Tải bản đầy đủ (.pdf) (178 trang)

Phân tích diễn ngôn do trẻ em viết trong chuyên mục cười vui của báo nhi đồng giai đoạn 1998 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 178 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------ĐẶNG CHINH NGỌC

PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN DO TRẺ EM VIẾT
TRONG CHUYÊN MỤC “CƢỜI VUI” CỦA
BÁO NHI ĐỒNG GIAI ĐOẠN 1998 - 2008

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------ĐẶNG CHINH NGỌC

PHÂN TÍCH DIỄN NGÔN DO TRẺ EM VIẾT
TRONG CHUYÊN MỤC “CƢỜI VUI” CỦA
BÁO NHI ĐỒNG GIAI ĐOẠN 1998 - 2008

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 02 40

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Việt Thanh

Hà Nội-2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện.
Các số liệu, kết quả đƣợc trình bày trong luận văn là trung thực và chƣa
đƣợc công bố ở công trình khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Học viên

Đặng Chinh Ngọc


LỜI CẢM ƠN
Với tất cả sự kính trọng của mình, cho phép em đƣợc bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc nhất tới PGS.TS Nguyễn Thị Việt Thanh – ngƣời thầy đã tận tình
hƣớng dẫn em trong quá trình triển khai, thực hiện và hoàn thành luận văn.
Đồng thời, em cũng xin chân thành cảm ơn tới quý thầy cô trong Hội
đồng bảo vệ luận văn, cùng các quý thầy cô đã và đang giảng dạy, công tác tại
Khoa Ngôn ngữ học, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội. Thầy cô đã trang bị, cung cấp những kiến thức quý báu
trong suốt thời gian em học tập tại Khoa, cũng nhƣ chỉ bảo nhiệt tình và đóng
góp ý kiến giúp em hoàn thành luận văn này.
Qua đây, em xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, đồng
nghiệp và bạn bè đã luôn quan tâm, động viên, khích lệ và tạo điều kiện giúp
đỡ em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Một lần nữa, em xin trân trọng cảm ơn!
Học viên

Đặng Chinh Ngọc




MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 3
1. Lí do chọn đề tài................................................................................ 3
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ................................................. 4
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn ..................................................... 4
4. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................. 5
5. Kết cấu .............................................................................................. 5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN ....................................................................... 6
1.1.Khái niệm diễn ngôn ....................................................................... 6
1.2. Khái niệm “phân tích diễn ngôn”................................................. 10
1.3 Đặc thù của diễn ngôn truyện kể................................................... 13
1.3.1. Sơ lƣợc về truyện kể .............................................................. 13
1.3.2 Các yếu tố cần xem xét trong diễn ngôn truyện kể ................ 13
1.4 Đặc thù của chuyên mục Cƣời Vui trên Báo Nhi Đồng ............... 16
1.4.1 Một vài nét về Báo Nhi Đồng................................................. 16
1.4.2 Đặc thù của chuyên mục Cƣời Vui ........................................ 16
1.5. Mô hình giao tiếp của diễn ngôn ................................................. 17
1.6 Mô hình giao tiếp của diễn ngôn do trẻ em viết trong chuyên mục
“Cƣời Vui” của Báo Nhi Đồng giai đoạn 1998 - 2008 ............................... 20
1.7. Khái niệm mạch lạc ................................................................. 25
1.8 Khái niệm liên kết ..................................................................... 26
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC TỔNG THỂ CỦA DIỄN NGÔN
DO TRẺ EM VIẾT TRONG CHUYÊN MỤC “CƢỜI VUI”……………..28
2.1. Cấu trúc tổng thể của các kiểu loại văn bản ................................ 28
2.2. Cấu trúc tổng thể của các diễn ngôn do trẻ em viết trong chuyên
mục Cƣời Vui của báo Nhi Đồng giai đoạn 1998 – 2008. ......................... 29
2. 2.1. Phân tích đặc điểm của tiêu đề ........................................... 33
2.2.1.1 Các đặc điểm về nội dung của các tiêu đề ..................... 33
2.2.1.2. Kết cấu cú pháp của tiêu đề ........................................... 37
2.2.2. Đặc điểm cấu trúc phần mở đầu ........................................... 41

2.2.2.1 Một số đặc điểm về nội dung của phần mở đầu ............. 41
2.2.2.2. Một số đặc điểm về mặt hình thức của phần mở đầu .... 43
1


2.2.3. Đặc điểm cấu trúc phần triển khai ....................................... 46
2.2.3.1. Mô hình của phần triển khai .......................................... 46
2.2.3.2. Đặc điểm của các loại tình huống trong phần triển khai 51
2.2.4. Đặc điểm cấu trúc phần kết .................................................. 54
2.3. Tiểu kết ........................................................................................ 57
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TRONG DIỄN NGÔN
DO TRẺ EM VIẾT TRONG CHUYÊN MỤC CƢỜI VUI CỦA BÁO NHI
ĐỒNG ............................................................................................................. 60
3. 1. Mạch lạc thời gian và không gian trong diễn ngôn do trẻ em viết
trong chuyên mục Cƣời Vui của Báo Nhi Đồng. ........................................ 60
3.1.1. Sự thể hiện của mạch lạc thời gian và không gian ............... 60
3.1.1.1. Sự thể hiện của mạch lạc thời gian ................................ 60
3.1.1.2. Sự thể hiện của mạch lạc không gian ............................ 71
3.1.2. Mối quan hệ giữa thời gian và không gian ........................... 75
3.2. Liên kết trong diễn ngôn do trẻ em viết trong chuyên mục Cƣời
Vui của Báo Nhi Đồng. ............................................................................... 76
3.2.1 Phép nối ................................................................................. 77
3.2.2. Phép thế đồng nghĩa ............................................................. 81
3.3. Tiểu kết ........................................................................................ 84
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 89
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 92

2



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Trong những năm vừa qua, việc nghiên cứu một số loại hình văn bản
tiếp cận từ góc độ phân tích diễn ngôn (PTDN) đã đƣợc thực hiện và đạt đƣợc
những thành công. Ngoài các công trình nghiên cứu về lí luận phân tích diễn
ngôn, đã có khá nhiều các công trình khóa luận tốt nghiệp, luận văn, luận án
áp dụng đƣờng hƣớng của phân tích diễn ngôn vào các tƣ liệu cụ thể để phân
tích, nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu nhƣ: Đối chiếu
ngôn ngữ phóng sự trong báo in bằng tiếng Anh và tiếng Việt – Nguyễn Thị
Thanh Hƣơng, luận án tiến sĩ ngữ văn, năm 2003; Trật tự câu trong vai trò
liên kết và tạo mạch lạc cho văn bản – Nguyễn Thị Hồng Thúy, luận văn thạc
sĩ ngôn ngữ học, năm 2004;Mạch lạc theo quan hệ nguyên nhân và quan hệ
thời gian trong một số truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan – Hạp Thu Hà,
Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học, năm 2006; Bƣớc đầu khảo sát một số đặc
điểm cấu trúc ngữ nghĩa của diễn ngôn “Lời kêu gọi” của Hồ Chí Minh –
Phạm Thị Nhàn, khóa luận tốt nghiệp đại học, năm 2009; Ngôn ngữ truyền
thông xã hội qua phân tích diễn ngôn các ca từ trong bài hát kháng chiến –
Lê Thị Phƣợng, luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học, năm 2012; Khảo sát đặc điểm
cấu trúc – ngữ nghĩa của diễn ngôn có mục đích kêu gọi (Lời kêu gọi) - Vũ
Thị Oanh, luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học, năm 2012…
Những công trình nghiên cứu đó đạt đƣợc những thành công nhất định,
góp phần làm sáng rõ lí thuyết, lí luận phân tích diễn ngôn, cũng nhƣ một số
đặc điểm nổi bật về cấu trúc, ngữ nghĩa, mạch lạc, liên kết… của một số thể
loại diễn ngôn. Về cơ bản, sự khác biệt đầu tiên của các công trình này là thể
loại diễn ngôn đƣợc chọn để phân tích. Đó có thể là những diễn ngôn thuộc
phong cách nghị luận, phong cách báo chí, phong cách văn học nghệ thuật…
với những đặc trƣng riêng về ngƣời viết và đối tƣợng tiếp nhận. Tuy nhiên,
việc phân tích những diễn ngôn do trẻ em viết vẫn còn là một đề tài hoàn toàn

mới, chƣa đƣợc công trình nào trƣớc đây chọn làm đối tƣợng nghiên cứu. Đó
3


là lí do vì sao chúng tôi chọn cho mình đề tài phân tích diễn ngôn trong
chuyên mục “Cƣời Vui” của báo Nhi Đồng giai đoạn 1998 – 2008.
Đặc trƣng nổi bật nhất của các diễn ngôn thuộc chuyên mục này là do
trẻ em từ 6 đến 16 tuổi viết và hƣớng tới độc giả cũng là trẻ em thuộc cùng
lứa tuổi. Vì vậy, chắc chắn các diễn ngôn này sẽ chứa đựng nhiều điểm khác
biệt so với các loại diễn ngôn khác.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Mục đích của luận văn là tìm hiểu một số đặc điểm nổi bật về cấu trúc
và đặc điểm ngôn ngữ trong các diễn ngôn do trẻ em viết trong chuyên mục
“Cƣời Vui” của báo Nhi Đồng giai đoạn 1998 – 2008. Để đạt đƣợc mục đích
trên, chúng tôi đã lựa chọn và tiến hành khảo sát 100 văn bản diễn ngôn trong
chuyên mục Cƣời Vui trên báo Nhi Đồng từ tháng 4/1998 (khi chuyên mục
Cƣời Vui lần đầu tiên ra đời) đến tháng 12/2008.
Căn cứ vào mục đích này, chúng tôi xác định nhiệm vụ của luận văn
cần thực hiện là: Phân tích đặc điểm của các diễn ngôn do trẻ em viết trong
chuyên mục “Cƣời Vui”, từ đó, tìm ra khuôn cấu trúc tổng thể của các diễn
ngôn do trẻ em viết, thông qua việc khảo sát cụ thể cấu trúc của từng thành
phần tạo nên khuôn cấu trúc tổng thể và đặc điểm sử dụng ngôn ngữ tiêu biểu
từ góc độ tiếp cận của phân tích diễn ngôn.
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn

Lí thuyết về phân tích diễn ngôn rất đồ sộ, vì vậy, trong luận văn chúng
tôi không có tham vọng bao quát hết các mặt của mọi vấn đề. Chúng tôi chỉ đi
sâu vào những khía cạnh làm nổi bật cấu trúc tổng thể và đặc điểm sử dụng
ngôn ngữ trong các diễn ngôn do trẻ em viết. Trong nhiệm vụ làm nổi bật cấu

trúc tổng thể của diễn ngôn, chúng tôi tập trung phân tích các thành phần cấu
tạo nên diễn ngôn. Trong nhiệm vụ phân tích những đặc điểm về mặt sử dụng
ngôn ngữ, chúng tôi chỉ tập trung phân tích mạch lạc và liên kết để tìm ra
những biểu hiện của mạch lạc và liên kết đƣợc thể hiện rõ nét nhất, đặc thù
nhất trong các diễn ngôn. Thông qua việc phân tích những biểu hiện này,
4


chúng tôi nhận thấy những đặc điểm nổi bật nhất là mạch lạc thời gian, mạch
lạc không gian, phép nối, phép thế, nên trong Luận văn sẽ chỉ tập trung phân
tích vào những đặc điểm này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong luận văn này, chúng tôi đã sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu
sau:
- Phƣơng pháp phân tích diễn ngôn
- Phƣơng pháp miêu tả và phân tích: Căn cứ vào nguồn tƣ liệu thu thập
đƣợc, luận văn đi theo hƣớng miêu tả cấu trúc – ngữ nghĩa chung của các diễn
ngôn đƣợc lựa chọn khảo sát. Từ đó, đi vào miêu tả chi tiết các đặc điểm cấu
trúc – ngữ nghĩa của từng thành phần, đặc điểm sử dụng ngôn ngữ, một số đặc
điểm nổi bật về mạch lạc, liên kết của diễn ngôn do trẻ em viết.
- Phƣơng pháp thống kê: Luận văn sẽ thống kê để đƣa ra bộ số liệu
khách quan về tần suất sử dụng các khuôn cấu trúc, các loại và các dạng thể
hiện.
5. Kết cấu

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chƣơng:
Chƣơng 1 : Cơ sở lí luận.
Chƣơng 2 : Đặc điểm cấu trúc của diễn ngôn do trẻ em viết trong

chuyên mục “Cƣời Vui” của Báo Nhi Đồng.
Chƣơng 3 : Đặc điểm sử dụng ngôn ngữ trong diễn ngôn do trẻ em viết
trong chuyên mục “Cƣời Vui” của Báo Nhi Đồng.

5


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.Khái niệm diễn ngôn

Hiện nay, có rất nhiều cách định nghĩa về khái niệm diễn ngôn.
Ngƣời đầu tiên đề xƣớng khái niệm diễn ngôn là Z.Harris (1952) – một
nhà ngôn ngữ học thuộc trƣờng phái miêu tả luận Mĩ. Trong công trình
“Discourse Analysis” (Phân tích diễn ngôn), ông đã đƣa ra tên gọi “diễn
ngôn” với cách hiểu là văn bản liên kết, ở bậc cao hơn câu. Đồng thời, đƣa ra
hai kết luận nổi bật về phân tích diễn ngôn là: “tiếp tục ngôn ngữ học miêu tả
vƣợt ra ngoài các giới hạn của câu đơn một thời” và “làm cho ngôn ngữ và
văn hóa liên thông với nhau”.: Đánh giá về công trình này, nhà nghiên cứu
Cook cho rằng công lao của Harris rất lớn, và những kết luận của ông trong
công trình “Phân tích diễn ngôn” cực kỳ đáng chú ý.
Năm 1970, Barthes cũng đƣa ra một định nghĩa về “diễn ngôn”. Theo
ông, diễn ngôn là “một đoạn lời nói hữu tận bất kì, tạo thành một thể thống
nhất xét từ quan điểm đến nội dung, đƣợc truyền đạt cùng với những mục
đích giao tiếp thứ cấp, và có một tổ chức nội tại phù hợp với mục đích này, vả
lại (đoạn lời này) gắn bó với những nhân tố văn hóa khác nữa, ngoài những
nhân tố có quan hệ đến bản thân ngôn ngữ” [dẫn theo 1, tr.151]. Trong định
nghĩa này, bên cạnh việc nhắc đến cấu tạo, nội dung, mục đích của diễn ngôn,
Barthes cũng nhấn mạnh về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa thể hiện
trong diễn ngôn.
Định nghĩa về “diễn ngôn” còn đƣợc các tác giả đề cập thông qua thế

đối sánh với thuật ngữ “văn bản”. Trên thực tế, để phân định rạch ròi hai khái
niệm này không hề đơn giản. Có khi chúng đƣợc các nhà nghiên cứu coi là
hai khái niệm có cấu trúc xác định tách biệt hoàn toàn, thuộc hai quá trình; có
khi khái niệm này là sự biểu hiện cụ thể, là bộ phận của khái niệm kia; cũng
có khi chúng đƣợc dùng thay thế cho nhau nhƣ hai khái niệm đồng nghĩa
6


hoàn toàn. So sánh cách hiểu về “văn bản” và “diễn ngôn” của mỗi tác giả sẽ
giúp chúng ta hiểu rõ hơn về diễn ngôn.
Trong cuốn “Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản”, tác giả Diệp
Quang Ban đã đƣa ra tổng quan về các giai đoạn trong việc dùng thuật ngữ
“văn bản” và “diễn ngôn” : “Giai đoạn đầu, tên gọi văn bản đƣợc dùng để
chỉ chung những sự kiện nói bằng chữ viết và sự kiện nói miệng có mạch lạc
và liên kết. Giai đoạn thứ hai có xu hƣớng dùng văn bản để chỉ sự kiện nói
bằng chữ viết (lời chữ), còn diễn ngôn chỉ sự kiện nói miệng (lời âm). (Cùng
với xu hƣớng này là cố gắng phân biệt ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói). Giai
đoạn hiện nay, diễn ngôn đƣợc dùng nhƣ văn bản ở giai đoạn đầu, tức là dùng
để chỉ chung cả sự kiện nói miệng lẫn sự kiện nói bằng chữ viết.” [1, tr.212]
Trong khuynh hƣớng tách biệt 2 thuật ngữ “diễn ngôn” và “văn bản” có
thể kể đến hai tác giả Brown và Jule trong cuốn “Discoure Analysis” (phân
tích diễn ngôn). Hai tác giả quan niệm rằng “văn bản nhƣ là một thuật ngữ
khoa học để chỉ dữ liệu ngôn từ của một hành vi giao tiếp” hay “văn bản là
sự biểu hiện của diễn ngôn” và phân biệt “văn bản” – là “sản phẩm” (text –
as - process) còn “diễn ngôn” – là – “quá trình” (discourse - process) [17,
tr.22]
Sau đó, David Nunan cũng có khuynh hƣớng phân biệt rạch ròi hai khái
niệm này. Ông quan niệm thuật ngữ “văn bản” đƣợc dùng để chỉ bất kì cái gì
ghi bằng chữ viết của một sự kiện giao tiếp; sự kiện đó tự nó có thể liên quan
đến ngôn ngữ nói (một cuộc thoại, một bài thuyết giáo) hoặc ngôn ngữ viết

(một bài thơ, một mẩu chuyện). Còn về thuật ngữ “diễn ngôn”, ông cho rằng
nó đƣợc dùng để giải thuyết sự kiện giao tiếp trong ngữ cảnh. [dẫn theo 4,
tr.18]
Trong xu hƣớng không tách biệt hoàn toàn hai khái niệm, tác giả
Crystal (1992) cho rằng: “Văn bản là một sản phẩm diễn ngôn xuất hiện
một cách tự nhiên dƣới dạng nói, viết, hoặc một diễn ngôn bằng kí hiệu, đƣợc
nhận dạng vì những mục đích phân tích. Nó thƣờng là một chỉnh thể ngôn
7


ngữ với một chức năng giao tiếp có thể xác định đƣợc, ví dụ nhƣ một cuộc
thoại, một tờ áp phích”. “Diễn ngôn là một chuỗi nối tiếp của ngôn ngữ (đặc
biệt là ngôn ngữ nói) lớn hơn một câu, thƣờng cấu thành một chỉnh thể có tính
mạch lạc, kiểu nhƣ một bài thuyết giáo, lời tranh luận, truyện vui hoặc truyện
kể” [dẫn theo 1, tr.200]. Nhƣ vậy, ở đây mặc dù tác giả không đồng nhất hai
khái niệm trên song dƣờng nhƣ cũng không có sự phân định rành mạch ranh
giới giữa chúng. Những ví dụ về văn bản là một cuộc thoại, một tờ áp phích,
còn ví dụ về diễn ngôn là bài thuyết giáo, lời tranh luận, truyện vui, truyện kể,
khiến cho nhận định về ranh giới của “văn bản” và “diễn ngôn” của Crystal
trở nên mơ hồ, không định rõ.
Ở Việt Nam, cũng có rất nhiều tác giả quan tâm đến vấn đề này và tất
nhiên cũng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Tiêu biểu nhƣ các nhà nghiên
cứu Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Đức Dân, Đỗ Hữu Châu, Hoàng Phê, Nguyễn
Thiện Giáp, Diệp Quang Ban, Nguyễn Hòa...
Đỗ Hữu Châu quan niệm mỗi diễn ngôn có thể do một hoặc một số
hành vi ngôn ngữ tạo ra. Diễn ngôn có nội dung thông tin và nội dung liên cá
nhân, hai nội dung này thống nhất với nhau thể hiện các chức năng khác nhau
của giao tiếp trong diễn ngôn. Một diễn ngôn gồm nhiều phát ngôn, các phát
ngôn này gắn bó với nhau, lệ thuộc nhau ở mức độ nhất định về nội dung và
hình thức.

Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong công trình “Giáo trình ngôn ngữ học”
xuất bản năm 2008 quan niệm rằng: “Diễn ngôn là bất cứ một ngôn phẩm nói
hoặc viết nào. Mỗi diễn ngôn có thể đƣợc một ngƣời nói hoặc ngƣời viết riêng
biệt tạo ra, cũng có thể đƣợc hai hoặc hơn hai ngƣời tham gia hội thoại hoặc
trao đổi viết với nhau tạo ra. Thuật ngữ “diễn ngôn” đƣợc các nhà khoa học
sử dụng không hoàn toàn giống nhau, nhƣng giữa chúng vẫn có một điểm
chung, đó là đều chỉ các ngôn phẩm, viết hoặc nói, dài hay ngắn, tạo nên một
tổng thể hợp nhất, có chức năng giao tiếp xác định. Thuật ngữ “văn bản”
thƣờng đƣợc dùng với nghĩa nhƣ diễn ngôn, nghĩa là đƣợc dùng để chỉ tất cả
8


những đơn vị ngôn ngữ, bất kể nói hay viết, có mạch lạc và liên kết với chức
năng giao tiếp xác định. Một số nhà khoa học nói về diễn ngôn nói và diễn
ngôn viết, số khác lại nói về văn bản nói và văn bản viết. Hai thuật ngữ này
coi nhƣ đồng nghĩa, có thể thay thế cho nhau" [21, tr.433]. Nhƣ vậy, Nguyễn
Thiện Giáp đồng nhất văn bản và diễn ngôn.
Một trong số các tác giả khác ở Việt Nam cũng dành nhiều sự quan tâm
cho vấn đề này là Nguyễn Hoà. Quan điểm của ông đƣợc khái quát lại trong
công trình “Phân tích diễn ngôn: Một số vấn đề lí luận và phƣơng pháp”.
Trong đó, ông tỏ ra nhấn mạnh sự phân biệt hai khái niệm “diễn ngôn” và
“văn bản”. Theo ông, văn bản nhƣ là sản phẩm ngôn ngữ ghi nhận lại quá
trình giao tiếp hay sự kiện giao tiếp nói và viết trong một hoàn cảnh giao tiếp
xã hội cụ thể, trong khi đó diễn ngôn nhƣ là sự kiện hay quá trình giao tiếp
hoàn chỉnh thống nhất có mục đích không giới hạn đƣợc sử dụng trong các
hoàn cảnh giao tiếp xã hội cụ thể. Mặc dù đã đƣa ra sự phân biệt đó cũng chỉ
mang tính tƣơng đối so với thực tế. Vì theo cách hiểu đó, ở văn bản sẽ xuất
hiện một vài đặc trƣng của diễn ngôn và ngƣợc lại, ở diễn ngôn nhiều khi
cũng tồn tại các thuộc tính của văn bản. Nguyễn Hoà cho rằng đây không phải
hai thực thể độc lập, hoàn toàn tách biệt nhau mà chỉ là một thực thể biểu hiện

của ngôn ngữ hành chức trong bối cảnh giao tiếp cụ thể. Nói cách khác, tuỳ
theo quan điểm của ngƣời nghiên cứu mà ngôn ngữ sẽ đƣợc coi là “văn bản”
khi xem xét dƣới góc độ hình thức và đƣợc coi là “diễn ngôn” khi xem xét
dƣới góc độ hành chức [22, tr.32-33].
Tổng kết lại, có thể thấy Đỗ Hữu Châu dùng diễn ngôn để chỉ ngôn ngữ
đang hoạt động, ngôn ngữ trong sử dụng, ngôn ngữ trong ngữ cảnh. Nguyễn
Thiệp Giáp và Nguyễn Hòa, Diệp Quang Ban đều đồng nhất khái niệm diễn
ngôn và văn bản, hoặc coi chúng không phải là hai thực thể tách biệt. Tuy mỗi
tác giả có một quan điểm và cách kiến giải khác nhau, nhƣng khó có thể nói
quan điểm nào đúng hay sai hoàn toàn. Mỗi quan điểm lại có một điểm mạnh
riêng trong phân tích diễn ngôn. Đúng nhƣ tác giả Schiffrin (1994) đã nhận
9


xét: “Mặc dù phân tích diễn ngôn là một lĩnh vực ngày càng trở nên quan
trọng và đƣợc nhiều ngƣời quan tâm bởi cả hai – bởi chính bản thân nó và bởi
nó có thể cung cấp cho chúng ta rất nhiều nội dung về ngôn ngữ xã hội, văn
hóa và tƣ tƣởng – song phân tích diễn ngôn vẫn còn là một tiểu lĩnh vực rộng
mênh mông và ít nhiều còn mơ hồ của ngôn ngữ học” [dẫn theo 22, tr.17]
Tham khảo và tiếp thu ý kiến của các nhà nghiên cứu, trong Luận văn
này, chúng tôi cũng đƣa ra một quan điểm có tính chất làm việc cho rằng:
Diễn ngôn và văn bản là hai khái niệm đồng nhất với nhau, có thể dùng thay
thế cho nhau. Đây là một định nghĩa mang tính chất làm việc chứ không phải
theo để phủ nhận các quan điểm khác, vì ngay trong bản thân mỗi tác giả
trong các luận điểm của mình cũng đều có sự dung hoà tƣơng đối với các
quan điểm khác.
1.2. Khái niệm “phân tích diễn ngôn”

Từ những quan niệm “diễn ngôn” khác nhau nên mỗi tác giả lại có một
cách hiểu về “phân tích diễn ngôn” khác nhau.

Ngƣời đầu tiên khởi xƣớng tên gọi “Phân tích diễn ngôn” - Harris vẫn
coi PTDN giống nhƣ phân tích câu trong văn bản, sử dụng các phƣơng pháp
cũng nhƣ các công cụ lí thuyết của nghiên cứu câu vào việc nghiên cứu diễn
ngôn. Tuy nhiên, với việc đề ra khái niệm này, Harris đã góp phần quan trọng
giúp ngôn ngữ học văn bản còn non trẻ xác định đƣợc nền móng phát triển
của mình là hƣớng vào nghiên cứu chức năng của ngôn ngữ, “làm cho văn
hóa và ngôn ngữ liên thông với nhau”.
Khác với Harris, Mitchell (1957) chú ý PTDN thiên về phía các chức
năng xã hội và sử dụng các mẫu diễn ngôn tự nhiên trong xã hội. Cách nghiên
cứu này đã chú ý đến các yếu tố của ngôn ngữ học xã hội, của dân tộc học
giao tiếp. Vì thế nhiều ngƣời cũng coi Mitchell là ngƣời đặt nền móng cho
PTDN.
Với việc xác định “diễn ngôn nhƣ là một tiến trình”, Brown và Yule
trong công trình của mình đã khẳng định rằng nhà phân tích diễn ngôn cần
10


quan tâm đến chức năng hay mục đích của một mẩu dữ liệu ngôn ngữ và cách
thức dữ liệu đƣợc ngƣời phát cũng nhƣ ngƣời nhận xử lí. Các tác giả khảo sát
quá trình con ngƣời sử dụng ngôn ngữ giao tiếp nhƣ thế nào, mà cụ thể là
ngƣời phát đã tạo ra các thông điệp ngôn ngữ nhƣ thế nào cho ngƣời nhận và
ngƣời nhận đã xử lí thông điệp ngôn ngữ nhƣ thế nào để hiểu đƣợc chúng (sử
dụng phƣơng pháp ngôn ngữ học để phân tích diễn ngôn). Tóm lại, nhà phân
tích diễn ngôn xử lí dữ liệu của mình nhƣ là dữ kiện (văn bản) của một quá
trình động, trong đó ngôn ngữ đƣợc sử dụng nhƣ một công cụ giao tiếp trong
ngữ cảnh mà qua đó ngƣời viết/ ngƣời nói thể hiện nghĩa và đạt đƣợc ý định
(diễn ngôn). Từ dữ kiện này, nhà phân tích tìm cách mô tả các quy tắc trong
ngôn ngữ đƣợc mọi ngƣời sử dụng để giao tiếp ý nghĩa và ý định.
Một tác giả khác – David Nunan với việc xác định hai khái niệm “diễn
ngôn” và “văn bản” nhƣ đã trình bày ở trên, cũng đồng thời xác nhận phân

tích diễn ngôn liên quan đến việc nghiên cứu ngôn ngữ trong quá trình sử
dụng (ngôn ngữ hành chính). Biện luận sâu thêm, tác giả cho rằng, cũng
giống nhƣ các nhà ngữ âm học, ngữ pháp học, nhà phân tích diễn ngôn cũng
quan tâm đến việc nhận diện những cái đều đặn và những cái khuôn mẫu
trong ngôn ngữ. Tuy nhiên, không chỉ có vậy, nhà phân tích diễn ngôn còn
phải thực hiện một nhiệm vụ quan trọng hơn cả là đạt đến mục đích cuối cùng
của công việc phân tích : vừa chỉ ra, vừa giải thuyết mối quan hệ giữa những
cái đều đặn đó với những ý nghĩa và những mục đích đƣợc diễn đạt qua diễn
ngôn.
Tác giả Đỗ Hữu Châu, một ngƣời nghiên cứu khá nhiều về dụng học,
thì cho rằng: phân tích diễn ngôn là phân tích cả các yếu tố hình thức của diễn
ngôn, bao gồm các yếu tố ngôn ngữ, các đơn vị từ vựng, các quy tắc kết học,
các hành vi ngôn ngữ tạo nên diễn ngôn. Các yếu tố kèm lời, phi lời, theo tác
giả, cũng đƣợc xem là các yếu tố thuộc hình thức của phát ngôn. Về nội dung,
tác giả cho rằng diễn ngôn bao gồm nội dung thông tin và nội dung miêu tả.
Hai thành tố nội dung này có thể hiện diện tƣờng minh qua các yếu tố ngôn
11


ngữ hình thức của diễn ngôn, hoặc tồn tại khiếm diện trong đích giao tiếp của
đối phƣơng. Nhƣ vậy, phân tích diễn ngôn một cách đầy đủ, toàn diện cần xét
đến cả hai mặt hình thức và nội dung của diễn ngôn.
Nguyễn Thiện Giáp cũng đƣa ra quan điểm của mình về phân tích diễn
ngôn. Với ông, "phân tích diễn ngôn là một cách tiếp cận việc nghiên cứu
diễn ngôn dựa trên những khái niệm và thuật ngữ của ngữ pháp truyền thống.
Phân tích diễn ngôn có nhiệm vụ phân tích bằng một bộ phức hợp khái niệm
và thuật ngữ ngữ pháp quen thuộc với bất cứ nhà nghiên cứu ngữ pháp nào và
cố gắng nhận ra xem những khái niệm đó cần thiết trong sự cấu trúc diễn
ngôn nhƣ thế nào. Phân tích diễn ngôn cố gắng mở rộng sự phân tích cấu trúc
câu đến đơn vị lớn hơn câu, nó thƣờng bắt đầu bằng sự cố gắng nhận diện

những đơn vị tối thiểu của ngôn ngữ, sau đó, tìm kiếm những quy luật chi
phối những đơn vị tối thiểu đó cùng nhau kết hợp thành chuỗi để tạo nên diễn
ngôn nhƣ thế nào" . [21, tr.441- 442]
Còn tác giả Diệp Quang Ban đƣa ra quan điểm về PTDN “là đƣờng
hƣớng tiếp cận tài liệu ngôn ngữ nói và viết bậc trên câu (diễn ngôn / văn bản)
từ tính đa diện hiện thực của nó, bao gồm các mặt ngôn từ và ngữ cảnh tình
huống, với các mặt hữu quan thể hiện trong khái niệm ngôn ngữ (register) mà
nội dung hết sức phong phú và đa dạng (gồm các hiện tƣợng thuộc thể loại và
phong cách chức năng, phong cách cá nhân, cho đến các hiện tƣợng xã hội,
văn hóa, dân tộc).” [1, tr.158]
Trong cuốn “Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo văn bản”, Diệp Quang
Ban đƣa ra nhận xét: “Trên đại thể, cho đến nay các nhà nghiên cứu nhận ra
hai giai đoạn trong quá trình nghiên cứu diễn ngôn. Ở giai đoạn đầu, ngƣời ta
thƣờng dùng thuật ngữ „văn bản‟ và hiểu văn bản cũng nhƣ câu, chỉ có điều là
lớn hơn câu, nên sử dụng cách tiếp cận và các công cụ lí thuyết của việc
nghiên cứu câu theo quan điểm cấu trúc hình thức vào việc nghiên cứu văn
bản; cũng do vậy mà nó đƣợc gọi là giai đoạn của „các ngữ pháp văn bản‟
(„Text Grammars‟). Ở giai đoạn thứ hai, văn bản đƣợc hiểu là đơn vị của
12


nghĩa, không phải của ngữ pháp, nên tên gọi „diễn ngôn‟ đƣợc chuộng hơn, nó
cũng đƣợc nghiên cứu bằng cách tiếp cận riêng; từ đó cái tên „phân tích diễn
ngôn‟ đƣợc chọn làm ứng cử viên thay cho „ngữ pháp văn bản‟”. [1, tr.148]
1.3 Đặc thù của diễn ngôn truyện kể

1.3.1. Sơ lược về truyện kể
Để có cái nhìn sơ lƣợc về truyện kể, chúng tôi xin đƣợc dẫn ra một số
quan điểm của tác giả Diệp Quang Ban về loại hình diễn ngôn này. [1, tr.479 483]:
Truyện kể là loại văn bản thƣờng đƣợc nhắc đến đầu tiên khi bàn về

các loại văn bản. Hiểu nhƣ một văn bản, truyện kể đƣợc coi là một sản phẩm,
và ngƣời ta tìm đặc trƣng của sản phẩm ấy để hình thành các định nghĩa.
Điểm chung nhất trong việc xác định truyện kể gồm các yếu tố: đề tài,
thời gian, các câu (vị từ ) chuyển đổi, và lợi ích của con ngƣời (hay tính chất
luân lí).”
Các bƣớc của một truyện kể (hay một chuỗi câu thuộc loại truyện kể)
gồm có:
- Tình huống ban đầu với chức năng định hƣớng.
- Phần các sự kiện gồm các hành động và các hành động phản hồi, với
chức năng tạo sự định giá (qua đó mà bình giá về luân lí).
- Tình huống kết thúc.
- Từ phần các sự kiện, một cách hiển ngôn hoặc hàm ẩn rút ra nhận
định về luân lí.
Tóm lại, hiểu một cách chung hơn, với tƣ cách là một văn bản, truyện
kể là chuỗi các sự kiện nối tiếp trong thời gian (đƣợc tích hợp trong một hành
động tổng thể gồm có phần bắt đầu, phần giữa và phần kết thúc), có đề tài,
đƣợc diễn đạt bằng các câu (các vị từ) chuyển đổi, và qua đó mà rút ra nhận
định về luân lí.
1.3.2 Các yếu tố cần xem xét trong diễn ngôn truyện kể
Một số yếu tố không thể bỏ qua khi phân tích diễn ngôn truyện kể là:
13


- Chuỗi các sự kiện.
- Một chủ đề (ít ra là phải có một chủ thể là ngƣời hành động (có thể là
ngƣời hoặc không phải ngƣời)).
- Các câu (vị từ) chuyển đổi.
- Một quá trình hợp nhất các sự kiện thành một hành động tổng thể.
- Quan hệ nhân quả giữa các sự kiện.
- Sự đánh giá kết thúc (hiển ngôn hoặc hàm ẩn).

a. Chuỗi các sự kiện
Chuỗi các sự kiện là sự nối tiếp nhau của nhiều sự kiện, và chính sự nối
tiếp của các sự kiện cho thấy hay đòi hỏi tính thời gian trong truyện. Mỗi sự
kiện đều chiếm một khoảng thời gian nhất định, thời gian trải ra có điểm bắt
đầu và điểm kết thúc; các sự kiện trong một truyện kể có thể xảy ra nối tiếp
hoặc đồng thời. Cho nên không có sự kiện thì không có truyện kể.
b. Một đề tài
Một sự kiện không thể không có đề tài, đề tài ít ra là một chủ thể làm
thực thể hành động. Chủ thể đó là ngƣời, động vật hay không phải là ngƣời,
động vật đều đƣợc cả.
Nếu không có chủ thể hành động thì không thể có yếu tố thời gian, vì
thời gian gắn với hành động; và nếu không có chủ thể thì không thể có các vị
từ (các câu) chuyển đổi để nêu những đặc trƣng khác nhau của chủ thể.
c. Các câu (các vị từ) chuyển đổi
Để trình bày những sự kiện diễn ra đặc trƣng cho chủ thể trong những
thời điểm từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc thì phải dùng các vị từ (các vị từ
trong một trình tự nào đó, hoặc chúng làm thành các câu). Cách giản đơn nhất
là dùng các vị từ chỉ sự tồn tại, chỉ sự sở hữu hay chỉ việc làm để xác định chủ
thể của trạng thái nào đó tại thời điểm đầu và thời điểm cuối của chuỗi sự
kiện. Phức tạp hơn là trƣờng hợp đảo các sự kiện: sự kiện xấu hơn đến sự kiện
tốt hơn hay sự kiện tốt hơn đến sự kiện xấu hơn.
d. Một quá trình hợp nhất các sự kiện thành một hành động thống nhất
14


Một câu chuyện gồm có nhiều sự kiện, các sự kiện này không xuất hiện
một cách ngẫu nhiên, lộn xộn. Cho nên kể chuyện là quá trình hợp nhất (tích
hợp) các sự kiện lại thành một hành động thống nhất để tạo ra một tổng thể.
Nói cách khác, các sự kiện của một truyện kể, dù cho của một hay của nhiều
nhân vật, đều phải đƣợc trình bày khớp vào nhau nhƣ một bộ máy vận hành

một cách suôn sẻ từ đầu đến cuối.
e. Quan hệ nguyên nhân giữa các sự kiện
Sự phân tích các truyện kể cho thấy rằng, trong truyện kể có nhiều sự
kiện và cái này là nguyên nhân của cái kia, kể cả trƣờng hợp hệ quả của cái
trƣớc là nguyên nhân của cái tiếp theo, và cứ nhƣ thế tạo thành mạng quan hệ
nguyên nhân. Mạng quan hệ nguyên nhân giúp nhận ra những sự kiện làm
thành bộ phận chủ yếu của truyện, những sự kiện không tham gia vào mạng
quan hệ đó là những “ngõ cụt”.
Tuy nhiên, truyện kể phải cùng một lúc vừa nêu rõ và phối hợp những
cái mà truyện muốn vẽ lại, lại vừa phải thay thế các trật tự nguyên nhân thành
một chuỗi nối tiếp (trƣớc - sau) trong thời gian, không làm lộ rõ quan hệ
nguyên nhân ra bên ngoài. Cách chuyển quan hệ nguyên nhân thành chuỗi nối
tiếp trong thời gian đƣợc hình dung nhƣ sau : trong truyện kể cái gì đi sau thì
đƣợc đọc theo kiểu là hệ quả của (cái đã nói trƣớc). Nói giản dị, khi cần chỉ ra
hai sự kiện có quan hệ nhân – quả đối với nhau, truyện kể chỉ cần nêu sự kiện
là nguyên nhân trƣớc và sự kiện là hệ quả sau mà không cần phải đánh dấu
chúng theo kiểu vì… cho nên…, và cũng không cần thiết thay đổi trật tự thành
hệ quả - nguyên nhân với những quan hệ từ đánh dấu kiểu B là vì A.
f. Sự đánh giá kết thúc (hiển ngôn hoặc hàm ẩn)
Yếu tố này của truyện kể là một trong những yếu tố chìa khóa giúp
nhận ra nét riêng của truyện kể. Truyện kể không bao giờ là những câu
chuyện “tự nó” và “vì nó”, mà bao giờ cũng vì một nguyên tắc luân lí nào đó.
Việc khảo sát truyện ngụ ngôn, truyện cƣời dân gian, truyện kể các kiểu xác
nhận điều vừa nêu. Sự đánh giá kết thúc của chúng bao giờ cũng là một “bài
15


học luân lí”, dù bài học này có đƣợc trình bày hiển ngôn trong truyện hay mặc
nhiên ngƣời ta có thể suy ra đƣợc theo kiểu hàm ẩn, và chính “bài học luân lí”
đó là cái nguyên cớ cho truyện kể ra đời và tồn tại.

1.4 Đặc thù của chuyên mục Cƣời Vui trên Báo Nhi Đồng

1.4.1 Một vài nét về Báo Nhi Đồng
Báo Nhi Đồng là cơ quan của Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh. Trung Thu năm 1983, báo Nhi Đồng khi ấy là phụ san
của báo Thiếu niên Tiền phong, chính thức ra mắt. Kể từ đó, cái tên Nhi
Đồng đã trở thành ngƣời bạn đồng hành của nhiều thế hệ bạn đọc nhỏ tuổi
trên cả nƣớc. 32 năm qua, từ một tờ báo in 2 màu ra 3 kỳ một tháng, báo
Nhi Đồng đã liên tục phát triển vƣợt bậc để ngày hôm nay đều đặn hàng
tuần gửi đến tay bạn đọc hơn 300.000 bản của 9 ấn phẩm thú vị, đẹp mắt và
hiện đại. Độc giả của báo Nhi Đồng đƣợc mở rộng từ lứa tuổi mầm non,
đến tiểu học và trung học cơ sở.
1.4.2 Đặc thù của chuyên mục Cười Vui
Đúng ngày Cá tháng Tƣ 1/4/1998, chuyên mục Cƣời Vui - chuyên
trang báo Cƣời đầu tiên dành cho lứa tuổi học trò Việt Nam chính thức trình
làng. Đây là một ấn phẩm ra đời nhằm đáp ứng đƣợc nhu cầu vui chơi, giải
trí, thƣ giãn cho bạn đọc nhỏ tuổi cả nƣớc sau những giờ học trên lớp. Ngay
trong năm đầu tiên, chuyên mục Cƣời Vui đã trở thành những ngƣời bạn vô
cùng dễ thƣơng, hóm hỉnh đồng hành cùng bạn đọc. Đa số bài viết của tờ báo
này là do các em gửi về, phản ánh cuộc sống vui tƣơi và hồn nhiên của chính
tuổi thơ.
Đặc biệt, từ khi chuyên mục Cƣời Vui phát động cuộc thi “Không thể
nhịn cƣời” với mục đích khuyến khích các độc giả nhí kể lại những câu
chuyện cƣời mà các em đã từng là “nhân vật chính” hoặc đƣợc chứng kiến,
chuyên mục đã nhận đƣợc vô vàn các bài viết thú vị của các em thiếu nhi. Các
bài viết này cũng chính là đối tƣợng khảo sát để chúng tôi nghiên cứu trong
Luận văn này.
16



Sau đây, chúng tôi xin trích đăng lại nội dung phát động cuộc thi
“Không thể nhịn cƣời” đƣợc đăng lại lần thứ 2 trên Nhi Đồng Cƣời Vui số 46,
ra ngày 12/11/1999:
“Hàng ngày xung quanh chúng ta có rất nhiều truyện không thể nhịn
cƣời. Ở lớp, ở nhà, trong khu tập thể, làng xóm hay trên đƣờng đến trƣờng
v.v…chỗ nào cũng có thể là nơi diễn ra các tình huống buồn cƣời, những câu
nói ngộ nghĩnh, bất ngờ.
Những tình huống ấy có thể xảy ra với chính bạn, với bạn bè hoặc anh
chị em của bạn. Cũng có thể đó là những tình huống xảy ra giữa ngƣời lớn
với nhau hoặc giữa trẻ con với ngƣời lớn mà bạn quan sát, chứng kiến đƣợc.
Những câu nói ngộ nghĩnh ƣ? Chỉ cần để ý một chút thôi, bạn sẽ thấy
ngay. Em bé nào cũng là một “tác giả” đáng yêu, “đáng nể”.
Còn nữa, bạn hãy lục lọi kí ức của mình. Đảm bảo, từ bé đến bây giờ
có “ối” chuyện buồn cƣời đã xảy ra với chính bạn. Những kỉ niệm về sự ngây
thơ “tồ tẹt” của bạn hẳn là nhiều lắm chứ. Những gì bạn tự nhớ đƣợc và
những gì bạn thƣờng nghe ông bà, bố mẹ kể lại?
Nào, hãy mau mau ghi lại, nhớ lai, kể lại tất cả những chuyện không
thể nhịn cƣời ấy và gửi về BÁO NHI ĐỒNG CƢỜI VUI, 12 HỒ XUÂN
HƢƠNG, HÀ NỘI.”
Qua nội dung định hƣớng của cuộc thi “Không thể nhịn cƣời”, có thể
thấy các diễn ngôn do trẻ em viết trong cuộc thi vừa là một văn bản nằm trên
một ấn phẩm báo chí, vừa là một câu chuyện kể mang đậm dấu ấn cá nhân
của từng tác giả. Nhƣ vậy, các diễn ngôn này sẽ vừa chịu tác động chi phối
bởi đặc thù của chuyên mục và tờ báo, vừa chịu tác động chi phối bởi cấu trúc
của một diễn ngôn truyện kể.
1.5. Mô hình giao tiếp của diễn ngôn

Giao tiếp (communication) là hiện tƣợng phổ biến trong các kiểu xã
hội, đó là sự tiếp xúc giữa các cá thể trong một cộng đồng để truyền đạt một
nội dung nào đó.

17


Sự giao tiếp lặp đi lặp lại và có vẻ nhƣ là rất giản đơn, thế nhƣng về
phƣơng diện nghiên cứu, trên thực tế tồn tại những cách nhìn quá trình giao
tiếp khác nhau do mục đích của ngƣời nghiên cứu. Những cách hình dung quá
trình giao tiếp khác nhau nhƣ vậy có thể khái quát thành những mô hình giao
tiếp. Số lƣợng các mô hình giao tiếp tăng dần theo thời gian cùng sự phát triển
của lĩnh vực nghiên cứu về giao tiếp và về thông tin. Tuy nhiên ngƣời ta có
thể phân loại ra 2 loại mô hình giao tiếp chính là: Mô hình giao tiếp coi trọng
sự tạo lập văn bản và mô hình giao tiếp coi trọng sự trao đổi.
Mô hình giao tiếp coi trọng sự tạo lập văn bản tập trung chú ý vào việc
xây dựng văn bản thế nào cho có hiệu quả giao tiếp cao nhất. Xét theo năng
lực của cá nhân tạo lập văn bản có thể ghi nhận hai phạm vi: phạm vi dùng
chung (đƣợc gọi là mô hình dùng chung) và phạm vi xây dựng phong cách cá
nhân (đƣợc gọi là mô hình tự điều chỉnh).
Mô hình giao tiếp coi trọng sự trao đổi có dạng giao tiếp thƣờng gặp là
sự trao đổi lời. Trong sự trao đổi lời đó, cái quan trọng là hiệu quả của sực
trao đổi giữa những ngƣời tham gia giao tiếp, còn tính thẩm mĩ của thông điệp
và phẩm chất của phong cách cá nhân không phải là yếu tố thứ nhất. Trong
nhóm mô hình giao tiếp coi trọng sự trao đổi, tác giả Diệp Quang Ban phân
chia thành các nhóm mô hình nhỏ hơn là: mô hình đƣờng dẫn, mô hình vòng
khép (hay mô hình đối thoại), mô hình phản hồi (hay mô hình tƣơng tác.) [1,
tr.33]
Trong mô hình dùng chung, nhà ngữ văn R. Jakobson đã đề cập tới 6
yếu tố cần thiết tham gia vào mô hình là: ngữ cảnh, ngƣời phát, thông điệp,
ngƣời nhận, tiếp xúc, mã (ngôn ngữ). Mỗi yếu tố gắn với một chức năng xác
định. Yếu tố ngƣời phát gắn với chức năng cảm xúc, yếu tố ngữ cảnh gắn với
chức năng quy chiếu, yếu tố thông điệp gắn với chức năng thi hoạc, yếu tố
tiếp xúc gắn với chức năng đƣa đẩy, yếu tố mã gắn với chức năng siêu ngôn

ngữ và yếu tố ngƣời nhận gắn với chức năng tác động.

18


Mô hình tự điều chỉnh là mô hình mà trong đó những ngƣời phát và
những ngƣời nhận trong khi giao tiếp không nhằm truyền đi và tạo lập một
thông điệp. Đây là kiểu mô hình duy ngã, lấy cái tôi của ngƣời tạo lập văn bản
làm trung tâm. Giao tiếp chỉ giản đơn là để tích hợp các yếu tố lấy từ tình
huống giao tiếp (ngữ cảnh giao tiếp), và những yếu tố này có thể đóng góp
vào cái đƣợc gọi là việc tự điều chỉnh và việc tự sáng tạo của những ngƣời
tham gia giao tiếp. Và do việc tự điều chỉnh và tự sáng tạo đó mà mô hình này
cũng có tên là mô hình tự tạo chất thơ.
Mô hình đƣờng dẫn là mô hình mà trong đó ngôn ngữ đƣợc coi nhƣ là
công cụ làm nhiệm vụ của một thứ đƣờng dẫn, hay công cụ để chuyển một
thông điệp ngôn ngữ từ nguồn (ngƣời phát) đến nơi nhận (ngƣời nhận). Còn
mô hình vòng khép là mô hình có tính đến vai trò tích cực của ngƣời nhận.
Nếu nhƣ mô hình đƣờng dẫn chỉ mới chú ý đến cái ý nghĩa chủ định của
ngƣời nói, thì mô hình vòng khép coi giao tiếp là một quá trình kiến tạo diễn
ra trong thời gian, giao tiếp là một quá trình sáng tạo năng động. Thông điệp
đƣợc kiến tạo nên qua suốt hoạt động chung của những ngƣời tham gia giao
tiếp, chứ không phải của riêng ngƣời phát.
Khác với mô hình đƣờng dẫn và mô hình vòng khép, mô hình phản hồi
vứt bỏ khái niệm chủ định, một khái niệm vốn rất đƣợc coi trọng trong hai mô
hình trƣớc. Theo mô hình phản hồi, giao tiếp đƣợc hiểu là bao gồm tất cả các
quá trình mà nhờ đó con ngƣời ảnh hƣởng lẫn nhau. Sự tƣơng tác của con
ngƣời với nhau đƣợc miêu tả là sự cần thiết của giao tiếp. Cơ sở để giao tiếp
đƣợc thực hiện là nguyên tắc cùng chung và nguyên tắc qua lại.
Dựa vào những đặc điểm của các loại mô hình giao tiếp, chúng tôi thấy
các diễn ngôn do trẻ em viết trong chuyên mục Cƣời Vui thuộc nhóm mô hình

giao tiếp dùng chung trong nhóm mô hình giao tiếp coi trọng sự tạo lập văn
bản. Những yếu tố tham gia vào mô hình giao tiếp này của diễn ngôn do trẻ
em viết trong chuyên mục “Cƣời Vui” của báo Nhi Đồng sẽ đƣợc phân tích cụ
thể trong tiểu mục tiếp theo.

19


1.6 Mô hình giao tiếp của diễn ngôn do trẻ em viết trong chuyên mục “Cƣời
Vui” của Báo Nhi Đồng giai đoạn 1998 - 2008

Do chịu quy định bởi những đặc thù riêng biệt của chuyên mục Cƣời
Vui và báo Nhi Đồng, những diễn ngôn do trẻ em viết trong chuyên mục có
sự giao thoa giữa một bên là phong cách cá nhân, với một bên là phong cách
báo chí. Nói cách khác, mỗi diễn ngôn vừa là truyện kể, vừa là một bài báo
nhỏ. Vì thế, diễn ngôn do trẻ em viết trong chuyên mục cũng có những đặc
điểm riêng, mới lạ.
Xét về mặt giao tiếp, các diễn ngôn do trẻ em viết trong chuyên mục
“Cƣời Vui” của báo Nhi Đồng thuộc nhóm mô hình giao tiếp dùng chung. Mô
hình này đƣợc thể hiện nhƣ sau:
NGỮ CẢNH
NGƢỜI VIẾT

THÔNG ĐIỆP

NGƢỜI ĐỌC

.......... ..............................................................................
TIẾP XÚC


Bảng 2.1. Lƣợc đồ các yếu tố trong quá trình giao tiếp của R.Jakobson [dẫn
theo 1, tr.30]

Chúng tôi xin đƣợc đi vào phân tích những nhân tố cụ thể này :
-

Ngƣời viết : Là trẻ em.

+) Độ tuổi: Các diễn ngôn xuất hiện trong chuyên mục Cƣời Vui đều là
sản phẩm của trẻ em, trong độ tuổi Tiểu học (từ 7 đến 12 tuổi, chiếm 92%), đôi
khi có những bài viết là của các bạn đã học cấp 2 (chủ yếu là học lớp 6, chiếm
5%) nhƣng vẫn yêu thích báo Nhi Đồng và gửi bài viết về cho chuyên mục.
Lứa tuổi này đã tác động đến tâm lí, cũng nhƣ vốn ngôn ngữ của ngƣời viết. Ở
độ tuổi này, vốn từ vựng của ngƣời viết chƣa phức tạp, khả năng diễn đạt hạn
chế. Ngôn ngữ luôn biểu hiện trực tiếp tƣ duy. Đa phần, cách viết của các em
rất hồn nhiên, trong trẻo, và có cả phần nghịch ngợm nhƣ chính tâm lí lứa tuổi
của mình vậy.
20


×