MỤC LỤC
TRANG
LỜI NÓI ĐẦU
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Các khái niệm
2
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
4
II. Sự vận dụng quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất” trong thời kỳ quá độ đi lên
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1. Thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
6
2. Sự vận dụng quy luật “Quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ của lực lượng sản xuất” trong quá trình quá độ lên xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
7
III. Gỉai pháp
9
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, sự tác động qua lại
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có những đặc điểm riêng đòi hỏi
sự nhận thức khách quan, khoa học để có thể đề ra đường lối, chính sách
nhằm phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù
hợp, nhằm xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là một
vấn đề lý luận phức tạp đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, tuy
nhiên đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, nhiều vấn đề chưa được làm
rõ. Thực tiễn phát triển đất nước những năm qua cùng với yêu cầu cấp bách
nghiên cứu những vấn đề lý luận phục vụ cho việc sửa đổi Hiến pháp 1992 đã
đòi hỏi nghiên cứu về quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất Xã hội chủ
nghĩa và lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Để tìm hiểu rõ hơn vấn đề này, em xin đi sâu vào chủ đề: “Vận dụng nội
dung quy luật “Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Các khái niệm:
a. Lực lượng sản xuất:
Khái niệm “lực lượng sản xuất” phản ánh mối quan hệ giữa con người với
giới tự nhiên, biểu hiện trình độ con người chinh phục tự nhiên trong quá
trình sản xuất vật chất đó. Đó là mối quan hệ vật chất giữa con người với
giới tự nhiên. Mối quan hệ đó được thực hiện thông qua quá trình lao động
sản xuất vật chất, con người cải biến giới tự nhiên bằng sức mạnh thực tiễn.
Vì vậy xét về thực chất, khái niệm “lực lượng sản xuất” dùng để chỉ năng
lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người. Năng lực đó được tạo ra
trong đời sống hiện thực bằng sự kết hợp giữa sức lao động (sức lực vật chất
2
và tinh thần - đặc biệt là yếu tố tri thức) của con người với những tư liệu sản
xuất trong quá trình lao động của họ.
Do đó, có thể định nghĩa vắn tắt: “lực lượng sản xuất là toàn bộ các yếu tố
vật chất và tinh thần của con người, tạo thành năng lực thực tiễn cải biến
giới tự nhiên theo mục đích của quá trình sản xuất vật chất”.
b. Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là một phạm trù triết học chỉ quan hệ giữa người với
người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản
xuất bao gồm quan hệ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, quan hệ về tổ
chức và quản lý sản xuất và quan hệ về phân phối các sản phẩm làm ra...
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng sự hình thànhvà phát triển một
cách khách quan không phụ thuộc vào ý chí con người. Nếu như quan niệm
lực lượng sản xuất được xem như mặt tự nhiên của sản xuất thì quan hệ sản
xuất là mặt xã hội của sản xuất.
Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
•
Quan hệ sở hữu: quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tư
liệu sản xuất. Đây là quan hệ cơ bản và đặc trưng cho từng xã hội, quyết
định quan hệ vể tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối các sản
phẩm làm ra.
• Quan hệ tổ chức quản lý: quan hệ giữa người với người trong việc tổ
chức, quản lý xã hội, các hoạt động trao đổi.
• Quan hệ phân phối lưu thông: quan hệ giữa người với người trong phân
phối, lưu thông sản phẩm làm ra.
c. Phương thức sản xuất:
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất
vật chất ở những giai đoạn nhất định trong lịch sử tồn tại và phát triển của xã
hội loài người, mỗi phương thức sản xuất đều có hai phương diện cơ bản của
nó là kỹ thuật và kinh tế. Giữ một vai trò nhất định đối với tất cả mọi mặt
trong đời sống kinh tế xã hội, phương thức sản xuất chính là sự thống nhất
3
giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương
ứng với nó.
Mỗi xã hội có phương thức sản xuất riêng dựa trên những điểm riêng biệt
về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự phát triển từ thấp đến cao của
các hình thái xã hội cũng kéo theo sự phát triển của các phương thức sản
xuất.
2. Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất:
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất, sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu
hiên mối quan hệ mang tính chất biện chứng. Chính sự thống nhất và tác
động giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã hình thành nên quy luật
về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trìng độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi và phát triển. Ngược
lại quan hệ sản xuất thường có tính ổn định trong một thời gian dài.
a. Vai trò quết định của lực lượng sản xuất với Quan hệ sản xuất:
Những kỹ năng và kinh nghiệm của người lao động không ngừng tích luỹ
và tăng lên và sự ổn định của quan hệ sản xuất là nhu cầu khách quan để có
thể sản xuất được. Vì vậy mà sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một
giới hạn nhất định sẽ đặt ra nhu cầu xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và hiện có,
điều này cũng có nghĩa là diệt vong cả một phương thức sản xuất lỗi thời và
ra đời của một phương thức sản xuất mới. Những quan hệ sản xuất cũ và
hiện khi đó trở thành những yếu tố kìm hãm sự phát triển, như Các-Mác đã
nhận định “Từ một giai đoạn phát triển nào đó của chúng các lực lượng sản
xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có trong
đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn tiếp tục phát triển. Từ chỗ là
những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất những quan hệ ấy trở
4
thàng những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại
một cuộc Cách mạng xã hội”, đó cũng chính là nội dung quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Ngoài ra, ông cũng khẳng định việc chuyển từ quan hệ sản xuất lỗi thời lên
cao hơn “không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất
của những quan hệ đó chưa chín muồi”.
b. Sự tác động trở lại của Quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất :
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội, còn lực lượng sản xuất là nội dung
của quá trình sản xuất. Vì thế hình thức tác động trở lại nội dung. Dù đã
chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản
xuất, chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng chỉ ra rằng quan hệ sản xuất bao giờ
cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất. Sự tác động trở
lại của quan hệ sản xuất là yếu tố quyết định, tiền đề cho lực lượng sản xuất
phát triển khi nó phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất với
nhiệm vụ chỉ ra mục tiêu, bước đi và tạo quy mô thích hợp cho lực lượng sản
xuất hoạt động, đảm bảo lợi ích chính đáng cho người lao động, phát huy
tính tích cực sáng tạo cho con người là nhân tố quan trọng và giữu vai trò
quyết định trong lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất nó quyết định mục
đích sản xuất, tạo ra những điều kiện hoặc hạn chế sự phát triển của công cụ
sản xuất áp dụng thành tựu khoa học và sản xuất hợp tác phân công lao
động, quy định hệ thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội quy định phân
phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng.
Như vậy, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ
sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Biện chứng của mối
quan hệ trên được thể hiện theo logic: lực lượng sản xuất là yếu tố động cách
mạng, lao động sản xuất là yếu tố mang tính chậm phát triển, điều đó tạo khả
năng mâu thuẫn giữa hai mặt của những phương thức sản xuất và chỉ bộc lộ
5
rõ khi lực lượng sản xuất đã phát triển đến một giới hạn nhất định, đặt ra nhu
cầu thay đổi quan hệ sản xuất. Sự thay đổi này chỉ thực hiện được thông qua
các cuộc Cách mạng từ đó tạo sự biến đổi của phương thức sản xuất xã hội.
Nhờ vào Phương thức sản xuất luôn vận động làm cho xã hội phát triển từ
hình thái này sang hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn.
II. Sự vận dụng quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của
lực lượng sản xuất” trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
1. Thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Ở Việt Nam, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở
miền Bắc và từ năm 1975 - sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và thống
nhất, cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên
phạm vi cả nước, khi đó cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ
nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền
kinh tế rất phát triển. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thì chắc chắn phải trải qua
một thời kỳ quá độ lâu dài.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
là một thời kỳ lịch sử với nhiệm vụ quan trọng nhất là phải xây dựng nền
tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... tiến dần lên chủ nghĩa xã
hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên
tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta không chỉ phải
cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà còn cần xây dựng
2. Sự vận dụng quy luật “Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất” trong quá trình quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
6
Như đã nói ở trên, từ năm 1975 - sau khi dành được độc lập và thống nhất
đất nước, chúng ta đã đi lên xã hội chủ nghĩa với một lực lượn sản xuất lớn
và tiềm năng mọi mặt còn non trẻ, đòi hỏi nước ta phải có một chế độ kinh tế
phù hợp dẫn đến sự ra đời của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Quá
trình đổi mới đã đưa lại nhiều thành tựu to lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra
nhiều lý luận quan trọng mà việc áp dụng quy luật quan hệ sản xuất phụ
thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào việc
giải quyết chúng một cách đúng đắn sẽ là cơ sở hết sức cần thiết cho việc
tiếp tục hoạch định và đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới, cũng như sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trải qua hơn 30 năm ở miền Bắc và hơn
10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn quốc, ngôi nhà xã hội
chủ nghĩa mà chúng ta muốn xây dựng có hai đặc trưng quan trọng nhất mà
dứt khoát chúng ta phải đặt đến: giàu có hơn, vừa công bằng hơn so với
trong chủ nghĩa tư bản.
Sự thật chỉ ra rằng trong thời gian qua do đề cao vai trò của quan hệ sản
xuất do quan niệm không đúng về mối quan hệ sản xuất và quan hệ khác,
quên mất điều cơ bản là nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội
tư bản chủ nghĩa đồng nhất chế độ công hữu với chủ nghĩa xã hội lẫn lộn
giữa hợp tác hóa và tập thể hóa. Nghị quyết Đại hội VIII đã chỉ ra rõ những
khuyết điểm như: Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức
mạnh tranh chấp, năng xuất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá
thành cao,...Nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp
thiếu thị trường tiêu thụ trong cả nước và nước ngoài. Hệ thống tài chínhngân hàng yếu kém, thiếu lành mạnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ
cấu đầu tư chưa hợp lý, tình trạng đầu tư phân tán, lãng phí và thất thoát còn
xảy ra nhiều. Còn còn nhiều vướng mắc và thiếu sót trong nhịp độ thu hút
đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm, công tác quản lý, điều hành công tác
này. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và nông thôn còn ở mức cao. Các hoạt
động khoa học và công nghệ chưa được đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp
7
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Cơ chế chính
sách không đồng bộ, chưa tạo động lực mạnh để phát triển, thiếu tính khả
thi. Nhiều cấp, ngành chưa thay thế, sửa đổi những quy định về quản lý nhà
nước không phù hợp, chưa bổ sung những cơ chế, chính sách mới có tác
dụng giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Các bước có tính quy luật rất mờ nhạt trên con đường tiến lên xã hội chủ
nghĩa vì vậy đã tiến hành cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế
quốc dân. Thực chất, theo đường lối “đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa
quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, thiết
lập chế độ công hữu thuần nhất giữa hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể”. Quan niệm cho rằng có thể dưa quan hệ sản xuất đi trước mở
đường thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đã bị bác bỏ. Trên con đường
tìm lối thoát của mình từ trong lòng nền xã hội đã nảy sinh những hiện
tượng trái ý muốn như quản lý kém, tham ô, tham nhũng,... cho thấy mâu
thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất với những hình thái kinh tế
- xã hội xa lại được áp đặt một cách chủ quan cần thiết cho lực lượng sản
xuất mới nảy sinh và phát triển. Trên thực tế, chúng ta chưa thực hiện tốt các
nhiệm vụ phải làm như: giải quyết đúng đắn mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất, khắc phục những khó khăn và tiêu cực của nền
kinh tế, thiết lập quan hệ sản xuất mới với những hình thức bước đi phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phát triển với hiệu quả kinh tế
cao. Trên cơ sở củng cố những đỉnh cao kinh tế trong tay nhà nước cách
mạng, cho phép phục hồi và phát triển chủ nghĩa tư bản và buôn bán tự do
rộng rãi, có lơi cho sự phát triển sản xuất. Quan điểm từ đại hội VI cũng
khẳng định không những khôi phục thành phần kinh tế tư bản mà còn phát
triển chúng rộng rãi theo chính sách của Đảng và Nhà nước, quan trọng là
phải nhận thức được vai trò thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế các
thể thực hiện chính sách khuyến khích phát triển. Những yếu tố tiên tiến của
quan hệ sản xuất là tiền đề sự thúc đẩy phù hợp giữa lực lượng sản xuất và
8
quan hệ sản xuất. Chúng chỉ tác động tích cực trong một thời gian ngắn và
luôn phải tuân thủ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Tại thời điểm đó nền sản xuất nông nghiệp không ổn định, nhiều nơi, nhiều
vùng nông thôn bị đói kém. Khi đó có người cho rằng, nguyên nhân sản xuất
chậm phát triển là do giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mâu
thuẫn, nó thể hiện giữa một bên là yêu cầu phát triển hơn nữa của lực lượng
sản xuất theo hướng tất yếu chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn với một
bên là chế độ sở hữu phân tán. Đây là mâu thuẫn vốn có và phổ biến trong
các nền sản xuất. Khi nền sản xuất xã hội phát triển đến trình độ cao thì tự
bản thân chế độ tư hữu nhỏ không thể nào tồn tại như cũ, nó buộc phải thay
đổi. Nói quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất không thể không
nhìn vào đời sống của nông dân, thực tế cho thấy đời sống của nông dân
từng bước được nâng cao, điều kiện nhà ở và học tập của con em nông dân
cũng khá hơn trước.
III. Gỉai pháp
Cải tạo xã hội chủ nghĩa phải luôn luôn thấu suốt đặc điểm của quá trình tiến
từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất luôn luôn gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Cần đa dạng hóa các loại hình quan hệ sản xuất nhằm tạo điều kiện cho lực
lợng sản xuất phát triển; đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo ra
lực lượng sản xuất mới trên mỗi bước đi, trên cơ sở đó tiếp tục đưa quan hệ
sản xuất lên hình thức, quy mô thích hợp để cho lực lượng sản xuất phát
triển. Đồng thời, Đảng bộ phả nhận thức đúng và vận dụng sáng tạo quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong quá trình quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, tập trung
nghiên cứu và tổng kết thực tiễn một cách toàn diện sự vận động, phát triển
của quan hệ sản xuất trong nề kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
9
nghĩa, nâng cao vai trò của nhân tố chủ quan trong việc xây dựng quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
KẾT LUẬN
Nhìn lại quá trình chỉ đạo sản xuất nông nghiệp ở nước ta trước đây Đảng ta
đã rút ra được sự cần thiết của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng thời có những biện
pháp để quan hệ sản xuất thực hiện phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất thời kỳ quá độ. Đất nước ta đang trong quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hóa với tiềm năng lao động lớn, cần cù, thông
minh, sáng tạo, có kinh nghiệm lao động, đã đang từng bước khắc phục nguy
cơ tụt hậu. Quá trình quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiếp diễn với
nhiều thách thức cần phải vượt qua, nội dung chính cơ bản trong việc thực
hiện vẫn luôn là phải nhận thức đúng đắn về quy luật sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay của nước
ta.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
10
1. Giáo trình Triết học Mác-Lênin, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội - 1999.
2. Giáo trình triết học (Dùng trong đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ các ngành khoa
học xã hội và nhân văn không chuyên ngành Triết học), nhà xuất bản Đại
học sư phạm - bộ giáo dục và đào tạo 2014.
11