Tải bản đầy đủ (.pdf) (171 trang)

Luận văn tiến sĩ ngữ văn ngôn ngữ trần thuật trong hồi ký tô hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 171 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ ĐÀO

NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT
TRONG HỒI KÝ TÔ HOÀI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ ĐÀO

NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT
TRONG HỒI KÝ TÔ HOÀI
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 922 01 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Tập thể hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. PHẠM VĂN TÌNH
TS. NGUYỄN VĂN NGUYÊN

NGHỆ AN - 2018




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ
một công trình nào khác.
Người viết

Nguyễn Thị Đào


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................. 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................... 2
4. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu................................................................... 3
5. Đóng góp của luận án....................................................................................... 3
6. Cấu trúc của luận án ......................................................................................... 4
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT..... 5
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .................................................................... 5
1.1.1. Nghiên cứu về ngôn ngữ trần thuật.......................................................... 5
1.1.2. Nghiên cứu về hồi ký .............................................................................. 7
1.1.3. Nghiên cứu chung về phong cách nghệ thuật hồi ký Tô Hoài ................ 12
1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài ............................................................................. 17
1.2.1. Ngôn ngữ trần thuật............................................................................... 17
1.2.2. Thể loại ký trong văn học...................................................................... 22
1.3. Tô Hoài và hồi ký........................................................................................ 30

1.3.1. Con người và sự nghiệp sáng tác ........................................................... 30
1.3.2. Vị trí của hồi ký trong sáng tác của Tô Hoài.......................................... 32
1.3.3. Đặc điểm hồi ký Tô Hoài ...................................................................... 33
1.4. Tiểu kết chương 1........................................................................................ 35
Chương 2. TỪ NGỮ TRONG LỜI TRẦN THUẬT HỒI KÝ TÔ HOÀI ......... 37
2.1. Từ trong ngôn ngữ và từ trong tác phẩm nghệ thuật..................................... 37
2.1.1. Từ trong ngôn ngữ ................................................................................ 37
2.1.2. Từ trong tác phẩm nghệ thuật ................................................................ 38
2.2. Từ ngữ trong lời trần thuật hồi ký Tô Hoài .................................................. 40
2.2.1. Các lớp từ xét về mặt cấu tạo ................................................................ 40
2.2.2. Các lớp từ ngữ xét về mặt phong cách................................................... 50
2.2.3. Các trường từ vựng nổi bật trong Hồi ký Tô Hoài ................................. 62
2.3. Những sáng tạo trong cách sử dụng từ ngữ .................................................. 83
2.4. Tiểu kết chương 2........................................................................................ 90


Chương 3. CÂU TRONG LỜI TRẦN THUẬT HỒI KÝ TÔ HOÀI ................ 92
3.1. Câu trong ngôn ngữ và câu trong văn bản nghệ thuật................................... 92
3.1.1. Câu trong ngôn ngữ............................................................................... 92
3.1.2. Câu trong văn bản nghệ thuật ................................................................ 94
3.2. Câu trong hồi ký Tô Hoài xét về cấu tạo...................................................... 95
3.2.1. Số liệu thống kê .................................................................................... 95
3.2.2. Câu đơn trong hồi ký Tô Hoài ............................................................... 97
3.2.3. Câu ghép trong hồi ký Tô Hoài ........................................................... 119
3.3. Câu trong hồi ký Tô Hoài xét theo mục đích nói........................................ 127
3.3.1. Số liệu thống kê .................................................................................. 127
3.3.2. Vai trò của các loại câu trong hồi kí của Tô Hoài xét theo mục đích nói .. 128
3.4. Biện pháp tu từ cú pháp trong hồi ký Tô Hoài ........................................... 132
3.4.1. Số liệu thống kê .................................................................................. 132
3.4.2. Một số biện pháp tu từ cú pháp trong hồi kí của Tô Hoài .................... 133

3.5. Tiểu kết chương 3...................................................................................... 144
KẾT LUẬN........................................................................................................ 147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ .............. 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................. 152
TƯ LIỆU KHẢO SÁT....................................................................................... 165


MỤC LỤC CÁC BẢNG BIỂU THỐNG KÊ
Trang
Bảng 2.1. Từ đơn trong hồi ký Tô Hoài .............................................................. 41
Bảng 2.2. Từ ghép trong hồi ký Tô Hoài............................................................. 44
Bảng 2.3. Từ láy trong hồi kí Tô Hoài ................................................................ 46
Bảng 2.4. Từ Hán Việt trong lời trần thuật hồi ký Tô Hoài ................................. 51
Bảng 2.5. Từ khẩu ngữ trong hồi kí Tô Hoài....................................................... 55
Bảng 2.6. Một số trường từ vựng nổi bật trong hồi ký Tô Hoài ........................... 63
Bảng 2.7. Từ chỉ màu sắc trong hồi ký Tô Hoài .................................................. 64
Bảng 2.8. Lớp từ ngữ chỉ hoạt động trong hồi ký Tô Hoài .................................. 70
Bảng 2.9. Lớp từ ngữ chỉ thời gian trong hồi ký Tô Hoài .................................... 75
Bảng 2.10. Thống kê sự sáng tạo từ ngữ trong hồi kí Tô Hoài............................... 84
Bảng 3.1. Bảng thống kê phân loại câu xét về mặt cấu tạo .................................. 96
Bảng 3.2. Câu đơn trong lời trần thuật của hồi ký Tô Hoài ................................. 98
Bảng 3.3. Câu đơn bình thường mở rộng trong trong hồi ký Tô Hoài.................. 99
Bảng 3.4. Câu đơn có các thành phần phụ trong lời trần thuật trong hồi ký
Tô Hoài ............................................................................................ 101
Bảng 3.5. Câu đơn đặc biệt trong lời trần thuật của hồi ký Tô Hoài .................. 107
Bảng 3.6. Câu ghép trong lời trần thuật của hồi ký Tô Hoài.............................. 120
Bảng 3.7. Câu ghép có từ liên kết trong lời trần thuật của hồi ký Tô Hoài......... 120
Bảng 3.8. Câu phân loại theo mục đích nói trong lời trần thuật trong hồi ký
của Tô Hoài ...................................................................................... 128
Bảng 3.9. Một số biện pháp tu từ cú pháp trong hồi ký của Tô Hoài ................. 132



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong số các tên tuổi hàng đầu của văn xuôi hiện đại Việt Nam, Tô Hoài
là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào, bền bỉ và đa dạng vào bậc nhất. Tô Hoài đóng
góp cho nền văn học hiện đại Việt Nam bằng một khối lượng tác phẩm đồ sộ, đến
nay ông đã cho in trên 200 cuốn. Sáng tác của Tô Hoài lại đa dạng về đề tài và thể
loại, ở đề tài và thể loại nào, ông cũng tạo được những dấu ấn riêng rõ nét. Cho nên,
nghiên cứu tác phẩm của Tô Hoài, dù ở đề tài, thể loại nào cũng là sự cần thiết đối
với sáng tác của ông nói riêng đối với văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
1.2. Hồi ký là thể văn sở trường, đặc sắc nhất của Tô Hoài, in đậm dấu ấn
cảm quan con người của nhà văn. Đối với Tô Hoài, hồi ký là thể loại chiếm vị trí
quan trọng trong sáng tác của ông. Đọc các hồi ký của Tô Hoài, ta mới thấy hết cảm
quan nghệ thuật và công phu chữ nghĩa của nhà văn. Tô Hoài quan niệm sáng tạo
văn chương là thứ lao động nghiêm túc, đòi hỏi một tinh thần trách nhiệm cao. Có
được quan niệm đó, bởi vì, ông sống rất kĩ lưỡng với đời sống quanh mình, từ
chuyện riêng tư đến chuyện bạn bè, chuyện làm nghề đến những công việc cách
mạng, chuyện gì cũng đưa vào hồi ký để trở thành văn chương. Ông cũng hết sức
kỹ lưỡng trong lựa chọn và sử dụng ngôn từ để đụng đâu cũng ra văn, một thứ văn
của một bậc thầy tiếng Việt. Cho nên, nghiên cứu văn chương của Tô Hoài thì hồi
ký của ông có lẽ đó là một đối tượng cần được quan tâm hàng đầu.
1.3. Đối với thể loại hồi ký, trần thuật là phương thức đặc trưng. Vì vậy,
nghiên cứu về hồi ký của Tô Hoài, không thể không tìm hiểu nghệ thuật ngôn ngữ
của ông, đặc biệt là ngôn ngữ trần thuật. Sự tìm tòi, sáng tạo trong nghệ thuật hồi ký
của Tô Hoài chủ yếu thuộc lĩnh vực ngôn từ. Mạch văn, cách dùng chữ của ông có
một lối đi riêng, tạo nên một tiếng nói, một cách nhìn, một cá tính độc đáo. Trong
khả năng vận dụng ngôn ngữ ấy thì lời văn trần thuật giữ vai trò chủ đạo.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đi sâu tìm hiểu Ngôn ngữ trần thuật

trong hồi ký Tô Hoài nhằm làm nổi rõ sự đa dạng, tính phức điệu của ngôn từ trần
thuật, yếu tố góp phần không nhỏ cho sự thành công của thể loại hồi ký và sự
nghiệp văn chương của ông.


2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài Ngôn ngữ trần thuật trong hồi ký Tô Hoài, chúng tôi hướng
đến những mục đích sau:
- Qua khảo sát ngôn ngữ cụ thể (từ ngữ, câu) được Tô Hoài sử dụng trong
ngôn ngữ trần thuật hồi ký, chúng tôi chỉ ra được các đặc điểm về mặt sử dụng ngôn
ngữ trên phương diện từ, câu của nhà văn.
- Các kết quả nghiên cứu ngôn ngữ trần thuật qua các tác phẩm hồi ký của
Tô Hoài góp phần làm rõ hơn đặc điểm ngôn ngữ thể loại hồi ký.
- Luận án góp phần cho thấy những đóng góp của Tô Hoài đối với sự phát
triển từ vựng tiếng Việt thế kỷ XX.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án hướng đến thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về ký nói chung và hồi ký nói riêng. Xác
định cơ sở lý thuyết đề tài, ngôn ngữ thể loại và khái niệm liên quan đến đề tài.
- Khảo sát, thống kê, phân loại, miêu tả một số lớp từ, một số trường nghĩa
đặc sắc trong lời văn trần thuật trong các tác phẩm hồi ký Tô Hoài thể hiện sự chọn
lựa của tác giả và vai trò, hiệu quả của chúng.
- Khảo sát, miêu tả câu trên phương diện cấu tạo, chức năng cũng như các
phương diện biện pháp tu từ cú pháp và phân tích hiệu quả của cách sử dụng đó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Ngôn ngữ trong lời trần thuật hồi ký Tô Hoài (từ, câu và các biện pháp tu từ
cú pháp nổi bật).

3.2. Phạm vi khảo sát và nghiên cứu
- Phạm vi ngữ liệu khảo sát: Các tác phẩm hồi ký của Tô Hoài bao gồm:
+ Cỏ dại (1944);
+ Tự truyện (1978);
+ Những gương mặt (1988);
+ Cát bụi chân ai (1992);


3
+ Chiều chiều (1999).
- Phạm vi nghiên cứu: Luận án chỉ giới hạn ở việc khảo sát từ ngữ và câu
trong ngôn ngữ trần thuật hồi ký Tô Hoài.
4. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp và thủ
pháp nghiên cứu sau:
4.1. Phương pháp phân tích diễn ngôn
Phương pháp phân tích diễn ngôn là phương pháp chủ đạo để phân tích ngôn
ngữ trần thuật trong hồi ký Tô Hoài gồm cách sử dụng từ ngữ, trường nghĩa, câu và
biện pháp tu từ cú pháp.
4.2. Phương pháp miêu tả
Dựa vào số lượng các loại từ và câu trong ngôn ngữ trần thuật của hồi ký Tô
Hoài được thống kê, phân loại, luận án đi sâu vào miêu tả đặc điểm về ngữ nghĩa,
các nhân tố chi phối đến sự hành chức của ngôn ngữ trần thuật. Các nhận định, đánh
giá được luận án rút ra đều dựa trên sự miêu tả, phân tích số liệu cụ thể. Tần số lặp
lại cao hay thấp của số liệu thống kê là cơ sở quan trọng phản ánh tính quy luật của
đối tượng, giúp chúng tôi chỉ ra và lý giải những đặc điểm ngôn ngữ trần thuật trong
hồi ký của ông.
4.3. Thủ pháp thống kê phân loại
Luận án thống kê các lớp từ ngữ về cấu tạo và một số lớp từ ngữ về phong
cách, các trường nghĩa nổi bật, câu và các biện pháp tu từ cú pháp trong ngôn ngữ

trần thuật ở 5 tác phẩm hồi ký của Tô Hoài. Từ nguồn tư liệu này, chúng tôi tiến
hành phân loại các lớp từ ngữ, trường nghĩa, câu và biện pháp tu từ cú pháp dựa vào
những tiêu chí cụ thể.
4.4. Thủ pháp so sánh
Luận án so sánh một số điểm tương đồng và khác biệt giữa ngôn ngữ trần
thuật của Tô Hoài với một số tác giả cùng thời để làm nổi rõ những nét riêng trong
phong cách ngôn ngữ hồi ký của ông.
5. Đóng góp của luận án
- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu về ngôn ngữ trần thuật trong hồi
ký Tô Hoài một cách hệ thống từ góc nhìn ngôn ngữ học. Các kết quả của luận án


4
nhằm làm nổi rõ những nét đặc sắc trong ngôn ngữ hồi ký của nhà văn Tô Hoài; ghi
nhận những đóng góp của ông trong sự phát triển ngôn ngữ hồi ký nói riêng, ngôn
ngữ nghệ thuật nói chung.
- Luận án góp phần chỉ ra vai trò của Tô Hoài trong việc sử dụng đa dạng các
loại ngôn ngữ đời sống vào ngôn ngữ nghệ thuật, sự kết hợp giữa phong cách truyền
thống và phong cách hiện đại; khẳng định những đóng góp của nhà văn đối với sự
phát triển của thể hồi ký nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung luận án triển
khai thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài
Chương 2: Từ trong lời trần thuật hồi ký Tô Hoài
Chương 3: Câu trong lời trần thuật hồi ký Tô Hoài


5
Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu về ngôn ngữ trần thuật
Ngôn ngữ trần thuật (tiếng Anh: narrative discourse, tiếng Pháp: Discours
naratif) là một khái niệm hết sức trừu tượng, phức tạp, liên quan đến rất nhiều yếu
tố trong việc trần thuật. Nếu đứng từ góc độ khác nhau (từ Ngôn ngữ học, Văn học,
Tự sự học, hay Văn bản học,…) để tiếp cận ngôn ngữ trần thuật thì sẽ có những
đánh giá và nhận xét khác nhau về yếu tố nội hàm, ngoại diên, cấu thành hay vai trò
của nó. Tuy nhiên, trong các tài liệu chúng tôi tham khảo, các tác giả không ai đưa
ra định nghĩa cụ thể về ngôn ngữ trần thuật. Bắt đầu những năm 80 của thế kỷ XX,
khái niệm ngôn ngữ trần thuật được nhiều ngành, nhiều nhà nghiên cứu quan tâm
và bàn luận từ nhiều khía cạnh khác nhau với nội dung ngày một phong phú hơn.
1.1.1.1. Trên thế giới
Việc nghiên cứu ngôn ngữ trần thuật đã được nhiều nhà ngôn ngữ học trên
thế giới quan tâm như: Lý luận tự sự đương đại (Recent Theories of Narrative) của
Wallace Martin (1986) [208 ], Nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể (Introduction
to the Structural Analysis of Narratives) của Roland Barthes (1977) [196], Ngôn
ngữ trần thuật - ngôn ngữ trần thuật mới (Narrative Discourse - New Narrative
Discourse) của G.Genette (1986) [203], Trần thuật học: Dẫn luận lý luận tự sự
(Narratology: Introduction to the Theory of Narrative) của Mieke Bal (1985, 1997)
[195], Lý luận tự sự của hậu hiện đại (Postmodern Narrative Theory) của Mark
Curre (1998) [202], Hướng dẫn lý luận tự sự đương đại (A Companion to Narative
Theory) do James Phelan và Peter J. Rabinnowitz chủ biên (2005) [210],... Mỗi tác
giả nghiên cứu một phương diện khác nhau của lý thuyết ngôn ngữ trần thuật.
G.Genette trong cuốn Ngôn ngữ trần thuật - Tân diễn ngôn trần thuật đã khu
biệt ba hàm nghĩa của tự sự, định nghĩa ba khái niệm truyện, tự sự và trần thuật.
Đồng thời, G.Genette cũng đã vận dụng lý thuyết ngôn ngữ học của F.de Saussure
để giải thích truyện kể, tự sự và trần thuật. Ông cho rằng tất cả những hành động



6
trần thuật mang tính sáng chế (sản xuất ra những văn bản nghệ thuật có nội dung
truyện kể) và kể cả những tình cảnh thực hay ảo mà hành động trần thuật xảy ra
trong ấy đều là trần thuật. Ông khu biệt hình thức cấu tạo cơ bản của ngôn ngữ tự sự
như sau: tất cả ngôn ngữ xuất hiện trong một văn bản tự sự dều là ngôn ngữ do
người trần thuật nói ra. Và G.Genette cũng cho rằng ngôn ngữ trần thuật chủ yếu là
nghiên cứu các mối quan hệ giữa tự sự và truyện kể, tự sự và trần thuật, chuyện kể
và trần thuật [203].
Trần thuật học: Dẫn luận lý luận tự sự (Narratology: Introduction to the
Theory of Narrative) của Mieke Bal là công trình quan trọng về lý luận Trần thuật
học, tập trung giới thiệu các thành phần chủ yếu về lý luận tổng hợp của văn bản
trần thuật/tự sự từ các khía cạnh văn bản, câu chuyện, giải thích lý thuyết cơ bản về
lý luận tự sự như người hành động, thời gian, địa điểm, sự kiện, người trần thuật,…
Mieke Bal cho rằng, ngôn ngữ trần thuật nghiên cứu quan hệ giữa trạng thái thời
gian và sự kiện trong các mô thức ngôn ngữ của văn bản tự sự, tập trung vào các
mối quan hệ có thể giữa truyện kể và văn bản tự sự, quá trình trần thuật và văn bản
trần thuật/tự sự [195],...
Trong Lý luận tự sự của hậu hiện đại của Mark Curre, ông tập trung nghiên
cứu những thay đổi của hậu hiện đại, giải thích các yếu tố lý luận tự sự như khách
thể, thời gian, không gian, chủ thể tự sự. Hai chủ đề quan trọng được thể hiện trong
cuốn sách là quan hệ giữa tự sự với thân phận, vai trò của thời gian trong việc trần
thuật [202],…
Nhìn chung, các tác giả nước ngoài đã đề cập đến vấn đề ngôn ngữ trần thuật
ở bình diện lí thuyết trần thuật, nghiên cứu ngôn ngữ trần thuật, chứ chưa đi vào tìm
hiểu biểu hiện của ngôn ngữ trần thuật qua tác phẩm.
1.1.1.2. Ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu trong nước cũng đã đi sâu
tìm hiểu vấn đề ngôn ngữ trần thuật như: Dẫn luận thi pháp của Trần Đình sử
(1998) [150], Tự sự học, một số vấn đề lý luận và lịch sử do Trần Đình Sử chủ biên

(2004) [151], Những vấn đề thi pháp truyện của Nguyễn Thái Hòa (2000) [78],
Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam đương đại của Thái Phan Vàng


7
Anh [2], Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 của Hoàng Dĩ
Đình (2014) [45],...
Trong công trình Những vấn đề thi pháp truyện, Nguyễn Thái Hòa [78] đã
khảo sát và nghiên cứu những yếu tố quan trọng trong truyện là lời kể, lời thoại,
không gian, thời gian và giọng văn từ nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau.
Cũng nghiên cứu về thời gian trong tác phẩm văn học, Lê Thị Tuyết Hạnh đã
khẳng định vai trò quan trọng của thời gian trong các yếu tố cấu trúc nên một văn bản
tự sự của văn học. Trong công trình, tác giả đi sâu khảo sát quan hệ giữa thời gian với
sự kiện cũng như thời gian với tâm lý nhân vật. Thời gian được xem như là một trung
tâm trong việc tổ chức một tác phẩm văn học. Tác giả quan niệm rằng, thời gian có
“chức năng như một thủ pháp, một tín hiệu có giá trị nghệ thuật riêng” [67].
Trong Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975, Hoàng Dĩ
Đình cũng đã giới thuyết và đưa ra các quan niệm về trần thuật và ngôn ngữ trần
thuật. Theo tác giả, ngôn ngữ trần thuật là hành động kể của từng cá nhân, là hành
động cá nhân về ý chí, trí tuệ, mang tính chất dị biệt. Ngôn ngữ trần thuật là tất cả
những hình thức ngôn ngữ dùng trong việc trần thuật [45].
Qua những ý kiến trên, chúng tôi thấy trần thuật, ngôn ngữ trần thuật là
những phạm trù mỹ học cơ bản của tự sự học. Trần thuật là kể lại, thuật lại câu
chuyện, sự việc, sự tình, biến cố của con người/ nhân vật theo diễn trình thời gian.
Nói đến trần thuật là nói đến người thuật (kể) và lời kể (ngôn ngữ trần thuật).
1.1.2. Nghiên cứu về hồi ký
Thuật ngữ hồi ký (tiếng Latinh: Memoria; tiếng Anh Memoir; tiếng Pháp
Mémoires) ra đời muộn nhưng tiền thân của hồi ký vốn xuất hiện từ rất sớm. Qua
tiến trình lịch sử, đến nay hồi ký đã hiện diện với tính chất một thể tài có vị trí quan
trọng trong đời sống văn học. Hồi ký là thể tài phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà ở

nhiều nước trên thế giới. Đã có nhiều ý kiến bàn về hồi ký về khái niệm và đặc
trưng của thể loại này.
Mặc dù có những quan điểm không tách bạch trên phương diện lý thuyết thể
loại giữa hồi ký và các thể tài khác trong ký, nhưng dù muốn hay không hồi ký với
tư cách là một thể tài vẫn tồn tại như một thực tế được thừa nhận. Đáng chú ý là số
lượng hồi ký trên thế giới và ở Việt Nam vô cùng phong phú nhưng lại không dễ


8
đưa ra một định nghĩa thống nhất, cho phép khái quát hết các đặc điểm của thể loại.
Trong lịch sử văn học, khái niệm hồi ký và những vấn đề lý thuyết thể loại luôn là
vấn đề gây tranh cãi. Không những với người nghiên cứu mà với người sáng tác,
các ý kiến, định nghĩa hồi ký không chỉ thay đổi theo thời gian mà còn có nhiều
điểm khác biệt tùy vào quan điểm mỹ học của từng tác giả.
1.1.2.1. Nước ngoài
Từ những năm đầu thế kỷ XIX, lý thuyết hồi ký đã được nghiên cứu ở Nga.
V. Belinsky đã đưa ra định nghĩa về hồi ký mà nhiều nhà nghiên cứu đương đại vẫn
tham khảo vào đó: “…Hầu hết các cuốn hồi ký hoàn toàn xa lạ về ý nghĩa, chỉ có
giá trị về mức độ truyền đạt chính xác và đáng tin cậy các sự kiện thực tế, hầu hết
các cuốn hồi ký nếu được viết một cách điêu luyện thì sẽ tạo nên một mặt cuối cùng
trong lĩnh vực tiểu thuyết khi tự nó kết thúc” [215, tr.16]. Nhà phê bình đã coi hồi
ký là một phần cấu thành của thể loại văn học sử thi. Ông đã xem “các sự kiện lịch
sử có trong các nguồn không hơn những hòn đá hay những viên gạch: chỉ người
nghệ sĩ mới có thể dựng nên một tòa nhà sang trọng từ vật liệu này”. Belinsky cho
rằng quan trọng không phải đơn giản chỉ là việc liệt kê các sự kiện, mà là việc lựa
chọn chúng, việc tác giả biết xây dựng từ chúng một bức tranh biểu cảm [215,
tr.16]. Khi đề xuất hình mẫu của sự kiện được miêu tả với tư cách là dấu hiệu bắt
buộc của hồi ký, Belinsky vì thế đã công nhận hồi ký là một thể loại văn học có đầy
đủ thẩm quyền mà trong đó có sự lựa chọn và tổ chức các sự kiện theo ý định của
tác giả, xây dựng hình mẫu nghệ thuật. N.Chernyshevsky cho rằng các tác phẩm hồi

ký thường dựa trên các sự kiện đã xảy ra vào thời gian nào đó “về các sự kiện này,
hoặc là chúng được kể lại một cách không thỏa đáng, hoặc chúng được tác giả lựa
chọn một cách thiếu kinh nghiệm, dù sao bạn cũng có thể biết được các tập tục của
thế kỷ, với những gì đã xảy ra trong thế giới khi đó” [221, tr.326]. Như vậy, chính
Belinsky và Chernyshevsky ngay trong thế kỷ XIX đã xác định rằng các cuốn hồi
ký của các nhà văn cũng có những chất lượng nhu các tác phẩm văn học khác: trong
đó có sự điển hình hóa thực tế, có quan điểm lịch sử đối với những sự kiện được
miêu tả và sự lựa chọn các sự kiện. Sự đặc biệt của chúng được quy định bởi quan
điểm cá nhân đối với những sự kiện được miêu tả, khả năng thể hiện dưới hình thức


9
cá nhân những sự kiện đã trải qua và đã nhìn thấy. Những ý kiến của các nhà phê
bình đã xác định vị trí của các cuốn hồi ký trong tiến trình văn học. Nhưng chính
mức độ phát triển của phê bình văn học, sự ưu thế của phương pháp tiếp cận lịch sử
đã dẫn đến việc trong hầu hết các công trình, các vấn đề về phân loại các thể loại
chưa được xem xét một cách đầy đủ.
Cuối thế kỷ XIX, quan điểm của Ts. Volpe trong cuốn Nghệ thuật của sự
khác biệt, đã xem thể loại hồi ký như một hiện tượng văn học được hình thành và
chỉ ra rằng hồi ký là một thành phần có đầy đủ thẩm quyền trong tiến trình văn học.
Volpe lần đầu tiên đặt câu hỏi về vai trò của phương pháp hồi ký trong sáng tác của
các nhà văn các trào lưu khác nhau như B.Lifshits và A.Bely, M.Zoschenko và A.
Grin [221]. Tuy nhiên, vì những điều kiện khách quan (sự đàn áp của những năm ba
mươi và các hiện tượng chiến tranh) mà các kết luận của Volpe chỉ được sử dụng
trong nghiên cứu văn học vào những năm chín mươi.
Vào thế kỷ XX, khi lưu ý rằng văn xuôi hồi ký là một hiện tượng nghệ thuật
toàn vẹn, Kuznetsov chỉ ra rằng “các vấn đề được đặt ra trong đó nằm ở chính trung
tâm của những quyền lợi tinh thần của hiện tại” [220, tr.147]. Mặc dù tác giả không
nói về các cuốn hồi ký như một thể loại nhưng ông phân ra các dạng riêng (truyện
hồi ký, tiểu thuyết hồi ký, sử thi hồi ký). Trong công trình của M. Bilinkis, các cuốn

hồi ký được nghiên cứu như một không gian văn bản đặc biệt: “Văn học hồi ký là
thể loại hồi ký riêng, khi đó giống như văn bản hồi ký (thông báo về sự kiện mà
theo sự công nhận của tác giả thì nó là bằng chứng của sự kiện đó) có thể bao gồm
trong các tác phẩm của các thể loại khác. Các văn bản có thể giao nhau, có nghĩa là
tồn tại trong một thể loại, các thể loại không giao nhau trong môi trường độc giả
đồng nhất. Ví dụ, vào thế kỷ XVIII “Câu chuyện về cuộc đời”,... của Avvakum đã
được nhận thức bởi những người đương thời chỉ giống như một câu chuyện về cuộc
đời, đặc biệt mục tiêu của nhận thức đó được trình bày trong tên gọi của văn bản.
Chỉ đến thế kỷ XX văn bản này mới có thể được như một văn bản hồi ký hoặc tiểu
thuyết” [217, tr.9]. Theo ý kiến của Levitsky, “người viết hồi ký khi tái dựng một
phần thực tế trong lĩnh vực tầm nhìn của mình, chủ yếu dựa trên các ấn tượng và
hồi ức trực tiếp của mình; thì ở khắp nơi hoặc chính người viết hoặc quan điểm của


10
người đó đối với sự kiện được miêu tả cần phải làm cho nổi bật. Sự không đầy đủ
của sự kiện và tính phiến diện của thông tin hầu như không thể tránh khỏi được đổi
lại trong các cuốn hồi ký bằng sự thể hiện một cách sống động và trực tiếp cá tính
của tác giả, là “tài liệu” có giá trị của thời gian” [223, tr.216]. Yu. Petlyakov lưu ý
rằng “khi thể hiện các cuốn hồi ký như “thể hồi ký - tự truyện”, thông thường các
nhà nghiên cứu gắn kết khái niệm chung chung “hồi ký” và cụ thể - “tự truyện”,
thuật ngữ thể hiện trong một loạt các trường hợp là một trong những thể loại văn
học hồi ký” [215, tr.4]. Nhà nghiên cứu đề xuất tên gọi các cuốn hồi ký (hồi ức)
bằng thuật ngữ “văn học hồi ký” và bao hàm trong đó sự hình thành thể loại hình
thức như một loại hình. Yu. Petlyakov cho rằng việc xác định ban đầu của các tác
phẩm viết về quá khứ, nơi quan điểm cá nhân đối với quá khứ chiếm ưu thế, như
các cuốn hồi ký, là chính xác hơn. Vì vậy việc phân chia tiểu thuyết tự truyện và
tiểu thuyết hồi ký tiểu sử như các loại hình hồi ký của các nhà văn là hợp lý. Những
nghiên cứu này thực sự cần thiết không chỉ với người viết hồi ký mà cả với tác giả
luận án. Đây là những gợi mở để người viết phân tích những vấn đề kỹ thuật viết

hồi ký của nhà văn.
1.1.2.2. Trong nước
So với các thể loại khác, hồi ký xuất hiện muộn. Ở Việt Nam những năm 30,
40 của thế kỷ XX, hồi ký mới xuất hiện và mãi những thập niên cuối thế kỷ XX mới
phát triển và đạt được những thành tựu như một thể loại độc lập. Nên hầu hết các
công trình lý luận - phê bình, các công trình văn học sử, đều dành sự quan tâm nhiều
hơn đến đặc điểm và thành tựu của thể loại ký - một mảng văn xuôi quan trọng của
mọi thời kỳ phát triển của văn học viết. Hồi ký thường chỉ được nhắc qua như một
tiểu loại giàu chất tự sự, và tất nhiên phải chịu sự chi phối từ những đặc điểm loại
hình của ký. Là một bộ phận của ký văn học, hồi ký văn học càng được thu hẹp trong
một phạm vi tác giả và tác phẩm. Mỗi tác giả lại chỉ có thể viết một số hồi ký với số
lượng tối đa vài cuốn. Một phần vì vậy nên chưa có nhiều công trình chuyên về hồi
ký. Đã có một số công trình nghiên cứu hoặc tập hợp những bài nghiên cứu về hồi ký
với tư cách là một thể loại của ký trong đó có đề cập đến khái niệm thể loại. Đáng
chú ý là tác giả Hà Minh Đức trong cuốn Lý luận văn học [49]; tác giả Phương Lựu


11
trong cuốn Lý luận văn học [110];… Trong cuốn Lý luận văn học Phương Lựu đã
quan niệm “loại hồi ký với đặc điểm là chủ thể trần thuật phải là người trong cuộc kể
lại những sự việc trong quá khứ. Hồi ký có thể nặng về người hay việc, có thể kết cấu
theo dạng kết cấu - cốt truyện hoặc kết cấu - liên tưởng [110, tr.436]. Hà Minh Đức
trong cuốn Lý luận văn học đã tiếp tục giới thuyết về hồi ký. Hà Minh Đức định
nghĩa: “Hồi ký là một thể văn quan trọng”; “đối tượng miêu tả của hồi ký thường là
những nhân vật xuất sắc trong lịch sử như cuộc đời của những nhà hoạt động chính
trị, các anh hùng chiến sĩ nhiều kì công, kì tích, trong nhiều vấn đề không chỉ giới hạn
ở phạm vi trên mà thực ra cuộc đời của mỗi con người đều có thể ghi lại thành hồi ký
với điều kiện là những trang viết đó có ý nghĩa xã hội quan trọng gợi lên được những
nhận thức chung có ích cho mọi người” [49, tr.230]. Trong tài liệu này, hồi ký của
các nhà văn được đánh giá là những những tác phẩm có sức hấp dẫn. Các tác giả đã

gợi ra một vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, đó là hồi ký văn học của các nhà
văn. Bên cạnh đó là những phần nghiên cứu thuộc các công trình có tính lý luận
chung như Ký báo chí và ký văn học (Đức Dũng), Năm bài giảng về thể loại (Hoàng
Ngọc Hiến) [72],… Tìm hiểu các công trình nghiên cứu và tài liệu viết về hồi ký,
chúng tôi nhận thấy, các công trình nghiên cứu chuyên sâu về lí thuyết thể loại của
hồi ký có số lượng còn ít so với các công trình nghiên cứu lí thuyết thể loại thơ, tiểu
thuyết, truyện ngắn,... những vấn đề lí luận chung về hồi ký được trình bày với mức
độ khác nhau, có công trình đi sâu vào lí thuyết về hồi ký, có công trình chỉ đề cập lí
thuyết chung về hồi ký làm cơ sở để phân tích thành tựu của hồi ký trong đời sống
văn học; tuy nhiên tất cả các chuyên luận, các bài viết trên đều có giá trị kiến tạo và
bồi đắp lý thuyết thể loại hồi ký, giúp ích cho việc nhận dạng, phân biệt, tạo lập và
tiếp nhận tác phẩm. Về phương diện lý luận, kết quả của các công trình nghiên cứu về
hồi ký đã đạt được: Đưa ra những định nghĩa và cắt nghĩa khái niệm hồi ký. Phân
tích, khẳng định vai trò của hồi ký trong đời sống xã hội và đời sống văn học. Xác
định những đặc điểm cơ bản về nội dung và yêu cầu về giá trị văn học của hồi ký.
Xác định tiêu chí phân loại hồi ký. Phát hiện và bước đầu nhận dạng hồi ký văn học
của các nhà văn. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về hồi ký nêu trên mới tập
trung giải quyết những vấn đề cơ bản về lý thuyết thể loại của hồi ký nói chung chứ


12
chưa đi sâu nghiên cứu lý thuyết thể loại của hồi ký văn học. Những vấn đề lý thuyết
thể loại của hồi ký văn học còn mờ nhạt; khái niệm, đặc điểm thể loại của hồi ký văn
học chưa được giới thuyết cụ thể.
Tô Hoài - nhà văn rất thành công trong thể loại hồi ký cũng đưa ra nhận định
riêng của mình về thể ký như: “Ký là một thể loại mang tính cách riêng, tính cách
của một lối viết ra những cảm xúc trước sự việc mắt thấy, tai nghe. Ký có lối xây
dựng chủ đề, nhân vật, kết cấu, tình tiết, ngôn ngữ… riêng biệt” [84, tr.25]. Chính
từ quan niệm đó, hồi ký của Tô Hoài có những đặc điểm riêng. Một mặt, nó tuân
theo những yêu cầu của hồi ký, mặt khác, nó in đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.

Năm cuốn hồi ký Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Những gương mặt, Tự truyện, Cỏ
dại là những tác phẩm tiêu biểu minh chứng cho phong cách viết hồi ký của tác giả.
1.1.3. Nghiên cứu chung về phong cách nghệ thuật hồi ký Tô Hoài
1.1.3.1. Nghiên cứu về phong cách nghệ thuật
Tô Hoài là một gương mặt tiêu biểu trong văn học Việt Nam hiện đại, một
nhà văn lớn, có đóng góp đối với nhiều thể loại văn học khác nhau. Trên những
trang viết của mình, ông luôn để lại những dấu ấn riêng, có dấu “vân tay” in trên
chữ, có “một giọng điệu riêng, một cách nói riêng” (Phong Lê). Các trang viết với
giọng điệu và cách thể hiện riêng ấy đã đem đến cho Tô Hoài một phong cách nghệ
thuật đặc sắc. Hơn nữa, ông sáng tác trong thời gian dài, đồ sộ về số lượng tác
phẩm, phong phú về thể loại, lại có những đóng góp lớn cho quá trình phát triển nền
văn học dân tộc ta nên đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu và quan tâm tới. Cho
đến nay đã có một số lượng không nhỏ những chuyên luận, phê bình nghiên cứu ở
những mức độ khác nhau về phong cách nghệ thuật, tác phẩm, con người tác giả,
trong đó, có không ít ý kiến đánh giá về phong cách hồi ký của ông.
Về phong cách nghệ thuật hồi ký Tô Hoài, đã có rất nhiều bài viết trên các
tạp chí, những tham luận, luận văn, luận án, chuyên khảo đánh giá, nghiên cứu về
mảng sáng tác này. Ngay từ tác phẩm hồi ký đầu tiên Cỏ dại xuất bản năm 1943 cho
tới Chiều chiều xuất bản năm1997, hành trình nghiên cứu về hồi ký Tô Hoài luôn
song song với hành trình sáng tạo của nhà văn và ngày càng có nhiều công trình giá
trị. Chúng ta có thể chia các nghiên cứu này thành 3 hướng:


13
- Nghiên cứu, thảo luận về phong cách nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật của
Tô Hoài trong đó có nhắc đến hồi ký của ông. Đó là, các công trình của Nguyễn
Đăng Mạnh [113], [114]; Hà Minh Đức [48], [50]; Trần Hữu Tá [153]; Trần Đình
Nam [118]; Phong Lê [99], [100]; Nguyễn Văn Long [107]; Nguyễn Đăng Điệp [44];
Mai Thị Nhung [130], v.v.. Trong khi nghiên cứu về phong cách nghệ thuật, về quan
niệm nghệ thuật tác phẩm Tô Hoài, nhiều tác giả trong các công trình của mình đã có

một số ý kiến ít nhiều nói về “cái tôi” của Tô Hoài, nghệ thuật ngôn từ của tác giả
trong hồi ký, tự truyện. Chẳng hạn, Nguyễn Đăng Mạnh, trong bài Tô Hoài với quan
niệm về con người đánh giá về khả năng quan sát tinh tế của nhà văn: “Nhà văn có
một khiếu quan sát hết sức phong phú và sắc sảo, tài hoa, hiểu theo nghĩa vận dụng
toàn bộ các giác quan để ghi nhận cảnh vật bên ngoài với tất cả hình dáng, sự hoạt
động, âm thanh, màu sắc, mùi vị của nó… Ông có một trí tưởng tượng mạnh mẽ giúp
ông rất nhiều khi miêu tả… đồng thời có một vốn ngôn ngữ giàu có mà ông cần cù
tích lũy để tạo nên những bức tranh chân thực, góc cạnh và đầy hương sắc” [116,
tr.24]. Hay Phong Lê trong bài Ngót sáu mươi năm văn Tô Hoài đã chỉ ra chân dung:
“Một Tô Hoài không lẫn với bất cứ ai, một Tô Hoài hết mình. Hóm hỉnh và thông
minh. Nhẹ nhõm mà có sức nặng, cứ như đùa mà thật nghiêm chỉnh. Nhũn nhặn,
khiêm nhường mà thật dũng cảm, chẳng biết sợ là gì” [99, tr.41]. Nguyễn Đăng Điệp
đánh giá, nhận định về tài năng, đặc điểm nổi bặt trong cách sử dụng từ ngữ của Tô
Hoài : “Nói đến Tô Hoài không thể không nói đến tài năng sử dụng ngôn ngữ của
ông. Tô Hoài rất ít khi dùng thứ ngôn ngữ óng ả, sặc mùi sách vở. Chữ nghĩa của ông
cất lên từ đời sống. Nhưng đó là thứ ngôn ngữ chắt lọc.” [44, tr.121]; “ngôn ngữ của
ông mềm mại, tung tẩy, nẫu nục chất dân gian. Đó là sự tinh tế của một cây bút cao
tay, là ý thức đạt tới sự giản dị của một sự khéo léo lớn. Chính vì thế mà văn Tô Hoài
không mòn cũ theo thời gian” [44, tr. 115].
- Nghiên cứu, thảo luận từng tác phẩm hồi ký Tô Hoài chúng ta bắt gặp các
công trình của Vân Thanh [158], Võ Xuân Quế [142], Xuân Sách và Trần Đức Tiến
[143], Nguyễn Văn Bổng [21], Nguyễn Văn Thọ [165], Trần Đình Thọ [166], Lê
Thị Biên [19], v.v.. Những công trình nghiên cứu này, nhìn chung, đánh giá những
nét đặc sắc, các giá trị của hồi ký Tô Hoài, nhằm khai mở cho những nghiên cứu


14
khái quát hơn. Xuân Sách nhận xét về Cát bụi chân ai, nhà văn thấy tác phẩm có giá
trị văn học vừa là cuốn tư liệu có giá trị lịch sử bởi đã dựng lại đời sống tinh thần
của một số cây bút lớn cũng như môi trường mà nhà văn phản ánh trong đó: "Tác

phẩm mang dấu ấn đậm nhất phong cách Tô Hoài - từ văn phong đến con người.
Thâm hậu mà dung dị, thì thầm và không đơn điệu nhàm chán, lan man tí chút
nhưng không kề cà vô vị. Một chút "u mặc" với cái giọng khơi khơi mà nói ai muốn
nghe thì nghe, không bắt buộc, nghe rồi hiểu đừng cật vấn…Và vì thế…sức hấp dẫn
chủ yếu là sự chân thực" [143, tr.414]. Trần Đức Tiến chú ý tới điểm nhìn khi xây
dựng nhân vật trong hồi kí của Tô Hoài: "Bằng cuốn sách của mình, lần đầu tiên
ông đã cho thế hệ cầm bút chúng tôi nhìn một số "nhân vật lớn" của văn chương
nước nhà từ một cự li gần...Bây giờ qua Tô Hoài - chúng tôi được nhìn gần: một
khoảng cách khá "tàn nhẫn" nhưng vì thế mà chân thực và sâu sắc" [143, tr.413].
Nhà văn Nguyễn Văn Bổng nhận xét và rút ra quan niệm về con người trong hồi ký
của nhà văn Tô Hoài - Cát bụi chân ai "kể chuyện những nhà văn, những người bạn
mà tài năng văn học không ai chối bỏ được nhưng đồng thời cũng là những con
người bình thường với những tính tốt và tật xấu như mọi người" [21]. Nguyễn Văn
Thọ trong Vài cảm giác với “Chiều chiều” đánh giá: “Chiều chiều rất cuốn hút. Nó
đầy ắp những sự kiện vừa quen vừa lạ trong cuộc sống. Đọc văn Tô Hoài cần sự
tĩnh lặng của tâm hồn người đọc mới cảm thụ hết được các tầng của tác phẩm dù là
Tự truyện...” [165, tr.12],…
- Nghiên cứu, thảo luận về hồi ký Tô Hoài nói chung có các công trình, bài
viết của Đặng Tiến [172]; Đoàn Thị Thúy Hạnh [66]; Vương Trí Nhàn [124], [125],
[126]; Trương Thị Thu Huyền [98]; Trần Thị Mai Phương [139]; Lê Thị Thủy
[167]; v.v.. Đây là hướng nghiên cứu có nhiều ý kiến, nhận định bàn đến nghệ thuật
trần thuật, cái tôi tác giả trong hồi ký, tự truyện Tô Hoài. Chẳng hạn, công trình của
Đoàn Thị Thúy Hạnh [66] đã chỉ ra vai trò đặc biệt của miêu tả trong nghệ thuật
trần thuật của Tô Hoài, phân tích cách tổ chức cốt truyện và phát triển mạch truyện
và giọng điệu trần thuật trong hồi ký Tô Hoài. Hoặc qua việc khảo sát tất cả những
cuốn hồi ký của Tô Hoài được công bố từ trước tới nay, Trương Thị Thu Huyền
[89] chỉ ra những đặc trưng của thể loại hồi ký,... Trong các bài viết, công trình của


15

các tác giả khác cũng đã đề cập đến chân dung Tô Hoài ở một vài khía cạnh (tính
cách, lối sống, cuộc đời), hoặc dừng lại ở việc chỉ ra một số bình diện liên quan đến
nhân vật người kể chuyện (như giọng điệu, ngôn ngữ, tài dẫn chuyện,…). Tuy
nhiên, đó chỉ là những ý kiến lẻ tẻ, không thành hệ thống, không dựa trên một
khung lí thuyết tiếp cận đầy đủ, chính xác, khách quan.
1.1.3.2. Nghiên cứu về ngôn ngữ hồi ký Tô Hoài
Nghiên cứu ngôn ngữ nói chung, ngôn từ trong sáng tác văn học nói riêng
là việc cần thiết để khẳng định giá trị của văn học và đóng góp của nhà văn. Tô
Hoài là tác giả được nhiều nhà nghiên cứu văn học quan tâm, đặc biệt là phương
diện ngôn ngữ. Khi nghiên cứu về ngôn ngữ văn chương Tô Hoài, các tác giả
đều khẳng định những sáng tạo của nhà văn về phương diện từ ngữ biểu hiện qua
việc lựa chọn, sử dụng từ ngữ sắc sảo, tinh tế và cách xây dựng cấu trúc câu văn
tạo nên giọng điệu riêng. Vân Thanh khẳng định: "Ngôn ngữ Tô Hoài thường
ngắn gọn và rất gần với khẩu ngữ của nhân dân lao động" [158]. Cùng quan điểm
đó, Phan Cự Đệ giải thích thêm: "Tô Hoài đã chú ý học tập ngôn ngữ nghề
nghiệp và ngôn ngữ địa phương". "Trong tác phẩm của Tô Hoài nhìn chung ngôn
ngữ của quần chúng đã được nâng cao, nghệ thuật hoá" [41]. Phong Lê nhấn
mạnh nét nhuần nhị, tinh tế trong văn phong của Tô Hoài, ông viết: "Văn phong
Tô Hoài chủ yếu làm bằng những nét nhẹ, mảnh, nhuần nhị, tinh tế, đôi khi hơi
mờ ảo nữa" [99]. Các nhận xét trên, tuy đã đề cập đến một số phương diện phong
cách nghệ thuật Tô Hoài, nhưng đó chủ yếu mới là những nhận định chung, khái
quát được các tác giả phát biểu rải rác trong các công trình nhằm giới thiệu về
tác giả và tác phẩm của Tô Hoài nói chung và chủ yếu được nhìn từ góc độ văn
học. Khi nhiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật của Tô Hoài, các tác giả mới chỉ nhận
định khái quát một số đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật, chưa đi sâu nghiên cứu
phương thức tổ chức ngôn từ trong lời văn, chưa chỉ ra quá trình vận động của
ngôn từ qua các giai đoạn sáng tác của Tô Hoài ở các thể loại; việc lý giải đặc
điểm ngôn từ, phương thức tổ chức ngôn từ chủ yếu xuất phát từ quan niệm nghệ
thuật, chưa chú ý nhiều đến mối quan hệ giữa sáng tạo ngôn từ và quan niệm về
ngôn từ nghệ thuật của nhà văn.



16
Các công trình đứng từ góc độ ngôn ngữ học để nghiên cứu về hồi ký Tô
Hoài, cho đến nay chưa có nhiều và chủ yếu là khóa luận, luận văn ở các trường
đại học. Một số bài viết của các nhà nghiên cứu tuy có quan tâm đến đặc điểm
ngôn ngữ trong hồi ký của ông, nhưng cho đến thời điểm này, chưa có một công
trình khoa học nào nghiên cứu một cách công phu, độc lập, toàn diện và có hệ
thống. Đặc biệt, vấn đề ngôn ngữ trần thuật trong hồi ký Tô Hoài, chưa được tác
giả nào quan tâm, nghiên cứu. Chúng tôi mới chỉ bắt gặp một số tiểu luận, một ít
bài giới thiệu, đánh giá về từng mảng sáng tác hay riêng về từng tác phẩm xuất
sắc của Tô Hoài như: Bài báo Ngôn ngữ trần thuật trong hồi ký Tô Hoài [168],
Lê Thị Thủy có bàn đến đặc điểm ngôn ngữ người kể chuyện, sự kết hợp giữa
ngôn ngữ tả và kể, ngôn ngữ nhân vật,... Luận văn thạc sĩ của Trần Đình Thọ
[166] nghiên cứu ngôn ngữ trần thuật trong hồi ký Tô Hoài nhưng chỉ ở hai tác
phẩm là Cát bụi chân ai và Chiều chiều. Trong luận văn này, tác giả cũng lấy từ
ngữ, câu văn và giọng điệu làm đối tượng nghiên cứu, nhưng chú ý hình thức cấu
trúc văn bản để làm nổi rõ sự đa dạng, phong phú, tính phức điệu của giọng điệu
trần thuật.
Điểm lại những bài viết, công trình nghiên cứu về hồi ký Tô Hoài trên đây,
chúng tôi nhận thấy khi nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật của Tô Hoài, các tác giả
mới chỉ nêu một số đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật, phân tích đặc điểm ngôn ngữ
chủ yếu là ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ nhân vật mà chưa khảo sát, phân tích
những đặc điểm ngôn từ nghệ thuật trong các sáng tác của Tô Hoài một cách hệ
thống, kỹ lưỡng, toàn diện; chưa đi sâu nghiên cứu phương thức tổ chức ngôn từ
trong lời văn, chưa chỉ ra rõ nét quá trình vận động của ngôn từ qua các giai đoạn
sáng tác của Tô Hoài qua thể hồi kí; việc lý giải đặc điểm ngôn từ, phương thức tổ
chức ngôn từ chủ yếu xuất phát từ quan niệm nghệ thuật, chưa chú ý nhiều đến
mối quan hệ giữa sáng tạo ngôn từ và quan niệm về ngôn từ nghệ thuật của nhà
văn. Tuy vậy, những ý kiến đánh giá, những bài viết của các tác giả đi trước là

những tham khảo, gợi mở bổ ích, giúp chúng tôi đi sâu, khảo sát, tìm hiểu đặc
điểm ngôn ngữ trần thuật trong hồi ký của Tô Hoài một cách có hệ thống hơn; từ
đó, giúp người đọc có cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề Ngôn ngữ trần thuật trong
hồi ký Tô Hoài.


17
1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài
1.2.1. Ngôn ngữ trần thuật
1.2.1.1. Khái niệm
Nếu tiếp cận khái niệm ngôn ngữ trần thuật từ những góc độ như, ngôn ngữ
học, văn học, văn bản học,... thì sẽ có những nhận xét, đánh giá khác nhau về yếu tố
cấu thành, tác dụng hay vai trò của nó.
Theo các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển
thuật ngữ văn học: trần thuật (narrate) là phương diện cơ bản của phương thức tự
sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn
cảnh, sự vật theo cách nhìn của người trần thuật. Trần thuật không chỉ là lời kể mà
còn bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân
vật, lời bình luận, lời ghi chú của tác giả,… [62]. Lại Nguyên Ân cũng khẳng định:
“Trần thuật là phương thức chủ yếu cấu tạo nên tác phẩm ở việc kể, miêu tả các
hành động, tả ngoại cảnh, tả nội thất bàn luận; lời nói bán trực tiếp của nhân vật”
[10, tr.338]. Ngôn ngữ trần thuật, do vậy, là ngôn ngữ nhà văn dùng để xây dựng
câu chuyện, là nơi bộc lộ rõ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn, bộc lộ
cách lý giải cuộc sống từ cách nhìn riêng và cá tính sáng tạo của tác giả.
Ngôn ngữ trần thuật liên quan đến các vấn đề như “ai nói”, “ai nhìn”, “ai
phát ngôn”, “nói như thế nào”. Cái mà ngôn ngữ trần thuật cần được đi sâu nghiên
cứu là người trần thuật làm thế nào, bằng cách nào và phương tiện nào để tổ chức
xây dựng và kể lại sự tình. Cụ thể hơn, nghiên cứu ngôn ngữ trần thuật là nghiên
cứu về việc lựa chọn từ ngữ, câu văn,... cụ thể của người trần thuật khi diễn đạt nội
dung tác phẩm cũng như nguyên nhân và mục đích của việc lựa chọn đó.

Nói một cách khác, ngôn ngữ trần thuật là tất cả những hình thức ngôn ngữ
dùng trong việc kể/thuật về một sự kiện cụ thể (trong đó có thể có nhân vật tham gia
vào sự kiện, cũng có thể không), và diễn đạt những quan điểm, đánh giá, nhận xét,
miêu tả của người trần thuật đối với đối tượng mà mình đang kể.
Như trên đã nói, trần thuật là phần lời của tác giả, của người trần thuật. Ngôn
ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn,
thể hiện quan điểm của tác giả hay quan điểm của người kể chuyện đối với cuộc
sống được miêu tả.


18
Ngôn ngữ trần thuật giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong hệ thống phương
thức tự sự; nó là sự thể hiện trên nền hiện thực toàn bộ tư tưởng, tình cảm của nhà
văn, giọng điệu và cấu trúc tác phẩm. Qua ngôn ngữ trần thuật, người đọc nhận ra
phong cách, cá tính của tác giả. Đối với nhà văn, ngôn ngữ trong tác phẩm văn học
là sự khúc xạ của ngôn ngữ đời sống. Song đây là thứ ngôn ngữ đã được lựa chọn,
được sắp xếp và được cách điệu hóa theo ý muốn chủ quan của nhà văn. Ngôn ngữ
trần thuật (lời người kể chuyện) là phần lời độc thoại thể hiện quan điểm tác giả hay
quan điểm người kể chuyện đối với cuộc sống, có những nguyên tắc thống nhất
trong việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện tạo hình và biểu hiện ngôn ngữ.
Chẳng hạn, thu hẹp khoảng cánh giữa chuyện kể và những “chuyện” của hiện thực,
ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn đương đại trở nên gần với ngôn ngữ đời
sống. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn không còn là lời nói quyền uy, cao
đạo. Có lời trần thuật dân dã trong truyện ngắn Nguyễn Khải (cười thắt ruột, ăn nói
quá quân trộm cướp...),... Có kiểu phát ngôn trần trụi, không gọt dũa của thứ ngôn
ngữ “chợ búa” ở Không có vua (Nguyễn Huy Thiệp),... Hay, chịu ảnh hưởng của
ngôn ngữ đời sống, ngôn ngữ trần thuật bộc lộ khá rõ ngôn ngữ vùng miền. Phương
ngữ được sử dụng có chủ ý chứ không chỉ thuần túy do chất giọng “bản địa” của
nhà văn. Người trần thuật không những “tải” nội dung truyện kể mà còn “chuyển”
những giá trị văn hóa nằm sâu dưới lớp ngôn ngữ. Có vẻ đẹp bình dị của vùng sông

nước Cửu Long qua bờ kênh, con rạch, những cù lao xanh,...: mé đìa lục bình, đám
trâm bầu, dì Tư, út Thà, nói gì lãn xẹt vậy ta... trong tạp văn Nguyễn Ngọc Tư,…
Ngôn ngữ trần thuật không những có vai trò then chốt trong phương thức tự sự
mà còn là yếu tố cơ bản thể hiện phong cách nhà văn, truyền đạt cái nhìn, giọng điệu,
cá tính của tác giả. Ngôn ngữ trần thuật có thể có một giọng (chỉ nhằm gọi ra sự vật)
hoặc hai giọng (lời nhại, mỉa mai, lời nửa trực tiếp) thể hiện sự đối thoại với ý thức
khác về cùng một đối tượng miêu tả. Ngôn ngữ trần thuật dưới hình thức lời người kể
chuyện, ngoài đặc điểm trên còn mang thêm các sắc thái, quan điểm bổ sung do lập
trường, đặc điểm tâm lý, cá tính của nhân vật - người kể chuyện mang lại.
Qua kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, chúng tôi hiểu: ngôn ngữ
trần thuật là ngôn ngữ của người kể chuyện, kể lại diễn biến của câu chuyện theo


19
một cách thức nào đó. Ngôn ngữ trần thuật trong tác phẩm văn học vừa là phương
tiện biểu đạt nội dung vừa là sự phản ánh ngôn ngữ đời sống. Nó thể hiện trí tuệ, sự
sáng tạo và cá tính của nhà văn. Qua việc tìm hiểu ngôn ngữ trần thuật, chúng ta có
thể tìm thấy dấu ấn cá nhân của từng nhà văn qua từng tác phẩm văn học.
1.2.1.2 Ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ nhân vật
Ngôn ngữ trần thuật (lời người kể chuyện) và ngôn ngữ nhân vật (lời nhân
vật) đều là các thành phần cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật. Mỗi thành phần lại có
những đặc điểm và chức năng riêng. Trong tác phẩm văn xuôi tự sự, tùy thuộc vào
chức năng của mỗi kiểu lời và khả năng vận dụng của mình, mỗi nhà văn lại vận
dụng và phát huy các kiểu lời ấy ở những mức độ khác nhau.
Ngôn ngữ nhân vật chính là lời nói trực tiếp của nhân vật trong tác phẩm,
được biểu đạt bằng các tín hiệu ngôn ngữ thông qua sự lựa chọn của nhà văn nhằm
mục đích tái hiện một cách sinh động tính cách, đặc điểm của nhân vật. Trong tác
phẩm nghệ thuật, nhà văn có thể cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật bằng nhiều cách: nhấn
mạnh cách đặt câu, dùng từ hay lời phát âm đặc biệt của nhân vật, sử dụng các yếu tố
tình thái thể hiện sắc thái ngôn ngữ địa phương; sử dụng các yếu tố từ ngữ mang dấu

ấn văn hóa riêng của từng lớp người như trí thức tiểu tư sản, nông dân, người buôn
bán. Lời trực tiếp này, có lúc được thể hiện dưới dạng ngôn ngữ bên ngoài - ngôn ngữ
thành tiếng, có lúc dưới dạng ngôn ngữ bên trong - ngôn ngữ không thành tiếng. Dù
tồn tại dưới dạng nào, hoặc được thể hiện bằng cách nào, ngôn ngữ nhân vật bao giờ
cũng phải bảo đảm sự kết hợp sinh động giữa tính cá thể và tính khái quát. Nghĩa là,
một mặt, mỗi nhân vật có ngôn ngữ mang đặc điểm riêng, có lời ăn tiếng nói riêng;
mặt khác, ngôn ngữ ấy lại phản ánh được đặc điểm về nghề nghiệp, tâm lý, giai cấp,
trình độ văn hóa của một tầng lớp người nhất định trong xã hội.
Ngôn ngữ trần thuật là ngôn ngữ của người kể chuyện, kể lại những diễn
biến của câu chuyện. Hình thức trần thuật là một phương diện cơ bản của phương
thức tự sự để giới thiệu, khái quát, thuyết minh miêu tả đối với nhân vật. Tiêu chí
phân biệt ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ nhân vật trước hết chính là điểm này.
Nếu ngôn ngữ nhân vật là lời trực tiếp của nhân vật trong tác phẩm thì ngôn
ngữ trần thuật là những lời gián tiếp. Về mặt hình thức, ngôn ngữ nhân vật sử dụng


×