Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

NGHIÊN cứu THỰC TRẠNG CÔNG tác y tế TRƯỜNG học ở VIỆT NAM HIỆN NAY và đề XUẤT mô HÌNH QUẢN lý PHÙ hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 73 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho học sinh luôn là
mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội. Cho tới nay, đã có rất nhiều văn bản,
chỉ thị, quyết định do Thủ tướng Chính phủ, hai Bộ Y tế và Bộ Giáo dục Đào
tạo ban hành chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện nhằm tăng cường công tác y tế tại
các trường học [4], [5], [6], [7], [28], [47], [49], [51]. Cụng tác y tế trường
học đã và đang được các ngành các cấp, phụ huynh học sinh và nhân dân
quan tâm. Đặc biệt bên cạnh đó, nhiều tổ chức quan tâm đã và đang cú cỏc
chương trình dự án tài trợ nhằm nâng cao sức khỏe trường học như Quĩ Nhi
đồng liên hiệp quốc (UNICEF), Tổ chức y tế thế giới (WHO), Ngân hàng thế
giới (WB), tổ chức Plan tại Việt nam, Tổ chức mắt hột quốc tế v.v. [49]
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã quan tâm đầu tư phát triển
giáo dục, coi “Giỏo dục là quốc sách hàng đầu’. Phát triển sự nghiệp giáo dục
là trách nhiệm không phải của riêng một cá nhân nào mà là của toàn xã hội.
Bên cạnh việc cải tiến các chương trình giáo dục, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ
giáo viên, Nhà nước đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất (trường lớp, bàn
ghế…), cung cấp trang thiết bị phù hợp theo lứa tuổi học sinh cho các trường
học. Tuy nhiên, cho đến nay y tế trường học còn nhiều vấn đề cần được quan
tâm [49], [51].
Theo báo cáo tổng hợp tình hình y tế trường học năm 2002 của Bộ Y tế,
chỉ có 44/61 tỉnh thành phố có báo cáo về y tế trường học, trong đó 40/61 tỉnh
thành có ban chỉ đạo cấp tỉnh theo hướng dẫn của liên Bộ Y Tế và Bộ Giáo
dục và Đào tạo, 30/61 tỉnh có văn bản liên ngành y tế – giáo dục hướng dẫn
các cấp thực hiện [51]. Chưa có tỉnh nào có đủ ban chỉ đạo y tế trường học
cấp huyện. Các hoạt động y tế trường học triển khai chưa nhiều, nơi có triển


2


khai cũng chỉ có một số nội dung như tạo phong trào xanh sạch đẹp, cung cấp
nước uống cho học sinh, các công trình vệ sinh có tiến bộ nhưng cũng chỉ đạt
khoảng 50% yêu cầu, công tác khám sức khoẻ định kỳ, quản lý hồ sơ sức
khoẻ hầu hết chưa thực hiện theo quy định. Toàn quốc chưa có số liệu chính
thức về các bệnh trường học như cận thị và cong vẹo cột sống ở học sinh [51]
Có nhiều khó khăn, tồn tại trong việc thực hiện hoạt động YTTH chưa được
giải quyết như vấn đề đội ngũ cán bộ y tế trường học, kinh phí cho hoạt động
y tế trường học, trách nhiệm của mỗi ngành (Y tế và Giáo dục) chưa được
xác định rõ ràng, vấn đề bảo hiểm y tế học sinh chưa được cha mẹ học sinh và
các nhà trường quan tâm, cơ sở vật chất nhà trường nói chung và cơ sở vật
chất cho y tế trường học còn rất nghèo nàn. Những vấn đề này đã và đang là
trở ngại cho việc nâng cao chất lượng và hiệu quả y tế trường học của từng
địa phương và cả nước [47], [49], [51].
Theo tài liệu vệ sinh học đường của Bộ Y tế năm 2002, y tế trường học
gồm 5 nội dung là vệ sinh học đường, phòng chống các bệnh truyền nhiễm,
phòng chống các bệnh thường gặp khác, nha học đường (chăm sóc vệ sinh
răng miệng) và sơ cấp cứu ban đầu cho học sinh. Tuy nhiên việc thực hiện các
nội dung này ở các trường học hiện nay còn chưa đồng nhất và nhiều bất cập
[49], [51]. Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về sức khỏe trường học, vệ sinh
trường học của các tác giả như Trần Văn Dần [10], [11], [12], [14], Nguyễn
Võ Kỳ Anh [1], [2], Nguyễn Bích Diệp [18], [19], Đặng Anh Ngọc [37], [38],
[39], Hoàng Văn Tiến [37], [38] nhưng nghiên cứu về các hoạt động YTTH cụ
thể, những khó khăn trong quá trình triển khai thỡ cũn chưa được đầy đủ [29].
Chính vì vậy, nghiên cứu một cách có hệ thống về hoạt động y tế trường
học tại nước ta là một nhiệm vụ cần thiết, nú giỳp cho các nhà quản lý và
hoạch định chính sách đẩy mạnh các hoạt động y tế trường học nhằm nâng
cao sức khỏe cho học sinh trong thời gian tới. Nhiệm vụ này đó cú một đề tài


3


khoa học công nghệ cấp Bộ “Nghiờn cứu thực trạng công tác y tế trường học
ở Việt Nam hiện nay và đề xuất mô hình quản lý phù hợp” được thực hiện
trong hai năm 2007 - 2009 tại ba tỉnh (Phú Thọ, Quảng Bình, Đồng Nai)
thuộc ba miền của đất nước.
Huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ là một huyện miền núi của một tỉnh
trung du Bắc Bộ. Cho tới nay, chưa có một nghiên cứu đầy đủ nào tại huyện
về thực trạng hoạt động về y tế trường học ra sao, có những khó khăn nào ảnh
hưởng tới hoạt động y tế trường học. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài ôNghiờn cứu thực trạng y tế trường phổ thông tại huyện Tam Nông tỉnh
Phú Thọ năm học 2007-2008ằ, là một phần trong đề tài cấp Bộ, với các mục
tiêu sau đây :
1. Mô tả thực trạng hoạt động về y tế trường học tại các trường phổ thông
tại huyện Tam Nông - tỉnh Phú Thọ trong năm học 2007 - 2008
2. Mô tả một số khó khăn có ảnh hưởng đến hoạt động y tế trường học
tại các trường phổ thông tại huyện Tam Nông - tỉnh Phú Thọ trong
năm học 2007- 2008
Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp can thiệp đẩy mạnh hoạt động
YTTH tại huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới


4

Chương 1

TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về y tế trường học
1.1.1. Khái niệm về trường học nâng cao sức khỏe
Theo Tổ chức y tế thế giới “Trường học nâng cao sức khỏe là trường học
trong đó cả lời nói và việc làm đều có những hoạt động hỗ trợ và cam kết thúc

đẩy sức khoẻ toàn diện cho tất cả mọi thành viên trong cộng đồng nhà trường từ
tình cảm, xã hội, thể chất đến các vấn đề đạo đức” [6], [66]
Cũng theo định nghĩa này, Tổ chức y tế thế giới đã đưa ra bốn nội dung
hoạt động cơ bản của mô hình trường học NCSK. Các nội dung này liên quan và
hỗ trợ lẫn nhau, đó là nâng cao hiệu quả giáo dục sức khỏe trong trường học, tổ
chức các dịch vụ sức khỏe trong trường học, xây dựng cơ sở vật chất và môi
trường trường học và thực hiện các chính sách nâng cao sức khỏe trường học
[6], [65], [66]. Cụ thể các nội dung này như sau:
- Nâng cao hiệu quả giáo dục sức khoẻ trong trường học
+ Lồng ghép giáo dục sức khoẻ vào trong các môn học chớnh khoỏ của
bậc học, cấp học, ngành học.
+

Triển khai hoạt động truyền thông giáo dục sức khoẻ qua các hoạt

động ngoại khoá, sinh hoạt tập thể, pano, áp phích, khẩu hiệu, tranh, ảnh…
Biểu dương khen thưởng kịp thời người tốt, việc tốt.
+ Tổ chức các hoạt động lồng ghép truyền thông giáo dục sức khoẻ giữa
nhà trường, gia đình và cộng đồng.
- Tổ chức các dịch vụ sức khoẻ trường học
+ Khám và sơ cứu những trường hợp ốm đau hoặc tai nạn.
+ Khám sức khoẻ định kỳ để phát hiện sớm các trường hợp bị bệnh, lập


5

hồ sơ theo dõi sức khoẻ học sinh. Đặc biệt cần quan tâm đến trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt (trẻ bị bỏ rơi, cô đơn, có vấn đề về tâm lý, hay bị đánh đập…) để
có biện pháp chăm sóc giúp đỡ.
+ Triển khai các chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu (như chương

trình tiêm chủng mở rộng, phòng chống giun sán, phòng chống suy dinh
dưỡng)
+ Thực hiện chương trình nha học đường và giáo dục nha khoa, mắt học
đường và giáo dục phòng chống tật cận thị.
+ Có tủ thuốc, có thầy thuốc phục vụ thường xuyên tại phòng sức khoẻ
trường học (còn gọi là phòng y tế nhà trường).
+ Tham gia bảo hiểm sức khoẻ học sinh.
- Xây dựng cơ sở vật chất và môi trường cho trường học
+ Lớp học có trang thiết bị đúng quy cách.
+ Có sân chơi, bãi tập, dụng cụ phương tiện luyện tập thể dục thể thao
đảm bảo an toàn.
+ Có công trình vệ sinh, nước sạch đảm bảo hợp vệ sinh.
+ Đảm bảo có đủ nước uống sạch.
+ Thu gom, xử lý rác và nước thải hàng ngày.
+ Trồng cây xanh ở sân, vườn trường.
+ Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là các trường học nội trú, bán trú.
- Thực hiện các chính sách nâng cao sức khoẻ trường học
+ Không hút thuốc lá, uống rượu bia, lạm dụng ma tuý và chất kích thích.
+ Không quan hệ tình dục sớm, lạm dụng tình dục.
+ Không có hành vi bạo lực: đe doạ, đánh đập, ức hiếp học sinh.
+ Không để xẩy ra các tai nạn thương tích đáng tiếc.


6

+ Tiến hành xã hội hoỏ cỏc hoạt động nâng cao sức khỏe trường học
Các nội dung này đã được hoạt động ra sao tại các trường học ở Việt
Nam đặc biệt là các trường học phổ thông tại huyện Tam Nông - tỉnh Phú Thọ
năm học 2007 – 2008 là vấn đề cần được nghiên cứu.
1.1.2. Các cơ sở để xây dựng trường học nâng cao sức khỏe ở Việt Nam

[6], [7], [49]
Tại Việt Nam có rất nhiều lý do để trường học cần phấn đấu trở thành
trường học nâng cao sức khỏe, đó là:
- Sức khoẻ của thế hệ trẻ là một nhân tố quyết định quan trọng có ảnh
hưởng đến khả năng học tập, sáng tạo và phát triển năng khiếu của các em
khi đang học ở trường cũng như tương lai sau này.
- Học sinh là cầu nối hữu hiệu nhất giữa gia đình với nhà trường và cộng
đồng, nên nếu các em được chăm sóc, giáo dục sức khoẻ tốt sẽ ảnh hưởng tích
cực tới mọi người trong toàn xã hội.
- Việt Nam có số lượng học sinh đến trường cao. Trường học là nơi hầu
hết học sinh có thể tiếp cận với công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ.
- Các điều kiện vệ sinh của phương tiện học tập, môi trường học đường
có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến sức khoẻ của học sinh.
- Đầu tư cho chương trình y tế trường học sẽ là đầu tư có hiệu quả nhất
để nâng cao sức khoẻ học sinh và giáo dục sức khoẻ cho cộng đồng.
1.1.3. Các văn bản pháp lý về y tế trường học tại Việt Nam [47], [49], [51]
Chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe trẻ em lứa tưổi trường học đã
được Đảng, Chính phủ quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu về sức khỏe
học sinh của các tác giả đã được công bố. Tiêu chuẩn xây dựng trường lớp,
tiêu chuẩn chiếu sáng, bàn ghế học tập đã được quy định trong điều lệ vệ sinh,
bảo vệ sức khỏe từ năm 1964. Thông tư liờn bộ Y tế, Giáo dục số 32/ TTLB


7

ngày 27/2/1964 đã hướng dẫn công tác vệ sinh trường học. Thông tư cũng đã
quy định nhiệm vụ cho trạm y tế xã chăm lo sức khỏe học sinh trong trường
học ở xã. Liên bộ cũng đã xây dựng thí điểm được trường Tán Thuật (Thái
Bình) trở thành lá cờ đầu về phong trào thể dục vệ sinh. [49]
Trong thời kì chiến tranh phá hoại leo thang ra miền Bắc ngày càng ác

liệt, các trường học phải sơ tán về nông thôn, miền núi. Bộ Y Tế đã tiến hành
điều tra sức khỏe, bệnh tật của trên 20.000 học sinh ở 13 tỉnh thành phố trong
2 năm học 1966- 1967 và 1967-1968. Kết quả điều tra cho thấy thể lực của
học sinh bị giảm sút, tình hình bệnh tật tăng. Trước tình hình đó, Chính phủ
đã ban hành chỉ thị 46/TTG ngày 2/6/1969 giao trách nhiệm cho các ngành
các cấp phối hợp thực hiện giữ gìn và nâng cao sức khỏe học sinh, trong đó có
quy định: Ngành Y tế phải coi học sinh là một trong những đối tượng phục vụ
chính của mình, phối hợp chặt chẽ với ngành Giáo dục tổ chức mạng lưới,
bảo đảm thực hiện chế độ phòng bệnh cho học sinh, giáo viên. [49]
Năm 1973 có thông tư liên bộ 09/LB/YT-GD ngày 7/6/1973 hướng dẫn y
tế trường học, trong đó có phân cấp việc khám chữa bệnh và quản lí sức khỏe
học sinh từ tuyến y tế xã đến bệnh viện tỉnh, thành phố. Trong thời gian này
công tác y tế trường học đã có nhiều chuyển biến và thu được kết quả tốt.
Nhiều công trình nghiên cứu về tình hình thể lực, bệnh tật, điều kiện học tập,
giảng dạy, bàn ghế phù hợp với lứa tuổi, cải thiện chiếu sáng lớp học, thử nghiệm
các chương trình tài liệu giáo dục trong trường học đã được tiến hành. [49]
Đến năm 1982 có thông tư liên bộ số 13/ LB - GD - YT. Ngày 9/ 6/ 1982
về việc đẩy mạnh công tác vệ sinh trường học. Nhưng tiếc rằng sau khi ban
hành đã thiếu sự chỉ đạo thực hiện để phù hợp với tình hình mới của đất nước. [49]
Cuối thập kỉ 80, với sự tài trợ của UNICEF, môn học giáo dục sức khỏe
đã được thí điểm giảng dạy ở bậc tiểu học của một số trường thuộc các tỉnh


8

tham gia dự án và đến năm 1996 môn học Giáo dục sức khỏe được coi là một
trong 9 môn học bắt buộc ở bậc tiểu học và được triển khai đại trà trong cả
nước. Với phương pháp dạy và học tích cực, lấy học sinh làm trọng tâm, môn
học này đã có tác dụng góp phần bảo vệ, nâng cao sức khỏe học sinh. Với dự
án vệ sinh môi trường và nước sạch trong trường tiểu học với sự tài trợ của

UNICEF và của chương trình quốc gia nước sạch - vệ sinh môi trường đã xây
dựng hơn 6.000 công trình vệ sinh (nhà tiêu) và giếng nước ở các trường tiểu
học của cả nước. [49]
Trong thời gian này cũng cú cỏc đợt điều tra về phát triển thể lực và sức
khỏe học sinh. Các hội nghị khoa học về thể chất và sức khỏe trường học toàn
ngành giáo dục và đào tạo đã được tổ chức 2 năm một lần và bộ Giáo dục và
đào tạo đã xuất bản tuyển tập NCKH giáo dục thể chất và sức khỏe trong
trường học các cấp (1996, 1998, 2000). Công trình điều tra sức khỏe thế hệ trẻ
Việt Nam và nhiều nghiên cứu sức khỏe lứa tuổi trường học đã được tiến
hành. Thông tư số 23/TTLB-BYT-BGD&ĐT ngày 21/10/1987 liên Bộ Y tếGiỏo dục đào tạo về công tác nha học đường [49]
Năm 1997 Bộ Y Tế đã tổ chức nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức y
tế trường học trong tình hình mới theo mã số đề tài khoa học cấp nhà nước
theo mã số KHCN 11 - 06. Kết quả của đề tài đó giỳp cho việc đề xuất một số
kiến nghị tập trung vào củng cố và phát triển mạng lưới y tế trường học, tăng
cường các văn bản pháp lí chỉ đạo hướng dẫn các nội dung hoạt động trong
những năm tới [51]
Các văn bản, chỉ thị, quyết định được Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành trong thời gian từ năm 1995 tới nay có liên quan tới y tế trường học



9

- Chỉ thị số 10/GD-DT ngày 30/6/1995 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo về việc tăng cường phòng, chống AIDS và các tệ nạn xã hội trong
trường học.
- Chỉ thị số 08/GD-DT ngày 12/5/1997 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và
Đào tạo về việc tăng cường công tác vệ sinh trong trường học
- Năm 1998 có thông tư liên bộ Giáo dục Đào tạo và Y tế số 40/ 1998/
TTLT- BGDĐT- BYT ngày 14/ 7/ 1998 có hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế

học sinh thay cho thông tư số 14/ TTLB ngày 19/ 9/1994 của liên bộ GDĐT –
YT.
- Thông tư số 03/TTLB-BYT-BGD&DT ngày 1/3/2000 liên Bộ Y tế Giáo dục Đào tạo về việc hướng dẫn công tác y tế trường học
- Quyết định số 1221/2000/QĐ-BYT ngày 18-4-2000 của Bộ trưởng Bộ
Y tế về việc ban hành Qui định về vệ sinh trường học. Nội dung của bản quy
định này bao gồm vệ sinh môi trường học tập, vệ sinh các phương tiện học tập
cuả trường học, vệ sinh các nhà ở, nhà ăn các trường có học sinh nội trú, bán
trú; quy định về kiểm tra, thanh tra xử lí những trường hợp vi phạm.
- Quy chế giáo dục thể chất và y tế trường học bán hành theo quyết định
số 14/ 2001/ QĐ-GDĐT ngày 3/5/2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo trên cơ sở các văn bản pháp quy hướng dẫn về y tế trường học được ban
hành trong những năm đầu thế kỉ 21 này, hai ngành Y tế – Giáo dục và Đào
tạo từ trung ương đến địa phương đã dẫn đến khôi phục và phát triển mạng
lưới y tế trường học, triển khai các hình thức nâng cao sức khỏe học sinh.
- Chỉ thị số 36/GD-DT ngày 10/8/2001 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo về việc phòng, chống hút thuốc lá trong trường học.


10

- Chỉ thị số 53/2003/CT-BGD&ĐT ngày 13/11/2003 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo về an toàn thực phẩm trong các cơ sở giáo dục và
đào tạo
- Chỉ thị số 54/2003/CT-BGD&ĐT ngày 24/11/2003 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc phòng chống tai nạn thương tích trong các cơ sở
giáo dục
- Quyết định số 6728/QĐ-BGD&ĐT ngày 25/11/2005 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Kế hoạch khẩn cấp của ngành Giáo dục
về phòng chống dịch cúm gia cầm (H5N1) và đại dịch cúm A (H5N1) ở người
- Chỉ thị số 23/2006/CT-TTg ngày 12/7/2006 của Thủ tướng Chính phủ

về việc tăng cường công tác y tế trong các trường học
1.2. Các nghiên cứu trên thế giới về y tế trường học
Từ thế kỉ thứ 19 nhiều nước ở châu Âu đó cú những chủ trương và
phương pháp thực hiện y tế trường học. Các nhà nghiên cứu tập trung vào
việc thống kê xây dựng trường sở và bắt đầu đưa ra những tiêu chuẩn vệ sinh
trong lĩnh vực này.
Năm 1877 tác giả Babinski đã cho xuất bản cuốn sách giáo khoa về vệ
sinh học, tác giả Breslauer, Herman Cohn từ năm 1864 đã nghiên cứu sự tăng
nhanh bệnh cận thị trường học có liên quan đến chiếu sáng [49].
Trong những năm cuối thế kỉ thứ 19 hệ thống y tế trường học đã phát
triển và các bác sĩ, y tá trường học với nhiệm vụ khám sức khỏe định kì và
khám chuyên khoa. Trọng tâm công tác y tế trường học là phòng chống bệnh
dịch và tổ chức quản lí công tác tiêm chủng.
Đến thế kỉ 20 đó cú sự cộng tác chặt chẽ giữa bác sĩ trường học với các
cơ sở phòng lao và đã đánh dấu một bước tiến bộ theo đường lối dự phòng.


11

Từ năm 1960 người ta đã phát hiện ra hiện tượng gia tốc phát triển cơ
thể trẻ em ở lứa tuổi trường học. Những công trình nghiên cứu về sự mệt mỏi
của trẻ em trong học tập đã được trình bày tại hội nghị quốc tế ở Tây Ban Nha
và sự thống nhất tổ chức y tế trường học và vệ sinh trường học cũng được đề
cập tới. Những công trình nghiên cứu về xây dựng trường sở, chiếu sáng và
trang thiết bị đồ dùng học tập giảng dạy đặc biệt là những nghiên cứu về bàn
ghế học sinh đã được chú trọng tới.
Năm 1981 Vermer Kneist, viện vệ sinh xã hội Cộng Hòa Dân Chủ Đức
đã công bố mô hình xây dựng y tế trường học với nhiệm vụ của thầy thuốc
trường học và mối liên quan của các tổ chức xã hội [49].
Edith Ockel (1973) nghiên cứu về gánh nặng của trẻ em trong học tập và

chỉ rõ những em có hiệu suất học tập thấp có sự diễn biến về huyết áp và tần
số mạch khác với trẻ em trung bình và với trẻ em có hiệu suất học tập cao
trong giờ học và đã đề xuất cải thiện chế độ học tập nhằm nâng cao hiệu suất
trong học tập [49].
Những nghiên cứu về sức chịu đựng về sinh lí của trẻ em trong
luyện tập thể dục thể thao đã đưa ra những quy định chế độ luyờn tập
riêng cho những học sinh bị bệnh mãn tính như tim mạch, hô hấp...và giờ
đây vệ sinh đã được đưa vào thành môn học chính khóa ở các trường phổ
thông trên thế giới.
Nhằm đẩy mạnh công tác y tế trường học, năm 1995, Tổ chức Y tế thế
giới đã xây dựng sáng kiến y tế trường học toàn cầu (Global School Health
Initiatives) nhằm tăng số lượng các “trường học nâng cao sức khỏe” (HealthPromoting Schools). Sáng kiến này nhằm mục đích nâng cao sức khỏe cho
học sinh, cán bộ trường học, gia đình và thành viên của cộng đồng thông qua
trường học. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau tùy thuộc vào nhu cầu và


12

hoàn cảnh của mỗi nước, một trường học nâng cao sức khỏe được hiểu là
trường học có môi trường khỏe mạnh để sinh hoạt, học tập và làm việc [65],
[66], [67], [69], [76]. Cơ sở để Tổ chức Y tế thế giới xây dựng ra sáng kiến
này là dựa vào tuyên ngôn Ottawa về nâng cao sức khỏe (1986), tuyên bố
Jakarta tại Hội nghị quốc tế lần thứ 4 về nâng cao sức khỏe (1997) và đề xuất
của nhóm chuyên gia TCYTTG về giáo dục và nâng cao sức khỏe trường học
toàn diện (1995).
Hưởng ứng mục tiêu của Tổ chức y tế thế giới, nhiều nước trong khu vực
đã đẩy mạnh công tác y tế trường học, đặc biệt có mô hình FRESH của
Inđụnờxia [70], [72], [73], [74], [75]. Tuy nhiên ở một số nước trong khu vực,
làm thế nào để có mô hình quản lý công tác y tế trường học vẫn đang là vấn
đề quan tâm của các nhà hoạch định chính sách khi vấn đề này đòi hỏi không

chỉ sự nỗ lực của một ngành y tế hay giáo dục mà cần có sự phối hợp đồng bộ
liên ngành [69], [70], [72], [74].
1.3. Các nghiên cứu tại Việt Nam về y tế trường học
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư phát
triển giáo dục, coi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu’. Phát triển sự nghiệp
giáo dục là trách nhiệm của toàn xã hội. Cùng với việc cải tiến các chương
trình giáo dục, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, Nhà nước đã đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất (trường lớp, bàn ghế…), cung cấp trang thiết bị phù hợp
theo lứa tuổi cho các trường học, công tác y tế trường học cũng được quan
tâm chỉ đạo. Cụng tác y tế trường học đã và đang được các ngành các cấp,
phụ huynh học sinh và nhân dân quan tâm. Đặc biệt nhiều tổ chức quan tâm
đã và đang cú cỏc chương trình dự án tài trợ nhằm nâng cao sức khỏe trường
học như Quĩ Nhi đồng liên hiệp quốc (UNICEF), Tổ chức y tế thế giới
(WHO), Ngân hàng thế giới (WB), tổ chức Plan tại Việt nam, Tổ chức mắt


13

hột quốc tế v.v [49]. Tuy nhiên, cho đến nay y tế trường học còn nhiều vấn đề
cần được quan tâm [51].
Cho tới nay đã có nhiều nghiên cứu về tình hình bệnh trường học (cận
thị và cong vẹo cột sống) cũng như điều kiện học tập ảnh hưởng tới sức khỏe
của học sinh. Tác giả Trần Văn Dần và cộng sự (1998) nghiên cứu cho thấy tỷ
lệ cận thị ở học sinh tiểu học là 9,6%, ở THCS là 36,5% và phổ thông trung
học là 24%. Tỷ lệ cận thị học sinh thành phố Hồ Chí Minh và ở Hà nội cao
như nhau [17]. Năm 2005, tác giả Trần Văn Dần cùng cộng sự Đào Thị Mùi
nghiên cứu tình hình cong vẹo cột sống ở học sinh thành phố Hà nội cho kết
quả tỷ lệ bị cong vẹo cột sống nói chung ở học sinh các cấp là 18,9% [12],
[16]. Các yếu tố nguy cơ chủ yếu liên quan tới bệnh cong vẹo cột sống học
đường trong nghiên cứu này là bàn ghế học sinh (chưa đúng kích cỡ, sai qui

cách), tư thế ngồi học của học sinh (ngồi sai tư thế), sự thiếu hụt về kiến thức,
thực hành phòng tránh bệnh cong vẹo cột sống học đường của học sinh, cha
mẹ và giáo viên [12].
Đào Thị Mùi và cộng sự (2008) sau đánh giá thử nghiệm biện pháp
phòng tránh bệnh cong vẹo cột sống cho học sinh trường tiểu học Cổ Bi trong
hai năm học 2005-2006 và 2006-2007 cho kết quả tư thế ngồi học sai của học
sinh tiểu học là vấn đề bức xúc nhất và việc sửa chữa tư thế ngồi học sai cho
học sinh tiểu học là rất khó khăn, đòi hỏi công sức và sự kiên trì của các giáo
viên chủ nhiệm [26].
Một số nghiên cứu chỉ ra rằng điều kiện và trang bị học tập tại các
trường học hiện nay chưa phù hợp với tiêu chuẩn vệ sinh và không đáp ứng
được yêu cầu phát triển thể lực của học sinh. Nghiên cứu của Dương Thị
Hương (2003) trên 2000 học sinh tiểu học và THCS tại 4 trường ở Hải Phòng
cho thấy 100% bàn ghế không phù hợp với chiều cao của học sinh, chiếu sáng


14

trong phòng học yếu, nhất là mùa đông [25]. Một số tác giả khác nghiên cứu
cho kết quả bàn ghế hiện nay rất không phù hợp với học sinh, đặc biệt là ghế
quá cao, hoặc quỏ sõu, hẹp, không phù hợp với đặc điểm nhân trắc của học
sinh [18], [19], [27]
Cho tới nay tại Việt Nam, mặc dù có nhiều nghiên cứu về y tế trường
học đã được công bố nhưng các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào tình
hình sức khỏe học sinh, ít có nghiên cứu về các hoạt động YTTH. Các nghiên
cứu tập trung vào tìm hiểu bệnh trường học ở học sinh (cong vẹo cột sống,
cận thị), tai nạn thương tích ở học sinh và một số yếu tố ảnh hưởng như
nghiên cứu của Trần Văn Dần [10], [13], [14], [12], nghiên cứu về cận thị và
cong vẹo cột sống của Vũ Đức Thu, Chu Văn Thăng [45], Trần Thị Dung
[20], [21], Trần Công Huấn [25], Nguyễn Văn Liên [31], Nguyễn Hữu Nghị

[35], Đặng Anh Ngọc [37], [38], [39], Hoàng Văn Tiến [47], [48], nghiên cứu
mối liên quan giữa môi trường sống và sức khỏe của học sinh như Nguyễn Võ
Kỳ Anh [1]. Bờn cạnh đó một số can thiệp cũng đã được tiến hành nghiên cứu
đánh giá như mô hình thí điểm phòng chống chấn thương dựa vào cộng đồng
học sinh trường THCS của Hoàng Văn Phong năm 2001 [41], mô hình phòng
chống cận thị của Hoàng Văn Tiến năm 2005 [48], mô hình thử nghiệm biện
pháp phũng trỏnh bệnh cong vẹo cột sống cho học sinh tiểu học của Đào Thị
Mùi từ 2005-2007. Về hoạt động YTTH, cho tới nay đã có một nghiên cứu
của tổ chức Plan tại Việt Nam năm 2005 [49] và báo cáo tổng hợp của Vụ Y
tế dự phòng- Bộ Y tế năm 2002 [51]
Theo báo cáo tổng hợp tình hình y tế trường học năm 2002 của Bộ Y tế,
chỉ có 44/61 tỉnh thành phố có báo cáo về y tế trường học, trong đó 40/61 tỉnh
thành có ban chỉ đạo cấp tỉnh theo hướng dẫn của liên Bộ Y Tế và Bộ Giáo
dục và Đào tạo, 30/61 tỉnh có văn bản liên ngành y tế và giáo dục hướng dẫn
các cấp thực hiện. Chưa có tỉnh nào có đủ ban chỉ đạo y tế truờng học cấp


15

huyện. Các hoạt động y tế trường học triển khai chưa nhiều, nơi có triển khai
cũng chỉ có một số nội dung như tạo phong trào xanh sạch đẹp, cung cấp
nước uống cho học sinh, các công trình vệ sinh có tiến bộ nhưng cũng chỉ đạt
khoảng 50% yêu cầu, công tác khám sức khoẻ định kỳ, quản lý hồ sơ sức khoẻ
hầu hết chưa thực hiện theo quy định. Toàn quốc chưa có số liệu chính thức về các
bệnh trường học như cận thị và cong vẹo cột sống ở học sinh… [51].
Có nhiều khó khăn, tồn tại trong việc thực hiện hoạt động YTTH chưa
được giải quyết như vấn đề đội ngũ cán bộ y tế trường học, kinh phí cho hoạt
động y tế trường học, trách nhiệm của mỗi ngành (Y tế và Giáo dục) chưa
được xác định rõ ràng, vấn đề bảo hiểm y tế học sinh chưa được cha mẹ học
sinh và các nhà trường quan tâm, cơ sở vật chất nhà trường nói chung và cơ

sở vật chất cho y tế trường học còn rất nghèo nàn. Những vấn đề này đã và
đang là trở ngại cho việc nâng cao chất lượng và hiệu quả y tế trường học của
từng địa phương và cả nước [47], [49], [51].
Theo tài liệu vệ sinh học đường của Bộ Y tế năm 2002, y tế trường học
gồm 5 nội dung là vệ sinh học đường, phòng chống các bệnh truyền nhiễm,
phòng chống các bệnh thường gặp khác, nha học đường (chăm sóc vệ sinh
răng miệng) và sơ cấp cứu ban đầu cho học sinh. Tuy nhiên việc thực hiện các
nội dung này ở các trường học hiện nay còn chưa đồng nhất và nhiều bất cập
[49], [51]. Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu về sức khỏe trường học, vệ
sinh trường học của các tác giả như Trần Văn Dần [10], [11], [12], [14],
Nguyễn Võ Kỳ Anh [1], [2], Nguyễn Bích Diệp [18], [19], Đặng Anh Ngọc
[37], [38], [39], Hoàng Văn Tiến [37], [38] nhưng nghiên cứu về các hoạt
động YTTH cụ thể, những khó khăn trong quá trình triển khai thỡ cũn chưa
được đầy đủ [29].


16

Chính vì vậy, nghiên cứu một cách có hệ thống về hoạt động y tế trường
học tại nước ta là một nhiệm vụ cần thiết, nú giỳp cho các nhà quản lý và
hoạch định chính sách đẩy mạnh các hoạt động y tế trường học nhằm nâng
cao sức khỏe cho học sinh trong thời gian tới. Nhiệm vụ này đó cú một đề tài
khoa học công nghệ cấp Bộ “Nghiờn cứu thực trạng công tác y tế trường học
ở Việt Nam hiện nay và đề xuất mô hình quản lý phù hợp” được thực hiện
trong hai năm 2007-2009 tại ba tỉnh (Phú Thọ, Quảng Bình, Đồng Nai) thuộc
ba miền của đất nước.
Huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ là một huyện miền núi của một tỉnh
trung du Bắc Bộ. Cho tới nay, chưa có một nghiên cứu đầy đủ nào tại huyện
về thực trạng hoạt động về y tế trường học ra sao, có những khó khăn nào
ảnh hưởng tới hoạt động y tế trường học. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên

cứu đề tài ôNghiên cứu thực trạng y tế trường phổ thông tại huyện Tam
Nông tỉnh Phú Thọ năm học 2007-2008ằ, là một phần trong đề tài cấp Bộ,
nhằm cung cấp các thông tin cần thiết để từ đó đề xuất một số giải pháp
can thiệp đẩy mạnh hoạt động YTTH tại huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ
trong thời gian tới


17

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm nghiên cứu:
Huyện Tam Nông là huyện thuộc vùng miền núi nằm ở phía Đông Nam
tỉnh Phú Thọ. Huyện có địa hình núi cao xen kẽ với các đồng bằng nhỏ. Địa
hình huyện không thuận lợi nên kinh tế huyện còn chậm phát triển, đời sống
nhân dân gặp nhiều khó khăn.
2.2. Đối tượng nghiên cứu:
- Cán bộ y tế trường học tại các trường tiểu học (TH), trung học cơ sở
(THCS) và trung học phổ thông (THPT) được chọn : Trường TH Hương Nộn,
THCS Nguyễn Quang Bích, THPT Tam Nông.
- Cán bộ y tế phụ trách công tác y tế trường học tại tất cả các trường trong huyện
- Học sinh lớp 4, lớp 8 và lớp 11 tại các trường được chọn
- Giáo viờn các trường TH, THCS và THPT của từng trường được chọn
- Đại diện Hội cha mẹ học sinh các trường được chọn
- Cán bộ quản lý và lập chính sách về y tế trường học của ngành y tế, giáo
dục được chọn : lãnh đạo, chuyên viên Trung tâm y tế dự phòng, phòng Giáo
dục huyện, hiệu trưởng, hiệu phó trường THPT, THCS, TH.
- Các báo cáo, nghiên cứu, số liệu có sẵn về y tế trường học tại tỉnh Phú
Thọ và huyện Tam Nông năm học 2007 - 2008

2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang (phối hợp định tính và định lượng).
2.3.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu:


18

2.3.2.1. Nghiên cứu định tính:
Tại các trường được chọn ngẫu nhiên vào mẫu nghiên cứu :
Cấp huyện: Đã phỏng vấn sâu 5 đối tượng bao gồm
- Phó Giám đốc Trung tâm y tế dự phòng huyện Tam Nông
- Chuyên viên phòng Giáo dục đào tạo huyện Tam Nông
- Hiệu phó trường THPT Tam Nông
- 1 Giáo viên trường trung học phổ thông huyện Tam Nông
- 1 Cán bộ y tế trường học của trường trung học phổ thông huyện Tam Nông
Cấp xã: phỏng vấn sâu 8 đối tượng
- 1 Trưởng trạm y tế xã Hương Nộn
- 1 Hiệu trưởng trường tiểu học Hương Nộn
- 1 Hiệu phó trường trung học cơ sở Nguyễn Quang Bích
- 1 Giáo viên trường tiểu học Hương Nộn
- 1 Giáo viên trường trung học cơ sở Nguyễn Quang Bích
- 1 Cán bộ y tế trường học trường tiểu học Hương Nộn
- 1 Cán bộ y tế trường học trường THCS Nguyễn Quang Bích
- 1 đại diện Hội cha mẹ học sinh trường trung học cơ sở Nguyễn Quang Bích
Tổng cộng đã tiến hành 13 cuộc phỏng vấn sâu tại huyện Tam Nông
2.3.2.2. Nghiên cứu định lượng
Nghiên cứu định lượng đã được tiến hành trên 2 nhóm đối tượng:
- Cán bộ y tế trường học:
Tất cả các cán bộ y tế trường học của 43 trường phổ thông (tiểu học,



19

trung học cơ sở và trung học phổ thông) trong huyện Tam Nông. Thực tế đã
phỏng vấn được 32 cán bộ y tế trường học trong tổng số 43 cán bộ y tế trường
học trong toàn huyện.
- Học sinh:
Cỡ mẫu cho nghiên cứu điều tra ở học sinh từng khối (lớp 4, lớp 8 và
lớp 11) được tính theo công thức tính cỡ mẫu cho một nghiên cứu tỷ lệ trong
quần thể
pq
n= Z2(1-α/2)------------------------(εp)2
Trong đó:
Với độ tin cậy 95%: Z=1.96
p=0,4 (là tỷ lệ học sinh cong vẹo cột sống cần được chăm sóc ước tính)
(theo Trần Văn Dần năm 2005)
q=1-p; ε=0,1

1,962x0,4x0,6
n= ---------------------------- ≅ 300 học sinh
(0,15x0,4)2
Cách chọn mẫu cho đối tượng học sinh:
Số học sinh được lựa chọn vào nghiên cứu theo các bước như sau:
Bước 1: chọn ngẫu nhiên một huyện khu vực miền núi được Huyện
Tam Nông
Bước 2: Tại huyện Tam Nông, chọn ngẫu nhiên một trường trung học
phổ thông trong danh sách các trường hiện có trong huyện. Đối với các trường



20

tiểu học và trung học cơ sở, chọn ngẫu nhiên một xã đại diện trong huyện và
lựa chọn ngẫu nhiên một trường tiểu học và một trường trung học cơ sở của xó
đú. Tổng cộng có 3 trường vào nghiên cứu : 1 trường THPT huyện Tam
Nông, 1 trường THCS Nguyễn Quang Bích và 1 trường TH xã Hương Nộn
Bước 3: Tại mỗi trường được lựa chọn, chọn chủ đích các khối lớp 4 của
trường TH, khối lớp 8 của trường THCS và khối lớp 11 của trường THPT
Bước 4: Tại mỗi khối chọn ngẫu nhiên 3 lớp trong từng khối và tại 3
lớp chọn ngẫu nhiên cho đủ 100 học sinh thì dừng lại với lựa chọn số nam và
số nữ ngang nhau
Thực tế đã lựa chọn 306 học sinh ở 3 trường lựa chọn (106 học sinh
tiểu học, 100 học sinh trung học cơ sở và 100 học sinh trung học phổ thông)
2.3.3. Kỹ thuật thu thập số liệu:
Nghiên cứu đã sử dụng các kỹ thuật như phỏng vấn theo bộ câu hỏi bán cấu
trúc có sẵn, phỏng vấn sâu, quan sát, dùng bảng kiểm, photo tài liệu gốc và
phiếu cung cấp thông tin
- Thu thập các văn bản pháp quy, báo cáo và số liệu sẵn có tại Sở Y tế,
Sở Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh, Phòng Giáo
dục và Đào tạo, trạm y tế xã, trường tiểu học, trung học cơ sở, trung
học phổ thông
- Phỏng vấn sâu một số cán bộ chủ chốt về các hoạt động YTTH hiện tại,
những kết quả, tồn tại, lý do và đề xuất giải pháp nâng cao hoạt động
YTTH
- Phỏng vấn học sinh và cán bộ y tế trường học theo bộ câu hỏi thiết kế
có sẵn về việc thực hiện các hoạt động y tế trường học


21


- Quan sát thực tế điều kiện vệ sinh và lớp học theo bảng kiểm để thu
thập điều kiện cơ sở học tập và trường lớp
- Thu thập các số liệu có sẵn về hoạt động y tế trường học tại địa phương
theo mẫu phiếu có sẵn
2.3.4. Biến số nghiên cứu:
Bảng biến số nghiên cứu
Biến số

Định nghĩa

Loại biến số Công cụ thu Kỹ thuật thu thập
thập thông tin thông tin

1. Đặc trưng của địa điểm và đối tượng nghiên cứu
Khu vực

Cấp học

Thành thị, nông Danh mục
thôn, miền núi (theo
phân loại của địa
phương)

Phiếu thu thập Thu thập thông
thông tin sẵn tin sẵn có theo
có, bảng hỏi
mẫu

Tiểu học,
THPT


Phiếu thu thập Thu thập thông
thông tin sẵn tin sẵn có theo
có, bảng hỏi
mẫu

THCS, Thứ hạng

Bảng hỏi học
sinh, giáo viên,
cán bộ YTTH

Bảng hỏi học
sinh, giáo viên,
cán bộ YTTH
Mục tiêu 1: Mô tả hoạt động YTTH tại tỉnh Phú Thọ năm học 2007 – 2008
Chương
Bao gồm tất cả các Danh mục
trình YTTH chương trình nhằm
đã thực hiện
nâng cao sức khỏe
cho học sinh đã thực
hiện tại Phú Thọ
năm học 2007-2008

Phiếu thu thập Thu thập thông
thông tin sẵn tin sẵn có theo

mẫu theo cấp
tỉnh, huyện và xã


Nhóm biến số về giáo dục nâng cao sức khỏe tại trường học


22

Nội
dung
tuyên
truyền giáo
dục
sức
khỏe
cho
học sinh

Là các nội dung đã Nhị phân
tuyên truyền cho học
sinh bằng các hình
thức khác nhau (trừ
phòng chống cận thị,
phòng chống cong
vẹo cột sống)

Phiếu thu thập Thu thập ý kiến
thông tin
của học sinh theo
Phiếu thu thập mẫu phiếu

Là hoạt động nhằm Nhị phân

về cung cấp cho học
sinh kiến thức về
cận cách phòng chống
cận thị, có thể chính
khóa hoặc ngoại
khóa bằng nhiều
hình thức khác nhau

Phiếu thu thập Thu thập ý kiến
thông tin
của học sinh theo
Phiếu thu thập mẫu phiếu

Tuyên
Là hoạt động nhằm Nhị phân
truyền
về cung cấp cho học
phòng
sinh kiến thức về cách
chống cong phòng chống cong
vẹo
cột vẹo cột sống, có thể
sống
thực hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau

Phiếu thu thập Thu thập ý kiến
thông tin
của học sinh theo
Phiếu thu thập mẫu phiếu


Tổ
chức Là hoạt động khám Nhị phân
khám sức sức khỏe cho học sinh
khỏe định được diễn ra đều đặn
kỳ
(6 tháng hoặc một
năm một lần)

Phiếu
cung Thu thập thông
cấp số liệu có tin sẵn có theo
sẵn
mẫu theo cấp
Phiếu thu thập tỉnh, huyện và xã

Tuyên
truyền
phòng
chống
thị

số liệu có sẵn

số liệu có sẵn

số liệu có sẵn

Thu thập thông
tin sẵn có theo

mẫu

Thu thập thông
tin sẵn có theo
mẫu

Thu thập thông
tin sẵn có theo
mẫu

thông tin

Nhóm biến số về dịch vụ YTTH
Khám sức Là hoạt động khám Nhị phân
khỏe định kiểm tra sức khỏe do
kỳ
nhà trường tổ chức
thường xuyên cho
học sinh

Phiếu thu thập Thu thập ý kiến
thông tin
của học sinh theo
Phiếu thu thập mẫu phiếu

Khám và sơ Là hoạt động được Nhị phân
cứu ban đầu thực hiện tại trường

Phiếu thu thập Thu thập ý kiến
thông tin

của học sinh theo

số liệu có sẵn

Thu thập thông tin
sẵn có theo mẫu


23

cho những học sinh
có vấn đề về sức
khỏe
Hồ sơ lưu
giữ
sức
khỏe
cho
học sinh

Có là khi có lưu trữ Nhị phân
hồ sơ kết quả khám
sức khỏe cho học
sinh tại trường

Khám cong Là hoạt động nhằm Nhị phân
vẹo
cột phát hiện bệnh cong
sống
vẹo cột sống ở học

sinh

Khám phát Là hoạt động nhằm Nhị phân
hiện cận thị phát hiện tật cận thị
ở học sinh

Phiếu thu thập mẫu phiếu
số liệu có sẵn Thu thập thông
tin sẵn có theo
mẫu
Phiếu thu thập Thu thập ý kiến
thông tin
của học sinh theo
Phiếu thu thập mẫu phiếu
số liệu có sẵn

Thu thập thông
tin sẵn có theo
mẫu
Phiếu thu thập Thu thập ý kiến
thông tin
của học sinh theo
Phiếu thu thập mẫu phiếu
số liệu có sẵn Thu thập thông
tin sẵn có theo
mẫu
Phiếu thu thập Thu thập ý kiến
thông tin
của học sinh theo
Phiếu thu thập mẫu phiếu

số liệu có sẵn

Nhóm biến số về môi trường học tập
Trường lớp Theo qui định của Nhị phân
đạt
tiêu Bộ giáo dục đào tạo,
chuẩn
vệ có đạt tiêu chuẩn hay
sinh xanh không
sạch đẹp
Phòng học Đủ ánh sáng là Nhị phân
đủ ánh sáng phòng học có chỉ số
chiếu sáng từ 1/5-1/4
và độ rọi đo bằng

Thu thập thông
tin sẵn có theo
mẫu

Phiếu thu thập Thu thập thông
số liệu có sẵn tin sẵn có theo
Bảng
kiểm mẫu
quan sát

Quan sát theo
bảng kiểm

Phiếu thu thập Thu thập thông
số liệu có sẵn tin sẵn có theo

Bảng
kiểm mẫu


24

Luximetre cách mặt
đất 80 cm ở giữa
phòng học tối thiểu
là 30 Lux và tối đa
không quá 700 Lux
Bàn
đảm
TCVS

ghế Bàn ghế đảm bảo Nhị phân
bảo TCVS khi hệ số sử
dụng bàn ghế không
vượt quá 25 cm với
học sinh tiểu học, 30
cm với học sinh
trung học cơ sở,
35cm với học sinh
phổ thông trung học

Diện
tích
phòng học/
học sinh đạt
tiêu chuẩn


Đạt tiêu chuẩn khi Nhị phân
diện tích từ 1 m2 đến
1,25 m2 cho một học
sinh, tối thiểu là 0,8
m2

quan sát

Quan sát theo
bảng kiểm

Bảng kiểm

Quan sát theo
bảng kiểm

Bảng kiểm

Quan sát phòng
học theo bảng
kiểm

Mục tiêu 2: Nguồn nhân lực thực hiện hoạt động YTTH
Cán
YTTH

bộ Phân làm ba loại: Danh mục
chuyên trách (có
biên chế riêng), kiêm

nhiệm và hợp đồng

Phiếu thu thập
thông tin
Phiếu thu thập
số liệu có sẵn

Thu thập thông
tin từ giáo viên
và cán bộ YTTH
Thu thập thông
tin sẵn có theo
mẫu

Số
năm Là số năm mà một Định lượng
kinh
cán bộ đã thực hiện
nghiệm làm về YTTH
việc
về
YTTH

Phiếu thu thập Thu thập thông
thông tin
tin từ giáo viên
và cán bộ YTTH

Tập huấn ít Có nếu đã được Nhị phân
nhất một lần tham gia tập huấn ít

về YTTH
nhất một lần từ năm
2002 đến 2007

Phiếu thu thập Thu thập thông
thông tin
tin từ giáo viên
và cán bộ YTTH


25

Giáo viên Là các giáo viên vừa Nhị phân
tham
gia tham gia giảng dạy
YTTH
vừa tham gia và/
hoặc hỗ trợ hoạt
động YTTH

Phiếu thu thập Thu thập thông
thông tin
tin từ giáo viên

2.3.5. Xử lý và phân tích số liệu
- Làm sạch số liệu
- Nhập số liệu: mó hoỏ số liệu, tạo file số liệu bằng chương trình Epi info 6.04
- Phõn tích các số liệu thu được bằng phần mềm SPSS (13.0)
- Sử dụng test χ2 để kiểm định sự khác biệt giữa 2 tỷ lệ.
2.3.6. Các biện pháp khống chế sai số:

- Chọn đối tượng theo đúng tiêu chuẩn nghiên cứu
- Bộ câu hỏi được xây dựng theo mục tiêu, dễ hiểu và thu thập thử để
chỉnh sửa cho rõ ràng, dễ sử dụng và sát với thực tế
- Các định nghĩa được thống nhất trong nhóm nghiên cứu thông qua
tập huấn và sau tiến khi tiến hành thu thập thử.
- Người thu thập thông tin được tập huấn kỹ mục đích và cách thu
thập số liệu.
2.4. Thời gian nghiên cứu: từ tháng 10/2007 – tháng 9/2008.
2.5. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu:
- Mọi thông tin thu thập được đảm bảo chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
- Nghiên cứu được sự đồng ý và phê duyệt của địa phương và Bộ Y tế.
- Kết quả nghiên cứu được phản hồi cho các địa điểm nghiên cứu.


×