiếu.
(b) Trẻ em từ 12-14 tuổi: tham gia hoạt động kinh tế trên 4
giờ vào bất kỳ ngày nào trong tuần tham chiếu hoặc trên 24 giờ
trong cả tuần tham chiếu.
(c) Trẻ em từ 15-17 tuổi: tham gia hoạt động kinh tế trên 7
giờ vào bất kỳ ngày nào trong tuần tham chiếu hoặc trên 42 giờ
trong cả tuần tham chiếu.
(d) Trẻ em từ 5-17 tuổi, tham gia làm các công việc cấm sử
dụng lao động vị thành niên theo quy định của Thông tư số 09/TLLB ngày 13-4-1995 của liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
- Y tế quy định chi tiết các điều kiện lao động có hại và các công
việc cấm sử dụng lao động vị thành niên (Đã được thay thế bằng
Thông tư số 10/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động - Thương binh và
xã hội về Ban hành danh mục các công việc và nơi làm việc cấm sử
dụng lao động là người chưa thành niên) [4].
Tuy nhiên, đây chỉ là khái niệm sử dụng nhằm phục vụ cho điều tra của
Báo cáo này và mang tính chất tham khảo chứ chưa phải định nghĩa chính thức.
Từ các góc độ tiếp cận kể trên và từ các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan
của ILO, có thể định nghĩa như sau:
Lao động trẻ em là thuật ngữ chỉ tình trạng trẻ em (những người dưới 18
tuổi) phải làm những công việc có ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển toàn diện
của trẻ như: gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, đạo
đức và xã hội của trẻ; hoặc thời gian làm việc quá nhiều hay ở độ tuổi quá nhỏ,

làm ảnh hưởng đến thời gian học tập, vui chơi, giải trí của trẻ.
Để hiểu rõ khái niệm lao động trẻ em, cần phân biệt với một số khái
niệm khác có liên quan, cụ thể như sau:

14


Trẻ em lao động (child labourer): “Thuật ngữ này đi liền với thuật ngữ
lao động trẻ em (child labour), chỉ những trẻ em bị rơi vào vòng xoáy của lao
động trẻ em, hay nói cách khác là nạn nhân của lao động trẻ em” [37].
Lao động chưa thành niên (juvenile worker): Thuật ngữ này, như đã đề
cập ở trên, “thường để chỉ những lao động dưới 18 tuổi và không hoàn toàn
đồng nghĩa với lao động trẻ em. Lao động chưa thành niên có là lao động trẻ
em hay không tùy thuộc vào tính chất công việc, đặc điểm môi trường làm
việc, độ tuổi và thời gian làm việc của trẻ” [37].
Trẻ em làm việc (child work) là thuật ngữ “đề cập đến việc trẻ em
tham gia làm các công việc khác nhau, thông thường là nhẹ nhàng, có thể
chấp nhận được, được đưa ra nhằm mục đích phân biệt với khái niệm lao
động trẻ em mà được coi là chỉ những công việc không thể chấp nhận được
đối với trẻ em” [37]. Cụ thể, theo nhóm công tác khu vực về lao động trẻ em
thì trẻ em tham gia làm việc bao gồm các hoạt động không làm hại tới, và có
thể góp phần vào sự phát triển lành mạnh của trẻ trong khi lao động trẻ em
bao gồm tất cả những loại công việc do trẻ em đến 18 tuổi thực hiện mà có
hại cho sức khỏe, tinh thần, trí tuệ hay sự phát triển về mặt xã hội và ảnh
hưởng tới việc học tập của trẻ em. Trẻ em làm việc không gây những tác động
tiêu cực cho sự phát triển của trẻ vì đó là những việc làm tự nguyện, phi lợi
nhuận hay các công việc trong gia đình. Những công việc này cũng cho trẻ
những kỹ năng, kinh nghiệm trong cuộc sống. Trái lại, lao động trẻ em hướng
tới lợi nhuận, trẻ em phải làm việc liên tục trong những ngành công nghiệp
làm ra hàng hóa. Điều đó ảnh hưởng lớn tới sức khỏe, cơ hội học tập và phát

triển của trẻ.
Trẻ em tham gia hoạt động kinh tế (“economically active children”
hoặc “children at work in economic activity”) là thuật ngữ được sử dụng phổ
biến trong công tác điều tra, thống kê về lao động việc làm nói chung và lao
động trẻ em nói riêng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là một khái niệm

15


“chỉ các công việc sinh lợi do trẻ em thực hiện, bất kể các công việc đó có
hay không được trả lương, hợp pháp hay bất hợp pháp, thường xuyên hay
không thường xuyên, thời giờ làm việc ngắn hay trọn thời gian” [37]. Những
công việc vặt, không sinh lời mà trẻ em thường làm trong gia đình hoặc ở
trường không thuộc phạm trù này, mặc dù trên thực tế, một số trẻ em có thể
phải dành nhiều thời gian để làm những công việc đó, làm ảnh hưởng đến thời
giờ học tập, vui chơi, giải trí. Để được xem là có tham gia các hoạt động kinh
tế, trẻ em phải làm các công việc sinh lời ít nhất trong một giờ vào bất kỳ
ngày nào trong tuần. Như vậy, trẻ em tham gia làm kinh tế có được coi là lao
động trẻ em hay không cũng tùy thuộc vào tính chất công việc, đặc điểm môi
trường làm việc, độ tuổi và thời gian làm việc của trẻ. Bên cạnh đó, không
phải tất cả trẻ em tham gia hoạt động kinh tế đều trái với Công ước số 138 của
ILO về tuổi lao động tối thiểu và Công ước số 182 của ILO về cấm và hành
động ngay lập tức để xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.
1.1.3.2. Phân loại lao động trẻ em
Phân loại lao động trẻ em giúp làm rõ các đặc điểm của lao động trẻ em
và đưa ra những giải pháp phù hợp để ngăn ngừa và xóa bỏ từng dạng lao
động trẻ em. Có nhiều tiêu chí để phân loại lao động trẻ em, trong đó các tiêu
chí thường được sử dụng là: theo tính chất nguy hại, theo tình trạng công việc
và theo lĩnh vực ngành nghề mà trẻ em làm việc.
* Phân loại theo tính chất nguy hại là cách thức được thực hiện trong

các Công ước số 138 và 182 của ILO, trong đó lao động trẻ em được chia
thành các cấp độ tùy theo ảnh hưởng tiêu cực của công việc với sự phát triển
của trẻ. Theo cách phân chia này, lao động trẻ em bao gồm: công việc nhẹ
nhàng, công việc thông thường, công việc nguy hại và những hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất [37].
Bảng dưới đây khái quát những tình huống có thể coi là lao động trẻ em
dựa trên sự phân loại theo tính chất nguy hại từ các quy định có liên quan

16


trong các Công ước 138 và 182 của ILO.
Bảng 1.1: Phân loại lao động trẻ em dựa theo tính chất nguy hại
Độ tuổi

Dạng công việc
Các công việc không nguy hại
Những hình thức lao động
(trong các ngành nghề không nguy
trẻ em tồi tệ nhất
hại, thời giờ làm việc ít hơn 43
giờ/tuần)
Công việc
Công việc
Công việc
Những hình
nhẹ nhàng
thông thường
nguy hại
thức lao động

(làm việc ít hơn (làm việc nhiều (trong các ngành trẻ em tồi tệ
14 giờ/tuần)
hơn 14 giờ/tuần nghề được coi
nhất bị cấm
nhưng chưa đến nguy hại, hoặc
tuyệt đối
43 giờ/tuần)
trong các ngành (buôn bán trẻ
nghề khác
em; lao động
không nguy hại cưỡng bức và
nhưng với thời gán nợ, sử dụng
giờ làm việc
trẻ em trong
nhiều hơn 43
xung đột vũ
tiếng/tuần)
trang, các hoạt
động khiêu dâm
và bất hợp pháp)

5-11
12-14
15-17

Nguồn: Bộ tài liệu tập huấn về ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em,
(Trong bảng này, phần được coi là lao động trẻ em được đánh dấu đậm)
Điều 7 Công ước số 138 của ILO quy định công việc nhẹ là công việc:
(a) Không có khả năng gây tổn hại đến sức khỏe hoặc sự phát
triển của các em;

(b) Không ảnh hưởng đến việc học tập, việc tham gia vào
những chương trình hướng nghiệp hay đào tạo nghề đã được các

17


×