Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm môn mỹ thuật lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.12 KB, 19 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LỘC BÌNH
TRƯỜNG TIỂU HỌC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
VẼ TRANH ĐỀ TÀI PHONG CẢNH LỚP 5 – MÔN MĨ THUẬT

Tên tác giả:
Chức vụ: Giáo viên
Môn: Mĩ thuật
Đề tài nghiên cứu thuộc môn: Mĩ thuật
Đăng ký danh hiệu thi đua cấp: Cơ sở

NĂM HỌC


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ thực trạng về những khó khăn gặp phải trong quá trình thực hiện đến
việc giải quyết khắc phục và những thành công đạt được trong giảng dạy và học
tập môn Mỹ thuật của thầy giáo và học sinh trường Tiểu học xã Tĩnh Bắc năm học
2018– 2019 vừa qua; về việc áp dụng thành công và hiệu quả khái niệm “Lớp
cảnh” vào giảng dạy phân môn Vẽ tranh đề tài Phong cảnh, tôi thực hiện đề tài này
và qua đây mong nhận được sự chia sẻ, trao đổi và góp ý thêm của các đồng
nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Môn Mĩ thuật giúp các em hướng tới cái đẹp, góp phần giáo dục các em trở
thành những người có đạo đức. Ngoài ra nó còn giúp các em có tâm hồn phong
phú và bớt mệt mỏi sau những giờ học căng thẳng. Xuất phát từ đặc trưng bộ môn
thuộc phạm trù nghệ thuật đòi hỏi phải có sự hứng thú cao trong học tập.Từ yêu
cầu của việc đổi mới phương pháp là phát huy tính tích cực của học sinh. Từ tâm lí
học sinh là lứa tuổi nhạy cảm hiếu động ham thích vẽ, sử dụng màu sắc vì vậy khi
dạy Mĩ thuật giáo viên cần phải gây được tính tích cực hứng thú trong bài dạy điều


đó tạo cho học sinh sự phấn chấn, hào hứng để tiếp thu bài học một cách hiệu quả.
Từ thực tiễn giảng dạy cũng như thực tiễn của học sinh nông thôn vùng III không
có điều kiện để tiếp nhận tri thức về Mĩ thuật, cho nên trong tiết dạy học Mĩ thuật
giáo viên phải tạo được sự hứng thú trong giảng dạy và học tập sẽ giúp cho học
sinh say mê học tập. Mĩ thuật là một bộ môn năng khiếu giúp học sinh cảm thấy
thoải mái, vui vẻ hơn sau những giờ học căng thẳng từ đó phần nào thúc đẩy phong
trào văn hóa, thể thao và văn nghệ trong lớp, trong trường thích vui tươi lành mạnh
song giảng dạy Mĩ thuật cho tất cả các đối tượng cũng cần có phương pháp, nghệ
thuật để truyền tải được nội dung vì đa số học sinh có năng khiếu rất ít. Đổi mới
phương pháp giáo dục nhằm tích cực hóa quá trình học tập của học sinh. Khi giảng
dạy bài vẽ tranh phong cảnh, người giáo viên thường hướng dẫn học sinh thực hiện
vẽ bài giống như cách tiến hành tất cả các bài vẽ tranh đề tài sinh hoạt khác. Trên
thực tế bài vẽ tranh phong cảnh có những sự khác biệt nhất định so với bài vẽ tranh
đề tài sinh hoạt thông thường dẫn đến học sinh gặp lúng túng trong khi thực hành


bài vẽ dẫn đến hiệu quả giảng dạy và học tập của thầy cô giáo và học sinh chưa
cao.
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy, tìm hiểu học sinh, nghiên cứu tài liệu và
rút kinh nghiệm cho bản thân tôi thấy cần phải áp dụng khái niệm “Lớp cảnh” vào
trong bài giảng của Vẽ tranh đề tài phong cảnh. Sử dụng khái niệm “Lớp cảnh”
trong bài dạy Vẽ tranh Đề tài phong cảnh ở môn Mỹ thuật Tiểu học.
Vì vậy tôi chọn đề tài: “Vẽ tranh Đề tài phong cảnh lớp 5 – Mĩ thuật”
2. Mục đích nghiên cứu
Để nâng cao chất lượng dạy học và đặc biệt là giải quyết được những khó
khăn và tạo được hứng thú cho học sinh trong khi học môn Mỹ thuật, nhất là trong
phân môn Vẽ tranh, tôi thực hiện đề tài này nhằm trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm
cùng các đồng nghiệp với mong muốn nâng cao nghiệp vụ cho bản thân và tham
gia nghiên cứu khoa học… Hy vọng qua đề tài này các đồng nghiệp sẽ đồng ý với
quan điểm sáng tạo của tôi và cùng rút ra được thêm một kinh nghiệm nhỏ vào

việc truyền đạt kiến thức cho học sinh mà tôi đã dày công nghiên cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong điều kiện cho phép về khả năng của bản thân cũng như giới hạn về số
lượng học sinh của trường Tiểu học xã Tĩnh Bắc nơi tôi đã áp dụng thể nghiệm,
nay tôi không tham vọng giải quyết nhiều vấn đề mà chỉ tập trung nêu bật khái
niệm “Lớp cảnh” để áp dụng vào việc giảng dạy bài Vẽ tranh đề tài Phong cảnh
trong chương trình Mỹ thuật Tiểu học được hiệu quả hơn.
4.Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung áp dụng vào giải quyết vấn đề trong phần Vẽ tranh Đề tài
phong cảnh ở các lớp 3,4,5
5. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ tình hình thực tiễn về điều kiện của bản thân, đối tượng nghiên cứu
và phạm vi nghiên cứu của đề tài tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu tài liệu.
- Quan sát
- Nghiên cứu, thực hành.


- Tổng hợp.
6. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
Về mặt lý luận có thể còn có chỗ thiếu sót hoặc chưa chặt chẽ vì kinh
nghiệm bản thân còn có hạn, nhưng tôi tin rằng sự phát hiện khái niệm mới mẻ với
việc giải quyết vấn đề dưới đây và việc áp dụng vào giảng dạy của tôi đã có những
thành công nhất định. Tính thực tiễn là học sinh đã biết cách phân biệt được cách
vẽ tranh phong cảnh so với tranh các đề tài sinh hoạt khác nhau ở những điểm nào.
Từ đó học sinh không còn bị lệ thuộc vào các phương pháp vẽ tranh như trước đây
nữa mà đã sáng tạo hơn, bài vẽ đẹp hơn. Qua đó tôi tin tưởng việc đưa khái niệm
“Lớp cảnh” vào chương trình là khoa học và có hiệu quả thực sự.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí thuyết

Vẽ tranh là phân môn tổng hợp tất cả các kỹ năng khác của môn Mĩ thuật
như: Kỹ năng vẽ theo mẫu, kỹ năng trang trí, kỹ năng sử dụng màu sắc, kỹ năng
vận dụng luật xa gần, kỹ năng phối cảnh, vận dụng ánh sáng, vv…
- Phân môn Vẽ tranh trong chương trình Mĩ thuật Tiểu học gồm các phần:
* Vẽ tranh về đề tài sinh hoạt cuộc sống con người như: Đề tài Gia đình; Đề
tài Bộ đội; Đề tài Ngày Tết, lễ hội và mùa xuân vv…
* Vẽ tranh về đề tài Phong cảnh như: Phong cảnh quê hương; Cảnh đẹp đất
nước, vv…
- Từ trước tới nay trong khi dạy bài vẽ tranh phong cảnh cho học sinh, ở
bước hướng dẫn học sinh tìm bố cục cho bài vẽ, người giáo viên chỉ quen dùng
khái niệm mảng chính, mảng phụ như khi hướng dẫn ở các bài vẽ tranh đề tài sinh
hoạt bình thường mà không đề cập đến một khái niệm rất quan trọng đó là “lớp
cảnh”, dẫn đến việc học sinh lúng túng, khó khăn trong tìm bố cục và hình ảnh để
đưa vào bài vẽ cho phù hợp, sinh động và hiệu quả hơn. Ví dụ: Bài vẽ tranh Đề tài
Phong cảnh ở Bài 7 lớp 4, đây là bài vẽ đầu tiên trong chương trình Mỹ thuật Tiểu
học về loại đề tài này. Ở bài học này sách giáo khoa và sách giáo viên không nêu
khái niệm hay hướng dẫn về cách tìm mảng hình trong bài học. Đây là một thiếu
sót quan trọng.


2. Cơ sở thực tiễn
Đơn vị trường tôi được tách ra từ trường THCS xã Tĩnh Bắc năm 2012 và
tôi nhận công tác giảng dạy Mĩ thuật tại trường năm 2009 do là xã vùng III cách
Thị trấn Lộc Bình 23km đường xá đi lại khó khăn, nắng thì bụi, mưa thì lầy lội các
em học sinh gần như sống biệt lập với môi trường bên ngoài. Do đó Bộ môn Mĩ
thuật là một món ăn tinh thần rất hữu ích cho các em. Tuy nhiên tôi nhận thấy rằng
còn có một số vấn đề cần đưa vào áp dụng để nâng cao chất lượng bộ môn đặc
biệt là việc “ Giúp học sinh hiểu về cách vẽ tranh phong cảnh vào phương pháp
dạy học Mĩ thuật ở trường tiểu học”
- Mặc dù đơn vị trường tôi đã được xây dựng cơ sở vật chất riêng và từ năm

2012 được đưa vào sử dụng tuy nhiên cơ sở vật chất còn thiếu thốn chưa có phòng
học riêng dành cho bộ môn Mĩ thuật, hệ thống tranh ảnh đã cũ do sử dụng lâu
năm…. Việc học sinh được tiếp cận với cái đẹp, các phương pháp học tập hiện đại
hầu như không có. Mặc dù môn Mĩ thuật là phân môn đặc thù sinh động thu hút
học sinh, các chủ điểm của bài học cũng rất gần gũi với cuộc sống các em, tuy
nhiên những hạn chế về cơ sở vật chất đã và đang gây khó khăn và ảnh hưởng rất
lớn đến việc dạy và học cũng như cũng như việc mở rộng vốn kiến thức.
- Đồng hành cùng với sự phát triển của ngành, phương pháp dạy và học
được đổi mới, sách giáo khoa cũng đã được thay cho phù hơn với phương pháp và
điều kiện của trẻ em Việt Nam dẫn tới nhiều học sinh yêu thích môn học hơn,
nhưng đó chỉ là đại bộ phận các em học sinh có năng khiếu. Còn lại là một bộ phận
các em học sinh chậm tiến các em chưa trú tâm vào môn học, do đặc điểm của sự
phân bố vùng miền có các em vẫn ngại trưng bày bài vẽ, do điều kiện địa lí các em
vẫn chưa có điều kiện để tìm hiểu thêm về bộ môn.
- Do đặc điểm lứa tuổi và tâm sinh lý của lứa tuổi tiểu học là các em còn nhỏ
tuổi, ở nhà các em giao tiếp với cha mẹ chủ yếu bằng tiếng dân tộc nên trong lớp
các em còn rụt rè.
- Trường tôi đóng trên địa bàn xã vùng III giáp với Trung Quốc Gia đình các
em bố mẹ chủ yếu là làm ruộng nên những ngày nông nhàn bố mẹ đi sang Trung
Quốc làm thuê việc học tập của các em phó mặc cho thầy cô và nhà trường nên


việc kết hợp với gia đình các em gặp nhiều khó khăn, hiệu quả môn học chưa cao,
bố mẹ chưa chuẩn bị đủ đồ dùng học tập cho con cái đặc biệt là bút chì, tẩy, màu
vẽ...
- Mặc dù có phương pháp dạy học tiến bộ, tài liệu giảng dạy thu hút học
sinh, tuy việc nhận thức của học sinh trong lớp lại không đồng đều, có nhiều trình
độ học sinh. Do đó việc tổ chức các hoạt động dạy học gặp rất nhiều khó khăn, đặc
biệt khi lớp học một số học sinh cá biệt chỉ lợi dụng các hoạt động làm việc theo
cặp và nhóm để nói chuyện và làm việc riêng. Những thực trạng trên đã và đang là

một trở ngại lớn trong quá trình dạy và học môn Mĩ thuật. Do vậy đòi hỏi giáo viên
phải có phương pháp sư phạm tốt, chủ động sáng tạo, luôn cải tiến phương pháp
luyện tập bằng nhiều hình thức khác nhau, nhiều dạng bài tập khác nhau phù hợp
cho từng nội dung bài học để gây hứng thú và động viên tất cả học sinh nhiệt tình
tham gia luyện tập.
3. Thực trạng của vấn đề, nội dung sáng kiến nghiên cứu thực hiện
Nội dung đề tài gồm:
a, Thu thập, phân tích và xử lý các tài liệu cơ bản của lớp 3,4,5 trường Tiểu
học xã Tĩnh Bắc. Trên cơ sở thu thập các tài liệu, hồ sơ, sổ sách: Học bạ, sổ điểm,
sổ liên lạc, sổ chủ nhiệm. Đề tài đã tiến hành thu thập những số liệu, minh chứng
đồng thời phân tích để đưa ra những nhận đình về :
- Đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh.
- Mức độ hứng thú của các em với môn học.
- Quan điểm về tầm quan trọng của bộ môn với từng học sinh.
- Mức độ quan tâm của gia đình đến việc học của học sinh.
- Mức độ thường xuyên tham gia các hoạt động học tập, tham gia lớp học.
Qua đó, đề tài đã vẽ lên một bức tranh tổng quan về thực trạng của các lớp
về kỹ năng quan sát, cảm nhận nói riêng với bộ môn Mĩ thuật nói chung. Trên cơ
sở dữ liệu đó đánh giá được sơ bộ nguyên nhân của tình trạng hạn chế trong việc
quan sát, cảm nhận và diễn tả trong bộ môn Mĩ thuật.
b. Quan sát và đánh giá năng lực sáng tạo và rèn kỹ năng vẽ của bộ môn Mĩ
thuật


Đề tài đã tiến hành quan sát thực nghiệm với học sinh trong các tiết học ở
phần tìm nội dung đề tài và thực hành vẽ trong chương trình Mĩ thuật lớp 3,4,5
c. Phân tích, đánh giá thực trạng về việc học và rèn kỹ năng chọn đề tài để
vẽ trong bộ môn Mĩ thuật của học sinh 3 lớp 3A, 4A, 5A.
Qua kết quả theo dõi tài liệu, hồ sơ sổ sách và quan sát đánh giá năng lực
học và rèn kỹ năng vẽ trong bộ môn Mĩ thuật của học sinh trong 3 lớp nói trên là

bằng chứng để đưa ra những nhận định sau:
- 18/65 học sinh, chiếm 27,7% học sinh biết cách cảm nhận , ứng dụng tốt
kiến thực cơ bản trong các hoạt động thực hành vẽ. Tuy nhiên vẫn còn hạn chế
trong trình bày sáng tạo.
- Có 47/65 học sinh, chiếm 72,3% các em còn rụt rè, chưa nhận thức được
tầm quan trọng của việc học Mĩ thuật, các em còn xao nhãng trong việc học và rèn
luyện ở nhà.
d. Đề xuất những biện pháp để nâng cao hiệu quả việc học và rèn kỹ năng vẽ
của học sinh.
Trên cở sở những nghiên cứu và thực trạng trên đề xuất ra những biện pháp,
thủ thuật dạy học và rèn kỹ năng vẽ tranh hợp lý, hiệu quả và phù hợp với điều
kiện của đơn vị.
e. Đánh giá hiệu quả của đề tài với việc học vẽ tranh của học sinh.
Sau khi có các biện pháp dạy Mĩ thuật phù hợp với đơn vị cần đánh giá hiệu
quả với việc học và rèn kỹ năng vẽ, cảm thụ cái đẹp ở trong tranh của học sinh.
Các em nắm được quy trình vẽ đúng cách và chuẩn mực.
* Thuận lợi: Bản thân được đào tạo về bộ môn Mĩ thuật, có tinh thần học
hỏi, yêu nghề, mến trẻ.Tôi rất thích tìm tòi, khám phá về bộ môn, nhất là những gì
liên quan đến học sinh.
Bản thân tôi đã trang bị máy tính riêng, kết nối mạng để phục vụ cho công
tác giảng dạy nên việc tìm tài liệu cũng dễ dàng.
Trường có trang bị máy chiếu, hệ thống tranh ảnh tài liệu về bộ môn.
Học sinh trường tôi rất ham học hỏi, rất chăm ngoan, thích khám phá những
điều mới lạ. Bên cạnh đó nhà trường còn luôn nhận được sự quan tâm ủng hộ, tạo


điều kiện thuận lợi của nghành giáo dục huyện Lộc Bình. Ngoài ra bản thân tôi
luôn được BGH và đồng nghiệp tạo điều kiện giúp đỡ
100% em học sinh là con em dân tộc thiểu số: Ngoan, hiền lễ phép với thầy
cô, hòa nhã với bạn bè, nghe lời ông bà, cha mẹ.

Khó khăn: Trường Tiểu học xã Tĩnh Bắc nơi tôi công tác là xã vùng III còn
nhiều khó khăn. Trường lớp,cơ sở vật chất và các trang thiết bị đồ dùng dạy học để
phục vụ cho việc dạy và học còn thiếu thốn như: tranh ảnh, tượng, phòng đa năng...
Đa số các em là con em nông thôn và lao động tự do nên các em ít được quan tâm
đến việc học tập nói chung và môn Mĩ thuật nói riêng. Vì vậy học sinh không lo
học, từ đó hiểu biết về Mĩ thuật đang còn hạn chế, chưa sâu rộng, không kích thích
các em tham gia học tập đáp ứng nhu cầu môn học, bài học. Đa số các em bị chi
phối, ảnh hưởng về các môn “chính - phụ”. Các em dành thời gian và quan tâm tới
“môn chính”, lo cho thi kiểm tra, lo cho điểm số đánh giá, nên phần nào sao nhãng
việc học môn Mĩ thuật.
b. Thành công - hạn chế
Thành công: Khi truyền thụ cách thức vẽ tranh vào giảng dạy môn Mĩ thuật
đến nay, tôi nhận thấy quá trình học tập của các em trở nên tự giác hơn, các em yêu
thích môn Mĩ thuật hơn, tạo nên niềm vui trong sáng và bổ ích, bồi dưỡng cho các
em tình thần học tập, các em tỏ ra thích thú và không còn e ngại khi trình bày một
bài vẽ trước tập thể, tạo sự hưng phấn đồng đều giữa các em để các em có được sự
hòa đồng trong nhận thức và học tập.
Hạn chế: Vẫn còn những họ sinh cá biệt chưa có ý thức trong học tập và rèn
luyện đạo đức chủ yếu do tác động từ gia đình( phụ huynh còn chưa quan tâm do
bận làm kinh tế).Thời gian giảng dạy bộ môn ít nên không tiếp xúc gần gũi với học
sinh được nhiều
c. Mặt mạnh - mặt yếu
Mặt mạnh: Giáo viên được tham gia các buổi tập huấn sử dụng công nghệ
thông tin tại trường và tại phòng giáo dục.
Giáo viên nhiệt tình, sáng tạo, có ý thức đổi mới phương pháp dạy học.


Trường đã kết nối mạng nên việc tìm các tư liệu, hình ảnh dễ dàng hơn;
Trường đã có máy chiếu, đồ dùng phục vụ cho dạy và học.
Giáo viên đã có nhiều năm công tác ở vùng sâu nên có nhiều kinh nghiệm về

dạy học.
Học sinh thường rất say mê và hứng thú học tập môn Mĩ thuật.
Mặt yếu: Việc chuẩn bị cho một giáo án đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư
về thời gian và các điều kiện phục vụ tiết dạy như hình ảnh, tài liệu,...
Giờ học còn bị chi phối và phụ thuộc vào các điều kiện như phòng học, các
đồ dùng dạy học cần thiết khác.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Trường còn một số đồ dùng dạy học phục vụ cho môn Mĩ thuật còn thiếu
thốn: Tranh ảnh, tượng, màu vẽ...Phụ huynh các em cũng như các em chưa thực sự
quan tâm tới môn học Mĩ thuật. Từ đó các em không thích học vì không đủ dụng
cụ học tập. Để khắc phục những khó khăn nêu trên đồng thời giúp học sinh thỏa
mãn những hứng thú bằng những bài tập thực hành, những trò chơi bổ ích. Tôi cho
rằng việc ứng dụng vẽ tranh phong cảnh nói riêng và vẽ tranh nói chung trong
giảng dạy Mĩ thuật cần sớm được thực hiện và phổ biến rộng rãi tới đội ngũ giáo
viên đang làm nhiệm vụ giảng dạy bộ môn Mĩ thuật ở tất cả các trường tiểu học.
Hơn nữa điều kiện ở các em sinh sống, việc tiếp cận với những tác phẩm
nghệ thuật, các bài vẽ của thiếu nhi còn hạn chế. Thời gian dạy vẽ ở nhà trường chỉ
được phân bố 1 tiết/ tuần với thời lượng 35 phút. Do sự phát triển trí tuệ chưa hoàn
chỉnh, tâm lí chưa ổn định nên ở lứa tuổi này các em dễ nhớ nhưng lại rất hay quên
những bước thầy hướng dẫn. Có thể là tiết trước dạy các em nhưng tiết sau hỏi lại
thì các em đã quên từng bước vẽ, mà trong một tuần chỉ có một tiết. Vậy làm thế
nào để giúp học sinh học tốt. Đó là điều trăn trở của bản thân tôi mỗi khi lên lớp.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Mĩ thuật là một môn học độc lập trong chương trình Mĩ thuật Tiểu học. Vì
vậy việc dạy và học phải nghiêm túc, có kiểm tra và đánh giá thường xuyên, qua
đó để xếp loại học lực của học sinh bằng các nhận xét theo thông tư 30 dựa trên
chứng cứ của Bộ Giáo dục đưa ra . Song thực tế hiện nay cho thấy rằng môn học


này chưa được sự quan tâm của học sinh, nhất là các bậc phụ huynh. Như đã nói ở

trên các em bị chi phối, ảnh hưởng về các môn “chính - phụ”. Các em dành thời
gian và quan tâm tới “môn chính”, lo cho thi kiểm tra, lo cho điểm số đánh giá, nên
phần nào sao nhãng việc học môn Mĩ thuật. Các em ở đây chủ yếu là con em gia
đình khó khăn lao động tự do, và buôn bán nhỏ nên các em ít được quan tâm đến
việc học tập. Vì vậy với môn học Mĩ thuật cũng không ngoại lệ, học sinh ít được
quan tâm, vì thế hiểu biết về Mĩ thuật đang còn hạn chế, chưa sâu rộng, không kích
thích các em học tập.
Mĩ thuật là một bộ môn năng khiếu giúp học sinh thỏa sức sang tạo, cảm
thấy thoải mái, vui vẻ hơn sau những giờ học căng thẳng từ đó phần nào thúc đẩy
phong trào văn hoá văn nghệ trong lớp, trong trường thêm vui tươi lành mạnh. Vậy
giáo viên phải làm sao thu hút được học sinh vừa tìm hiểu được cái đẹp đồng thời
giúp các em say mê vẽ và sáng tạo phù hợp với lứa tuổi các em.
Trong chương trình Mĩ thuật ở tiểu học, học vẽ cơ bản là nội dung là trọng
tâm được thực hiện từ lớp 1 đến lớp 5, đây cũng là phân môn học sinh yêu thích.
Nhưng dạy chay các em dễ nhàm chán đòi hỏi phải có những đồ dùng dạy học vừa
mới lạ, để làm sao cá em thích thú với môn học hơn. Giai đoạn lứa tuổi 6 đến 11,
các em phát triển mạnh mẽ về thể chất, trí tuệ, tinh thần, các em ham hiểu biết
thích tìm tòi mọi thứ xung quanh. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên sẽ lĩnh hội
được kiến thức được chính xác, đầy đủ hơn. Chính vì vậy mà hình thức tổ chức các
hoạt động cho học sinh càng cần phải phong phú, hấp dẫn, càng gây hứng thú thu
hút, học sinh càng dễ tiếp thu dễ nhớ, lâu quên, nhẹ nhàng lĩnh hội kiến thức.Với
những hình thức dạy vẽ đơn thuần đã trở nên quá quen thuộc đối với thọc sinh, làm
học sinh nhàm chán nên hiệu quả giờ học không cao. Cần phải có những điều mới
lạ để thu hút sự tập trung chú ý của học sinh.
Hiện nay do sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông mà mọi
người đều có trong tay nhiều công cụ hỗ trợ cho quá trình dạy học nói chung và
phần mềm dạy học nói riêng. Là một giáo viên trẻ tôi cũng đã tích cực sử dụng các
phần mềm dạy học này sử dụng phần mềm paipoi để giúp các em có thêm vốn hiểu
biết về vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước mà từ đó học sinh hứng thú tham gia bài



học hơn trong môi trường học tập. Nhờ có máy tính điện tử mà việc thiết kế giáo
án và giảng dạy trên máy tính trở nên sinh động hơn, tiết kiệm được nhiều thời
gian hơn so với cách dạy theo phương pháp truyền thống, chỉ cần “bấm chuột”, vài
giây sau trên màn hình hiện ra ngay nội dung của bài giảng với những hình ảnh,
âm thanh sống động thu hút được sự chú ý và tạo hứng thú nơi học sinh. Thông
qua giáo án điện tử, giáo viên cũng có nhiều thời gian đặt các câu hỏi gợi mở tạo
điều kiện cho học sinh hoạt động nhiều hơn trong giờ học. Những khả năng mới
mẻ và ưu việt này của công nghệ thông tin và truyền thông đã nhanh chóng làm
thay đổi cách sống, cách làm việc, cách học tập, cách tư duy và quan trọng hơn cả
là cách ra quyết định của con người.
Có rất nhiều hình thức để tạo ra các giờ học hấp dẫn cho học sinh, việc sử
dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy cho học sinh cũng là hình thức rất
bổ ích đem lại hiệu quả cao.
Tôi đã bắt gặp nhiều học sinh tỏ ra băn khoăn lúng túng khi thực hiện bài vẽ
và đặt câu hỏi: Ở bài vẽ tranh đề tài sinh hoạt thì có các nhóm nhân vật rất rõ ràng,
rành mạch, còn ở bài vẽ tranh phong cảnh thì không biết phải quy các hình ảnh vào
các nhóm ra sao? Tình huống này đã thúc đẩy tôi quyết định tìm hiểu và giải đáp
bằng được thắc mắc của các em nhằm cải thiện chất lượng dạy học. Từ việc so
sánh sự giống và khác nhau của hai thể loại tranh này.
So sánh giữa tranh đề tài sinh hoạt và tranh đề tài phong cảnh:
Tranh đề tài sinh hoạt

Tranh đề tài Phong cảnh

Giống nhau
Đều là tranh vẽ có nội dung là một đề Đều là tranh vẽ có nội dung là một đề
tài
tài nào đó nào đó
Khác nhau

Hình ảnh con người là trọng tâm, là nội Cảnh vật là nội dung chính
dung chính
Hình ảnh các cảnh vật, sinh vật khác Hình ảnh con người và các sinh vật
chỉ là những hình ảnh phụ họa làm nổi khác là những hình ảnh phụ họa.
bật nội dung chính.


Đối với tranh đề tài sinh hoạt thì đối tượng trung tâm chính là con người,
không gian và cảnh vật xung quanh bao gồm nhà cửa, cây cối, công trình kiến
trúc… là hình ảnh phụ hỗ trợ cho hình ảnh chính thêm phần sinh động, bài vẽ nổi
bật hơn. Trong khi đó tranh phong cảnh có đối tượng chính lại là cảnh vật, còn con
người và các sinh vật xung quanh chỉ đóng vai trò phụ họa làm bức tranh sống
động hơn. Phong cảnh thường là một khoảng không gian bao la rộng lớn như: Một
cánh đồng, một khu rừng, một thành phố, một bãi biển, một dòng sông, một cánh
đồng hoa, làng mạc, vv… Nếu là cận cảnh thì ta có thể phân biệt một đối tượng cụ
thể nào đó như: Một ngôi chùa, một ngọn tháp, một công trình kiến trúc… Nhưng
cảnh vật xung quanh thì vẫn chứa đựng rất nhiều hình ảnh và nhiều lớp cảnh khác.
Riêng đối với loại tranh viễn cảnh thì các hình ảnh lại thường là rất nhiều và rộng
lớn, không bị hạn chế nhiều bởi giới hạn không gian, hoặc rất khó để nhận biết ra
đối tượng nào ảnh hình ảnh chính và đối tượng nào là hình ảnh phụ trong quá trình
tìm bố cục cho bài vẽ. Nếu nhận ra được thì hình ảnh đó không hẳn nằm trong một
giới hạn cụ thể để có thể quy định nó làm mảng chính hay mảng phụ. Vì trên thực
tế đối tượng chính có thể nằm cả trong mảng chính lẫn cả trong mảng phụ. Ví dụ:
Ở các bức tranh sau đây người vẽ và người xem rất khó để phân biệt cái nào là đối
tượng chính và ở đâu là đối tượng phụ. Nếu xem đối tượng chính là dòng sông,
nhưng ta thấy ở đây dòng sông đã nằm vắt từ lớp trước (gần) sang cả lớp sau (xa):
Dòng sông nằm vắt từ lớp trước sang cả lớp sau. Khó phân biệt đâu là mảng chính
đâu là mảng phụ Đôi khi trọng tâm bức tranh không nằm ở phần dễ quan sát nhất
(tháp Rùa)
Từ đó, người giáo viên trong khi giảng dạy cũng như người học cần xác định

rõ và tập trung thể hiện đúng đối tượng của từng thể loại tranh cụ thể (Viễn cảnh
hay cận cảnh), loại nào thì cần tập trung diễn tả đối tượng nào cho phù hợp. Trong
thực tế khi ta quan sát phong cảnh ta có thể nhìn thấy các đối tượng đang ở vị trí
nào trong trường nhìn tầm mắt mình: trái, phải, trên, dưới (thuộc về mặt phẳng), ở
gần hay ở xa (thuộc về không gian). Đối tượng ở vị trí nào, trái, phải, trên hay dưới
thì người vẽ có thể xác định được rõ ràng. Còn có những đối tượng nằm ở khoảng


cách gần xa nào đó thì người xem không thể xác định được chính xác rõ ràng nhất
để có thể chọn một đối tượng làm hình ảnh chính cho bài vẽ.
Ngoài ra, phong cảnh cũng bao gồm các yếu tố chiều rộng, chiều cao và
chiều sâu, trải dài và bắt đầu từ mắt người quan sát cho đến tận chân trời. Có
những đối tượng nằm trải dài từ ngay dưới chân người quan sát đến tận đường tầm
mắt nên rất khó để quy định chúng vào mảng, nhóm hay lớp nào cho phù hợp.
Ví dụ: Một dòng sông chảy quanh co uốn khúc trên cánh đồng về phía xa, một con
đường thẳng tắp chạy tít về đường chân trời, hoa cỏ mọc trên những ngọn đồi phía
xa, cùng với những hàng cây trên đó… Nếu xem chúng là một đối tượng chính thì
khi diễn tả sẽ rất khó để quy chúng vào mảng, nhóm hay lớp nào được. Vậy nên ta
chỉ có thể dựa vào khoảng cách xa gần mà phân chia các đối tượng ra thành từng
lớp. Cảnh có thể có từ 2 đến rất nhiều lớp khác nhau. Trên mỗi lớp có thể có từ 2
đến rất nhiều đối tượng (hình ảnh). Để đơn giản chúng ta có thể quy định thành có
3 lớp:
Minh họa các lớp cảnh:
- Lớp ở trước: Gần mắt người quan sát. Có thể là trọng tâm bức tranh.
- Lớp ở giữa: Thường là trọng tâm của bức tranh, được chú ý đặc tả.
- Lớp ở phía sau: Xa mắt người quan sát, luôn là những hình ảnh phụ.
Có khi người vẽ có thể dễ dàng chọn lựa được một đối tượng cụ thể nào đó để tập
trung đặc tả trong trường hợp vẽ cận cảnh như: một ngôi chùa, một cây cầu, một
con đò… Nhưng cũng có khi rất khó để chọn được một đối tượng cụ thể nào đó để
diễn tả trong trường hợp vẽ viễn cảnh. Các đối tượng này có vị thế và vị trí tương

đối ngang bằng nhau trong một khoảng không gian nhất định nên không có đối
tượng chính phụ, như: cánh đồng, dòng sông, con đường, góc phố… Lúc này
người vẽ không thể chỉ đặc tả một đối tượng cụ thể nào đó và để mờ nhạt các đối
tượng còn lại, mà phải “dàn đều” trọng tâm ra toàn bức tranh. Lúc này người giáo
viên không thể dùng khái niệm mảng chính, mảng phụ để áp dụng vài bài giảng
được, bởi như thế sẽ thiếu đi sự chuẩn mực, độ chính xác khoa học trong việc sử
dụng ngôn từ. Lúc này ta chỉ có thể sử dụng khái niệm “Lớp cảnh” để đưa vào bài
giảng. Vậy lớp cảnh là gì?


Minh họa trên thực tế bài giảng: Lớp 4
Bài 7. Vẽ tranh
ĐỀ TÀI PHONG CẢNH QUÊ HƯƠNG
Phần 1. Tìm, chọn nội dung đề tài
- Giáo viên kết hợp nội dung chính trong Sách giáo viên giới thiệu cho các
em nội dung cần vẽ về tranh phong cảnh là vẽ vẽ về cảnh đẹp quê hương, đất nước.
Vẽ cảnh vật là chính thường là: nhà cửa, phố phường, hàng cây, cánh đồng, đồi núi
biển cả…
- Tranh phong cảnh không phải là sao chụp, chép lại y nguyên phong cảnh
thực mà được sáng tạo dựa trên thực tế thông qua cảm xúc của người vẽ. Nên chọn
cảnh vật quen thuộc, dễ vẽ, phù hợp với khả năng; tránh chọn cảnh phức tạp, khó
vẽ.
Ở phần này bằng các gợi ý giáo viên đưa học sinh đến cái đẹp, giúp các em
chọn đúng đề tài, hình ảnh định vẽ.
Phần 2. Cách vẽ tranh phong cảnh
- Giáo viên giới thiệu cho học sinh hai cách vẽ tranh phong cảnh:
+ Quan sát cảnh thiên nhiên và vẽ trực tiếp
+ Vẽ bằng cách nhớ lại các hình ảnh đã từng được quan sát.
- Nhớ lại các hình ảnh định vẽ.
- Vẽ , sắp xếp hình ảnh chính trước hình ảnh phụ sau sao cho cân đối, hợp lí, rõ nội

dung
- Vẽ hết phần giấy và vẽ màu kín nền. Có thể vẽ nét trước rồi mới vẽ màu sau,
nhưng cũng có thể dùng màu vẽ trực tiếp.
Với phần này giáo viên gợi ý cách vẽ thường dùng trong vẽ tranh nên học
sinh dễ bị nhầm lẫn với các đề tài tranh sinh hoạt và các đề tài khác. Ngoài ra chưa
khái quát được cho học sinh hiểu các lớp cảnh đan xen giữa các hình mảng với
nhau tạo vẻ đẹp cho tranh có độ sâu sắc hay còn gọi là “Luật xa gần”.
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề


Để hướng dẫn học sinh biết cách tìm bố cục cho bài vẽ tranh phong cảnh có
được kết quả tốt nhất người giáo viên cần nắm và nêu ra được những vấn đề quan
trọng sau đây:
3.1. Khái niệm lớp cảnh
Đây là khái niệm không còn mới mẻ trong hội họa nhưng chưa từng được nhắc đến
trong chương trình Mỹ thuật cấp Tiểu học nên người giáo viên cần nắm vững và có
thể hướng dẫn trực tiếp học sinh thông qua việc ra ngoài thực tế để quan sát, hoặc
có thể hướng dẫn trên tranh ảnh chụp phong cảnh. Cần chỉ rõ để học sinh thấy
được đâu là lớp trước, lớp giữa hay lớp sau, chúng có được phân biệt, tách bạch rõ
ràng hay không? Có nhiều lớp phụ, các lớp có mối liên hệ như thế nào với các
mảng chính phụ trong tranh, vv…
3.2. Chọn lớp cảnh
Khi chọn lớp cảnh cần chú ý hướng dẫn học sinh chọn đúng các hình ảnh
chính cần diễn tả để bài vẽ có trọng tâm, biết chọn cảnh phụ minh họa cho bài vẽ
được đẹp và sinh động hơn.
3.3. Cách sắp xếp lớp cảnh vào trong bài vẽ
Lớp cảnh ở giữa chính là mảng chính cho bức tranh, không nhất thiết phải
nằm chính giữa bức tranh nhưng cũng không nên để nó bị lệch lên xuống hoặc
sang phải sang trái quá nhiều. Không nên để nó quá to hay quá nhỏ làm lệch bố cục
tranh.

3.4. Vẽ hình vào lớp cảnh
Hình ở các lớp cảnh thường đan xen, ăn sang phần với nhau thì bài vẽ mới
được hài hòa và tự nhiên hơn. Không nhất thiết phải rõ ràng tách bạch trong từng
lớp cảnh để tránh sự đơn điệu, cứng nhắc cho bài vẽ.
3.5. Vẽ màu vào lớp cảnh
Màu sắc trong các lớp cảnh phải phù hợp với không gian xa gần theo phối
cảnh. Cần chú ý diễn tả ở lớp chính để làm nổi bật trọng tâm bài vẽ. Trên đây là
một khái niệm mới được đưa ra để áp dụng vào bài vẽ tranh phong cảnh, nếu được
người giáo viên sử dụng trong khi giảng dạy và hướng dẫn học sinh tìm bố cục và
thể hiện hình ảnh thì học sinh sẽ dễ hiểu và có một cách tư duy khoa học và sáng


tạo hơn. Từ đó học sinh có thể thể hiện được những bài vẽ có bố cục hợp lý, bài vẽ
sẽ có được không gian và phối cảnh màu sắc phù hợp và đẹp hơn.
4. Kết quả thực hiện
Trong năm học 2014-2015 ở trường Tiểu học Tĩnh Bắc tôi đã áp dụng sáng
kiến này để truyền thụ cho học sinh các khối 3,4,5. Kết quả và chất lượng học tập
các bài vẽ tranh phong cảnh được nâng lên rõ rệt. Cụ thể được thể hiện trong bảng
so sánh sau:
Trước khi áp dụng:
KHỐI
Hoàn thành
3
40%
4
50%
5
55%
Sau khi áp dụng tới thời điểm này:
KHỐI

3
4
5

Hoàn thành
100%
100%
100%

Chưa hoàn thành
60%
50%
45%
Chưa hoàn thành
0%
0%
0%

Áp dụng khái niệm “lớp cảnh” vào giảng dạy và hướng dẫn học sinh tôi đã giải
quyết được nhiều vấn đề liên quan cùng những thắc mắc từ chính các em về cách
tư duy phân tích, lựa chọn. Bên cạnh đó còn củng cố thêm cho các em kiến thức về
bố cục, phối cảnh, luật xa gần,… Nếu như trước đó hình vẽ của các em thường lộn
xộn, sắp xếp hình ảnh không theo quy luật tự nhiên thì giờ đây đa số bài vẽ của các
em đẹp hơn, chính xác và khoa học hơn nhưng vẫn đầy tính nghệ thuật và sáng tạo.
Các em có thể tự suy nghĩ và vận dụng kiến thức của giáo viên truyền đạt vào bài
vẽ một cách độc lập. Ngoài ra còn tạo được hứng thú cho các em bởi những tiết
học đầy bổ ích như học dã ngoại, hiểu biết thêm về các hiện tượng toán học, vật lý
(Luật xa gần) và thiên nhiên kỳ thú.
III. PHẦN KẾT LUẬN
1. Những bài học kinh nghiệm

Trong thời gian áp dụng khái niệm “lớp cảnh” bản thân tôi rút ra những kinh
nghiệm như sau:


- Khái niệm “lớp cảnh” giúp học sinh tiếp cận vấn đề một cách nhanh chóng
thông qua sự gợi ý của giáo viên.
- Khái niệm “lớp cảnh” giúp học sinh dễ dàng tư duy, phân tích và chọn lựa
hình ảnh, đối tượng vào bài vẽ, tránh được sự bế tắc trong khi tìm chọn hình ảnh
thể hiện.
- Khái niệm “lớp cảnh” giúp học sinh củng cố thêm kiến thức về luật xa gần
và cách phối cảnh, cách sử dụng màu sắc vào bài vẽ của mình.
- Khái niệm “lớp cảnh” đòi hỏi người giáo viên phải thực sự đầu tư nghiên
cứu, tìm hiểu từ thực tế, bằng lòng yêu nghề, yêu trẻ, biết quan tâm tới từng thắc
mắc nhỏ của các em học sinh.
2. Khả năng ứng dụng, triển khai
Với cách giảng và truyền thụ đầy đủ, đúng trọng tâm trong vẽ tranh qua
phần sáng kiến mới này, hiệu quả sẽ phần nào giúp các em bậc Tiểu học hiểu
nhanh hơn, sâu sắc hơn và có những ý tưởng mới lạ cho các bài vẽ đúng với lứa
tuổi ngây thơ của mình, rất hồn nhiên trong sáng thể hiện qua các bài vẽ có chất
lượng.
Nếu được quan tâm đúng mức trong giảng dạy thì khái niệm “lớp cảnh” rất
khả thi và hiệu quả trong việc áp dụng vào loại bài dạy vẽ tranh phong cảnh. Các
em biết cảm nhận vẻ đẹp phong cảnh quê hương, màu sắc từ các gam màu của
cuộc sống. Từ đó càng thêm yêu quê hương đất nước và con người Việt Nam.
3. Những kiến nghị, đề xuất
- Nhà trường có kế hoạch ngoại khóa cho học sinh Tiểu học nhằm tìm hiểu
thêm về cách vẽ tranh phong cảnh trong môn Mỹ thuật.
- Xây dựng phòng học đa năng giành cho đặc thù bộ môn, trang bị thêm đồ
dùng dạy học như: Tranh ảnh, tượng, màu sắc và các dụng cụ để thực hành vẽ.
Tài liệu tham khảo:

1. Phương pháp giảng dạy Mỹ thuật – Nhà xuất bản Giáo dục, 1995.
2. Chuẩn kiến thức kĩ năng lớp 3,4,5 – Nhà xuất bản Giáo dục
3. Sách giáo khoa Mỹ thuật 3,4,5 – Nhà xuất bản Giáo dục.


4. Sách giáo viên Mỹ thuật 3,4,5– Nhà xuất bản Giáo dục.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ VỀ ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO PHÒNG GD&ĐT VỀ ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………


………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………



×