Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận Quyền con người ở Việt Nam hiện nay Thực trạng và giải pháp đảm bảo cho sự phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.16 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Quyền con người là những giá trị cao quý, kết tinh từ nền văn hóa của tất cả
các dân tộc trên thế giới. Đây là tiếng nói chung, mục tiêu chung và phương tiện
chung của toàn nhân loại để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi
con người.
Khi nói đến một thể chế chính trị tiến bộ, một quốc gia văn minh, thì không
thể không nói đến thể chế chính trị, quốc gia đó có quan tâm đến việc bảo đảm
những quyền cơ bản của con người hay không. Chế độ chính trị XHCN mà Việt
Nam đang nỗ lực xây dựng, thực hiện là một chế độ của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Vì vậy, từ khi lập quốc theo thể chế dân chủ XHCN đến nay, Việt Nam
đã kiên trì theo đuổi mục tiêu không ngừng bảo đảm quyền con người cho mọi
người dân.
Từ khi thực hiện đổi mới, đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu trong phát
triển mọi mặt, từ chính trị tới kinh tế, xã hội, văn hóa. Đặc biệt, từ sau Đại hội VIII
của Đảng (năm 1996), thực hiện chủ trương “tích cực, chủ động hội nhập quốc tế”,
nước ta càng có những bước tiến nhanh trong việc cải thiện quyền con người.
Với chủ trương đổi mới đúng đắn, nhất là trong phát triển kinh tế, giải quyết
các vấn đề xã hội, đất nước đã có bước tiến đáng kể trong cải thiện điều kiện, mức
sống của người dân. Nhất là những bước tiến vượt bậc về phát triển kinh tế trong
hơn 30 năm đổi mới (1986-2018). Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, quy mô
nền kinh tế năm 1985 mới có 14 tỉ USD, thì đến năm 2018 ước đạt 244 tỉ USD,
tăng gấp hơn 17,4 lần. Nền kinh tế Việt Nam hiện đứng thứ 44 thế giới theo GDP
danh nghĩa và thứ 34 khi tính theo sức mua tương đương quốc tế. Với việc giảm
mạnh tỷ lệ nghèo từ trên 60% (năm 1986) xuống còn khoảng 7% (cuối năm 2017),
Việt Nam đã chuyển từ nhóm thu nhập thấp sang thu nhập trung bình. Thu nhập
1


bình quân đầu người năm 1985 mới đạt 230 USD đến nay đã tăng lên gần 2.540
USD. Vấn đề an sinh xã hội, bảo đảm chăm sóc sức khỏe, giáo dục,... được cải
thiện đáng kể.


Nhận thức được tầm quan trọng đó, cũng như trước thực tiễn về quyền con
người ở Việt Nam hiện nay, em chọn đề tài: “Quyền con người ở Việt Nam hiện
nay - Thực trạng và giải pháp đảm bảo cho sự phát triển” làm bài thu hoạch môn
Lý luận và pháp luật về Quyền con người.

2


NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận về Quyền con người
1.1. Khái niệm, nguồn gốc và tính chất của quyền con người
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều
định nghĩa khác nhau. Theo một tài liệu của Liên hợp quốc, từ trước đến nay có
đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố, mỗi định nghĩa tiếp
cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng
không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người.
Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc vào
sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, có một định
nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người (Office of High
Commissioner for Human Rights - OHCHR) thường được trích dẫn bởi các nhà
nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn
cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại
đến nhân phẩm, (entitlements) và tự do cơ bản (fundamentalfreedoms) của con
người.
Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác cũng thường được trích
dẫn, theo đó, quỳên con người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả
thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn
giáo, địa vị xã hội...; đêu có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chi vì họ là con người.

Định nghĩa này mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên.
Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan
nghiên cứu và chuyên gia từng nêu ra. Những định nghĩa này cũng không hoàn
3


toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là những
nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong
pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng được
xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ.
1.1.2. Nguồn gốc của quyền con người
Có hai trường phái cơ bản đưa ra hai quan điểm trái ngược nhau về nguồn
gốc của quyền con người. Những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural
rightsll2) cho rằng quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân
sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của gia đình nhân loại.
Các quyền con người, do đó, không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền
thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng
hay nhà nước nào.
Ngược lại, học thuyết về các quyền pháp lý (legal rights) cho rằng, các
quyền con người không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà
phải do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật
hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa.
Cho đến nay, cuộc tranh luận về nguồn gốc của quyền con người vẫn còn tiếp
tục. Tuy nhiên, việc phân định tính chất đúng, sai, hợp lý và không hợp lý của hai
học thuyết kể trên là không đơn giản do chúng liên quan đến một phạm vi rộng lớn
các vấn đề triết học, chính trị, xã hội, đạo đức, pháp lý... Mặc dù vậy, dường như
quan điểm cực đoan phủ nhận hoàn toàn bất cứ học thuyết nào trong hai học thuyết
kể trên đều không phù hợp, bởi lẽ trong khi về hình thức, hầu hết các văn kiện pháp
luật của các quốc gia đều thể hiện các quyền con người là các quỳên pháp lý, thì

trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 và một số văn kiện
4


pháp luật ở một số quốc gia, quyền con người được khẳng định một cách rõ ràng là
các quyền tự nhiên, vốn có và không thể tước bỏ được của mọi cá nhân. Cụ thể, ở
góc độ quốc tế, Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người nêu rằng:... thừa nhận
phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên
trong gia đình nhân loại. Ở góc độ quốc gia, Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ (1776) nêu rằng: ...mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo
hóa ban cho họ những quỳên không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quỳên
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc... Những tuyên bố này về sau được
tái khẳng định trong bản Tuyên ngôn Dân quyền và Quyền con người 1789 của nước
Pháp và bản Tuyên ngôn Độc lập 1945 của Việt Nam.
1.1.3. Tính chất của quyền con người
- Tính phổ biến: Tính phổ biến của nhân quyền thể hiện ở chỗ quyền con
người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng
cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử
vì bất cứ lý do gì, chẳng hạn như về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ
tuổi, thành phần xuất thân...
- Tính không thể tước bỏ: Tính không thể tước bỏ của nhân quyền thể hiện ở
chỗ các quyền con người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi
bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước.
- Tính không thể phân chia: Tính không thể phân chia của nhân quyền bắt
nguồn từ nhận thức rằng các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau,
nên về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào.

5



- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau
của nhân quyền thể hiện ở chỗ việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc
một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một
quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các
quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc
gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác.
1.2. Quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Có thể khẳng định, ở nước ta Hồ Chí Minh là người đầu tiên đề cập tới khái
niệm nhân quyền và là người đã đặt nền móng lý luận và thực tiễn bằng việc khẳng
định quyền con người gắn liền với quyền dân tộc, với độc lập chủ quyền quốc gia,
toàn vẹn lãnh thổ, đây là đặc điểm quan trọng và nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về quyền con người. Điều đó, được thể hiện trong 03 nội dung sau:
- Trong tư tưởng về nhân quyền ở nhiều nước phương Tây nêu ra, chủ yếu
và cốt lõi của nó là đòi quyền tự do cho mỗi cá nhân. Điều này đã được thể hiện rõ
trong Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam do Người trực tiếp soạn thảo và công bố
ngày 02-9-1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, Hồ Chí Minh khẳng định, một chân lý
lớn của thời đại mới trong thế kỷ XX đó là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều
sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự
do”. Đây là sự phát triển mới của Hồ Chí Minh và chính Người thừa nhận, suy
rộng ra từ câu mở đầu bất hủ của Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ năm 1776: “Tất cả
mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và
quyền được mưu cầu hạnh phúc”. Từ sự khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra
bình đẳng… có quyền được sống, quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh

6


phúc” , để đi đến khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình

đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
- Đó chính là quyền học tập, sáng tạo, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền tự
do, quyền dân sự, quyền về chính trị, kinh tế - văn hóa xã hội, cũng như quyền của
các nhóm người đặc biệt trong xã hội như: quyền các dân tộc thiểu số, quyền phụ
nữ, quyền của trẻ em, quyền của nhóm người có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn cần
được xã hội quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ để họ hòa nhập với cộng đồng xã hội…
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Người triệt để thực hiện giữa nói và làm, trở
thành một nguyên tắc trong hành động của Hồ Chí Minh. Người là một tấm gương
mẫu mực trong việc thực hiện triệt để nhất những tư tưởng đó còn hơn rất nhiều
lần so với những điều Người nói và viết. Sự thống nhất giữa tư tưởng và hành vi,
giữa lý luận và thực tiễn, giữa động cơ và hiệu quả đã trở thành đặc trưng nổi bật
của Hồ Chí Minh so các nhà tư tưởng, các lãnh tụ khác. Người nói : “Tôi chỉ có
một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có căm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Hồ Chí Minh khẳng định:
“Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc
của quốc dân. Trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đã dồn hết tâm lực, trí tuệ để lãnh
đạo nhân dân giành độc lập cho dân tộc, giành quyền làm chủ của con người, xây
dựng, phát triển đất nước mang lại hạnh phúc và quyền làm người cho nhân dân,
làm cho Việt Nam trở nên giàu mạnh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc
năm châu.. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tại cuộc họp đầu tiên của
Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của nước ta
là: “1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4.
Làm cho dân có học hành”. Người luôn tâm niệm, Nhà nước được độc lập mà dân
không được hưởng tự do, dân vẫn cứ chết đói, chết rét thì độc lập ấy chẳng có ý
nghĩa gì.
7


1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về Quyền con người
Một là, nhân dân là chủ thể của quyền; bảo đảm quyền con người là mục

tiêu, động lực của sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển. Tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất
nước và quyền làm chủ của nhân dân”. Điều 2, Hiến pháp năm 2013 quy định
“Nhà nước pháp quyền XHCN, của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”; nhân
dân là chủ nhân của đất nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Hai là, quyền con người vừa có tính phổ biến vừa có tính đặc thù; được thể
hiện ở tính nhân loại gắn với tính giai cấp và tính dân tộc. Quá trình hình thành,
phát triển quyền con người có tính phổ biến toàn nhân loại, chứ không phải là
“phát hiện” đặc thù của riêng phương Tây. “Quyền con người là thành quả của
cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp
bức trên thế giới và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ
thiên nhiên, qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại”.
Ba là, bảo đảm quyền con người theo phương châm thực hiện các giá trị
nhân quyền phổ quát trên cơ sở chủ quyền quốc gia. Ở nước ta, các giá trị phổ quát
của quyền con người đã được thể chế hóa trong Hiến pháp. Việc bảo đảm quyền con
người theo phương châm trên giúp mỗi cá nhân được bảo đảm các quyền dân chủ, tự
do cơ bản. Bảo đảm quyền và nghĩa vụ cá nhân không được tách rời bảo đảm quyền
và nghĩa vụ của cộng đồng. Bảo đảm quyền con người phải trên cơ sở chủ quyền
quốc gia, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nhân quyền quốc tế, như
quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ
của quốc gia khác,... để loại trừ mọi mưu toan lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền”
trên con đường phát triển đất nước.
8


Bốn là, quyền con người không đồng nhất với quyền công dân, gồm cả
quyền tập thể và quyền cá nhân; quyền gắn liền với nghĩa vụ, giới hạn quyền do
luật định, trên cơ sở xác định rõ chủ thể quyền và chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm

quyền. Hiến pháp năm 2013 quy định về hạn chế quyền nhằm bảo đảm thực hiện
quyền con người, quyền công dân một cách minh bạch, tránh sự cắt xén hay hạn
chế các quyền này một cách tùy tiện. Điều 6 Hiến pháp năm 2013 chế định: “1.
Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; 2. Không được lợi dụng
quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc,
quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”.
Năm là, quyền con người gắn với các điều kiện phát triển kinh tế, xã hội và
văn hóa. Đây là tư tưởng chỉ đạo quan trọng trong giải quyết các vấn đề về quyền
con người, nhằm tránh tình trạng chủ quan, duy ý chí trong xây dựng pháp luật,
cũng như tình trạng lạc hậu của pháp luật so với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội
và văn hóa.
Sáu là, bảo đảm sự bình đẳng giữa các quyền, có ưu tiên quyền của các
nhóm yếu thế, thiểu số và quyền phát triển. Tất cả các quyền đều gắn bó, phụ thuộc
lẫn nhau và không thể phân chia; mọi chủ thể của quyền (cá nhân, nhóm xã hội,
giới tính, dân tộc, chủng tộc) đều có quyền ngang nhau trong việc thụ hưởng, phát
triển quyền.
Bảy là, quyền con người được bảo đảm bằng chế độ dân chủ và Nhà nước
pháp quyền XHCN. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 xác định: “Nhà nước
tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc,
sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và
pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Nhân
dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống
chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”.
2. Thực trạng và giải pháp để đảm bảo cho sự phát
9


triển về Quyền con người ở Việt Nam hiện nay
2.1. Những thành tựu nỗi bật trong việc bảo đảm
thực hiện Quyền con người

Năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng chính thức
tuyên bố đường lối đổi mới, với nội dung cơ bản là chuyển nền kinh tế từ mô
hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN; dân chủ hóa đời sống xã hội trên cơ sở xây dựng nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân; mở cửa tăng cường giao lưu hợp tác với bên
ngoài trên tinh thần Việt Nam sẵn sàng làm bạn với các nước, phấn đấu vì hòa
bình, hợp tác và phát triển.
Với việc đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách, coi con
người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển, đường lối đổi mới
kể trên không chỉ tác động đến kinh tế, xã hội mà đồng thời chi phối mạnh mẽ
nhận thức và thực tế bảo đảm quyền con người ở nước ta trong thời gian qua.
Hiến pháp năm 1992 (Điều 50) lần đầu tiên đề cập đến thuật ngữ quyền con
người và khẳng định: “ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các
quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Cùng với khái niệm
quyền con người, các khái niệm có liên quan khác như quyền bình đẳng của phụ
nữ, quyền trẻ em… cũng được chính thức đề cập trong các văn kiện của Đảng và
các văn bản pháp luật, pháp quy của Nhà nước. Điều đó cũng đã tạo nên sự chuyển
biến về nhận thức: từ sự đồng nhất một cách ấu trĩ khái niệm quyền con người, như
là sản phẩm của chủ nghĩa cá nhân hoặc như là một thứ công cụ chính trị, mà các
thế lực tư bản chủ nghĩa ở phương Tây sử dụng để chống phá các nước XHCN đến
cách nhìn nhận khách quan hơn, coi nhân quyền là sản phẩm chung, là sự kết tinh
10


của nền văn minh nhân loại; tuy mang tính phức tạp và nhạy cảm, nhưng vẫn là
một yếu tố không thể bỏ qua trong đời sống chính trị hiện đại.
Xét riêng trên lĩnh vực lập pháp, chỉ tính từ năm 1996 đến năm 2002, Nhà
nước đã ban hành 13.000 văn bản pháp luật các loại, trong đó có hơn 40 Bộ Luật

và Luật, trên 120 Pháp lệnh, gần 850 văn bản pháp luật của Chính phủ và trên
3.000 văn bản pháp quy của các bộ, ngành, trong đó đã “nội luật hóa” một cách
toàn diện những công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã phê chuẩn
hoặc gia nhập từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX và trong thời kỳ này. Đây là
điều mà trong giai đoạn trước hầu như chúng ta chưa làm được.
2.2. Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị ở nước ta trong quá trình đổi
mới ở Việt Nam
Trên lĩnh vực dân sự, chính trị, trong Hiến pháp 1992, có 5 quyền quan trọng
được ban hành mới hoặc bổ sung thêm, bao gồm: quyền sở hữu tài sản (bao gồm
cả tư liệu sản xuất); quyền tự do kinh doanh; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài
về nước theo luật định; quyền được thông tin theo luật định; quyền bình đẳng của
các tôn giáo; quyền không bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản
án kết tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật. Ngoài ra, Hiến pháp năm 1992 còn đề cập đến việc Nhà nước bảo hộ
quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và mở rộng việc
bảo vệ, giúp đỡ các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
Nội dung đảm bảo quyền dân sự - chính trị ở nước ta được thể hiện một cách
cụ thể: Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân; Bảo đảm quyền
bất khả xâm phạm về tính mạng và Bảo đảm một số quyền dân sự, chính trị khác:
2.3. Bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
Nhằm bảo đảm thực hiện các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của nhân dân
trong giai đoạn mới, từ năm 1986 đến nay, bên cạnh Hiến pháp năm 1992, Nhà
11


nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, trong đó có thể kể như Bộ
Luật Dân sự (1995), Bộ Luật Lao động (1994), Luật Giáo dục (1998), Luật Bảo vệ,
Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (1991), Luật Phổ cập giáo dục tiểu học (1991), Pháp
lệnh về người tàn tật (1998)…
Nội dung bảo đảm quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được cụ thể trong các

quyền tiêu biểu nhất là:Bảo đảm quyền làm việc; Bảo đảm quyền được tiếp cận
với giáo dục; Bảo đảm quyền được chăm sóc y tế và Quyền được bảo đảm xã hội.
Thành công nổi bật nhất trong việc thực hiện quyền được bảo đảm xã hội ở
nước ta từ khi đổi mới đến nay là việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo
đây một chủ trương và quyết sách lớn của Đảng, Nhà nước ta trong lĩnh vực kinh
tế, xã hội.
2.4. Các giải pháp bảo đảm phát triển các quyền cơ bản của con người
Bảo đảm thực hiện quyền con người được đặt ra trước hết xuất phát từ mục
tiêu, bản chất của chế độ; đó cũng là một trong những nội dung và đặc trưng rất cơ
bản và quan trọng của Nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây dựng;
đồng thời, trước xu thế dân chủ hóa, giao lưu và hội nhập quốc tế ngày càng gia
tăng, đòi hỏi quyền con người và các quyền tự do cơ bản của cá nhân công dân
phải được tôn trọng và tăng cường hơn nữa. Trước yêu cầu đó, trong điều kiện
nước ta hiện nay, bảo đảm hiện thực hóa quyền con người cần phải áp dụng một hệ
thống đồng bộ các nhóm giải pháp.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo
vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người, quyền công dân
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta và
trong các Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X
đều xác định: Nhà nước ta định ra các đạo luật quy định quyền con người, quyền
công dân, trong đó bên cạnh các luật về kinh tế, Nhà nước cần ưu tiên xây dựng
các luật về quyền công dân.’ nước ta, tồn tại một nguyên tắc Hiến định: các quyền
12


con người, quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp và
Luật. Như thế, các quyền được quy định trong Hiến pháp tạo thành hệ thống các
quyền và nghĩa vụ cơ bản có tính nguyên tắc nền tảng. Các quyền được quy định
trong luật, một mặt, là cụ thể hóa các quyền trong Hiến pháp, mặt khác, phát triển
và bổ sung thêm những quyền mới. Vì vậy, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp

luật bảo đảm quyền con người, quyền công dân đòi hỏi tăng cường hoạt động lập
pháp của Quốc hội như là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người.
Trước mắt, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm
các quyền con người về dân sự, chính trị; các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa;
quyền của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội như quyền trẻ em, quyền
phụ nữ; quyền của công dân cao tuổi… Để làm được điều đó, cần có sự nghiên cứu
và tổng kết toàn diện và sâu sắc hệ thống pháp luật hiện hành, có sự phân tích, so
sánh đối chiếu với các quy định quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham
gia.
Trên cơ sở các quan điểm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo
đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đặt ra trong thời
gian tới, các quy phạm pháp luật về các quyền dân sự, chính trị cần được chế định
thêm, cụ thể và rõ ràng hơn trong Hiến pháp; tiến tới mỗi quyền trong Hiến pháp
cần được quy định trong một đạo luật cụ thể, chẳng hạn như quyền được thông tin
(cần có Luật về thông tin); quyền tự do lập hội, hội họp (cần phải sửa đổi luật hiện
hành); các quyền tham gia công việc nhà nước như quy định về trưng cầu dân ý
(cần có Luật trưng cầu dân ý); các quy định về dân chủ ở cơ sở (cần nâng cấp Quy
chế dân chủ ở cơ sở lên thành Luật về dân chủ ở cơ sở…).
Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng cần gấp rút được nghiên cứu và
tổng kết thực tiễn; trên cơ sở đó chế định quyền sở hữu cá nhân cần phải được
quy định cụ thể hơn. Vì đây là quyền giữ vị trí chi phối các quyền khác. Theo đó,
cần hoàn thiện pháp luật cụ thể hóa Điều 58 Hiến pháp 1992, tạo cơ sở pháp lý
13


vững chắc để cá nhân, công dân tự kiểm soát, bảo vệ tài sản của mình và Nhà
nước thông qua công cụ pháp lý và bộ máy chuyên chính có trách nhiệm bảo vệ
tài sản của cá nhân, công dân. Chỉ khi quyền sở hữu cá nhân được bảo đảm, công
dân mới an tâm đưa vốn vào sản xuất kinh doanh, tạo ra của cải làm giàu cho bản
thân và xã hội.

Trong nhà nước pháp quyền không chỉ bảo vệ quyền lợi của người dân nói
chung mà xuất phát từ đặc thù về thể chất, tâm lý, quyền lợi của trẻ em, phụ nữ,
công dân cao tuổi cũng như những người bị khuyết tật… phải được coi là đối
tượng ưu tiên trong việc bảo vệ, yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật bảo
vệ quyền lợi của nhóm đối tượng này là: Không được có bất kỳ sự phân biệt đối xử
nào trong các quy định của pháp luật; quyền lợi của họ phải được bảo đảm trên
thực tế. Đồng thời, từ chủ nghĩa nhân văn, “uống nước nhớ nguồn”, sớm hoàn
thiện nâng lên thành luật định bảo đảm quyền lợi của gia đình cách mạng và người
có công với đất nước trước những biến đổi sâu sắc của bối cảnh xã hội và những
tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
- Xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước và hoàn
thiện cơ chế kiểm tra, giám sát bảo đảm nhân dân tham gia thực sự công việc nhà
nước
Trước mắt và trong thời gian tới đối với cán bộ, công chức nhà nước trong
mối quan hệ với nhân dân (quan hệ cá nhân và Nhà nước) đòi hỏi xây dựng chế độ
trách nhiệm bảo đảm mỗi cán bộ, công chức nhà nước có thể phát huy hết năng lực
cá nhân; đồng thời, xác định cụ thể trách nhiệm cá nhân của mỗi cán bộ, công chức
nhà nước trong quá trình thực thi công vụ, giảm thiểu nguy cơ có thể xâm phạm
quyền của công dân. Theo đó, pháp luật phải cụ thể hóa mối quan hệ giữa cá nhân,
công dân với Nhà nước. Nhà nước là tổ chức công quyền, nghĩa là người làm công,
mang quyền lực được ủy quyền từ nhân dân, do đó xác định cụ thể các quyền của
công dân theo hướng công dân có quyền được làm tất cả những gì luật pháp không
14


cấm, còn cán bộ, công chức nhà nước chỉ được phép làm những gì mà luật pháp
quy định. Đồng thời, trách nhiệm của Nhà nước là phải tôn trọng, bảo đảm thực
hiện quyền con người; và công dân cũng phải làm tròn những nghĩa vụ phát sinh từ
việc hưởng thụ các quyền do Hiến pháp và pháp luật quy định.
Quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân bảo đảm tính ràng

buộc hai chiều, trước hết nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức là
phục vụ nhân dân, chứ không phải “làm quan cách mạng”. Trong điều kiện nước
ta hiện nay, đòi hỏi chuyển mạnh từ “nền hành chính cai trị sang nền hành chính
phục vụ”.
Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và tạo
điều kiện để nhân dân tham gia tích cực, chủ động vào công việc nhà nước, công
việc xã hội, trong đó có việc nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của
Nhà nước, hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước. Kiểm tra và giám sát hoạt
động của Nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước – những người phục vụ nhân
dân, đòi hỏi Nhà nước phải báo cáo hoạt động trước nhân dân, bảo đảm quyền của
công dân được cung cấp thông tin một cách chân thực và chính xác từ phía cơ quan
công quyền. Những người trực tiếp do nhân dân bầu ra, phải thường xuyên tiếp xúc
với nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức nhà nước,
tăng cường hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, nhất là tổ, khu dân phố nơi cán
bộ, vợ con của cán bộ, công chức sinh sống và làm việc.
- Xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, giảm sự phân hóa giàu
nghèo, nền tảng cho phát triển bền vững
Bảo đảm thực hiện quyền con người trong nhà nước pháp quyền XHCN tự
bản thân đã đòi hỏi nghèo đói phải được giải quyết về căn bản. Điều đó cho thấy,
bảo đảm quyền kinh tế cho mọi người, quyền bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế, đòi
hỏi chiến lược xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội và dần dần giảm
sự phân cách giàu nghèo là rất quan trọng.
15


Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải là một xã hội người giàu với
số lượng ngày càng đông và người nghèo số lượng ngày càng giảm. Để thực hiện
được điều đó, vấn đề quan trọng hiện nay là Nhà nước với vai trò điều tiết vĩ mô,
quản lý nền kinh tế, dùng công cụ, sức mạnh thông qua chính sách thuế, thực hiện
việc điều tiết, phân phối lợi ích và bảo đảm phúc lợi xã hội, trong đó chú trọng đến

các đối tượng hưởng chính sách xã hội, đến vùng sâu, vùng xa; đồng thời, có chiến
lược phát triển kinh tế vùng miền, bảo đảm vùng sâu, vùng xa dần tiến kịp với các
thành phố, đô thị…
Kinh nghiệm chỉ ra rằng, những bất ổn về chính trị, sự phân hóa và ly khai
có những nguyên nhân sâu xa của nó, nhưng đều bắt nguồn từ sự phân bổ không
công bằng về lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần và sự phân cách giàu nghèo quá lớn
trong xã hội. Vì thế, để khắc phục tình trạng trên, cần thực hiện tốt chiến lược xóa
đói, giảm nghèo. Trong đó, việc đào tạo nghề, cho vay vốn, ưu tiên trong giáo dục,
đào tạo, trong đầu tư… đối với đối tượng nghèo, gia đình khó khăn, gia đình thuộc
diện chính sách, con em nông dân và đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân
tộc thiểu số phải là bước đi đầu tiên trong hoạch định chính sách cả ở tầm vĩ mô và
vi mô. Và phát triển đồng đều phải trở thành một nguyên tắc trong hoạch định
chính sách xã hội, chính sách kinh tế.
- Tăng cường bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự
Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự, đó là trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và cả quá trình giam giữ, cải tạo phạm nhân,
bảo đảm rằng mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm
minh, và suốt quá trình tiến hành tố tụng không được làm oan người vô tội. Người
phạm tội phải bị đưa ra xét xử, chịu hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội.
Những mục đích của hình phạt lại không phải chỉ là trừng trị mà giáo dục, cải tạo,
răn đe và phòng ngừa tội phạm là mục đích ưu tiên hàng đầu. Đây là yêu cầu rất cơ
bản để bảo đảm quyền con người trong nhà nước pháp quyền XHCN.
16


Trong điều kiện nước ta hiện nay, đòi hỏi xây dựng được một đội ngũ cán
bộ tư pháp tận tâm, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có khả năng hoàn
thành nhiệm vụ; đồng thời hoàn thiện kể cả về tổ chức với một cơ chế giám sát,
chỉ đạo điều hành chặt chẽ từ phía Đảng, cơ quan nhà nước, đoàn thể, nhân dân là
rất cần thiết.

Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp. Bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng không phải là can thiệp vào hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử, mà bảo đảm sự lãnh đạo chỉ đạo bằng đường lối, chủ trương lớn ở tầm vĩ
mô; về xây dựng tổ chức, bộ máy, về công tác cán bộ…
Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với
cơ quan tư pháp.
Tăng cường sự giám sát của đoàn thể quần chúng, các tổ chức chính trị xã
hội đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm sự tham gia trong lĩnh vực đấu tranh phát
giác tội phạm và tham gia hoạt động xét xử (cơ chế hội thẩm).
Cuối cùng, nhưng chiếm vị trí quan trọng là nâng cao vị trí, vai trò của luật
sư trong hoạt động tư pháp. Luật sư phải là người đại diện thực sự cho thân chủ. Sự
tham gia của luật sư là để giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá
trình tiến hành tố tụng, nhanh chóng làm sáng tỏ bản chất thật sự của vụ án, tránh
và giảm thiểu đến mức thấp nhất oan sai, không vô tư, khách quan trong hoạt động
tố tụng.

17


KẾT LUẬN
Quyền con người bao hàm nhiều nội dung rộng lớn và phức tạp, liên quan
đến nhiều vấn đề nhạy cảm, như dân chủ, dân tộc, tôn giáo,... Hiện nay, cùng với
sự phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí cũng được nâng cao, đặt ra yêu cầu
cao hơn đối với việc bảo đảm các tiêu chuẩn nhân quyền đã được pháp luật quốc tế
công nhận. Mặt khác, sự phân hóa - phân tầng xã hội không chỉ bị tác động bởi sự
phân hóa giàu nghèo, mà còn bị ảnh hưởng bởi sự đa dạng về văn hóa vùng miền,
văn hóa tộc người và hội nhập quốc tế; dẫn đến sự đa dạng hóa các nhu cầu về
quyền con người giữa các giai tầng xã hội. Bên cạnh những quyền căn bản (quyền
sống, quyền có việc làm, chỗ ở, chăm sóc sức khỏe,...) xuất hiện các quyền mới,
như: quyền về môi trường trong lành, quyền riêng tư cá nhân, quyền được bí mật

thông tin, quyền của giới tính “thứ ba”, quyền của công dân nước ngoài định cư tại
Việt Nam và Việt kiều, quyền sở hữu đất và bất động sản, quyền có việc làm và
nghề nghiệp, quyền của người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, quyền của các nhóm
yếu thế và thiểu số, v.v..
Thực tế đó đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc hơn, sát thực tiễn hơn về nhân
quyền, nhằm thúc đẩy bảo đảm quyền con người phù hợp với thực tế Việt Nam.
18



×