Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

Luận án tiến sĩ quan hệ quốc tế việt nam trong vai trò ủy viên không thường trực hội đồng bảo an liên hợp quốc giai đoạn 2008 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.43 MB, 174 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NGOẠI GIAO

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
------------------

NGUYỄN VIỆT LÂM

VIỆT NAM TRONG VAI TRÒ ỦY VIÊN KHÔNG THƯỜNG TRỰC
HỘI ĐỒNG BẢO AN LIÊN HỢP QUỐC GIAI ĐOẠN 2008-2009

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 9310206

Hà Nội - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NGOẠI GIAO

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
------------------

NGUYỄN VIỆT LÂM

VIỆT NAM TRONG VAI TRÒ ỦY VIÊN KHÔNG THƯỜNG TRỰC
HỘI ĐỒNG BẢO AN LIÊN HỢP QUỐC GIAI ĐOẠN 2008-2009

Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế


Mã số : 9310206

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS. TS Nguyễn Vũ Tùng
2. PGS. TS Đặng Đình Quý

Hà Nội - 2018


LỜI CẢM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông
tin, kết quả nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận của luận án chưa
từng được công bố trong bât kì công trình nào khác.
Nguyễn Việt Lâm


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Đặng Đình Quý và PGS. TS Nguyễn
Vũ Tùng đã nhận lời hướng dẫn và tận tình chỉ dẫn để tác giả có thể hoàn
thành Luận án này. Tác giả cũng xin cảm ơn Gia đình, bạn bè và Khoa sau đại
học, Học viện Ngoại giao đã luôn ủng hộ và giúp đỡ tác giả trong quá trình
thực hiện.

Nguyễn Việt Lâm


MỤC LỤC
MỞĐẦU.....................................................................................................................................1

CHƯƠNG1CƠSỞVÀQUÁTRÌNHỨNGCỬCỦAVIỆTNAMVÀOVỊTRÍUVKTT
HĐBALHQNHIỆMKỲ2008-2009...................................................................................19
1.1.Cơsởlýluận..............................................................................................................19
1.1.1.Kháiniệmvềchủnghiãđaphương.................................................................................19
1.1.2.Chủnghĩađaphươngtrongcáctrườngpháilýthuyếtquanhệquốctế.......22
1.1.3.Đaphươngtrongchínhsáchđốingoạicủacácquốcgia.......................................27
1.1.4.QuátrìnhpháttriểntưduycủaĐảngCộngsảnViệtNamvềđốingoạiđa
phương.......................................................................................................................................................39
1.2.Cơsởthựctiễn..........................................................................................................43
1.2.1.Bốicảnhthếgiới,khuvựcvàtrongnước.....................................................................43
1.2.2.QuátrìnhđiđếnquyếtđịnhứngcửUVKTTHĐBALHQ2008-2009.............48
1.2.3.Mụctiêuchínhsách.................................................................................................................51
1.3.QuátrìnhvậnđộngứngcửUVKTTHĐBALHQ2008-2009.........................53
1.3.1.Giaiđoạn1:từnăm1997đếntháng7năm2006:...................................................53
1.3.2.Giaiđoạn2:từtháng8năm2006đếntháng10năm2007:..............................54
CHƯƠNG2QUÁTRÌNHCHUẨNBỊ,ĐẢMNHIỆMVAITRÒUVKTTHĐBALHQ
NHIỆMKỲ2008-2009CỦAVIỆTNAM............................................................................64
2.1.Quátrìnhchuẩnbị...................................................................................................64
2.1.1.Vềnộidung..................................................................................................................................64
2.1.2.Vềnhânsự,bộmáy,cơchếphốihợp,triểnkhailiênngành...............................67
2.2.Quátrìnhđảmnhậnnhiệmvụ..............................................................................69
2.2.1.PhânloạicácvấnđềthảoluậntạiHĐBA......................................................................71
2.2.2.Cơchếraquyếtđịnh..............................................................................................................73
2.2.3.Thamgiathảoluậngiảiquyếtcácvấnđềtrongchươngtrìnhnghịsựcủa
HĐBA...........................................................................................................................................................74
2.2.4.CôngtácđiềuhànhtạiHĐBALHQ...................................................................................81
2.2.5.ThamgiacáccơquantrongHĐBA..................................................................................89
2.2.6.Mộtsốnghiêncưútìnhhuốngđiểnhình......................................................................93
CHƯƠNG3THÀNHTỰU,HẠNCHẾ,BÀIHỌCKINHNGHIỆM.................................110
VÀNHỮNGVẤNĐỀĐẶTRA............................................................................................110

3.1.ThànhtựuvàHạnchế...........................................................................................111
3.1.1.Thànhtựu..................................................................................................................................111
3.1.2.Hạnchế.......................................................................................................................................119
3.2.Bàihọckinhnghiệm..............................................................................................121
3.2.1.Bàihọcvềtầmnhìnđốingoạivàtổchứcthựchiện.............................................121


3.2.2.Bàihọcvềchuẩnbịlựclượng,xâydựngnộidung................................................122
3.2.3.Bàihọcchuẩnbịlựclượngvàtổchứcthựchiện..................................................124
3.2.4.BàihọcvềtriểnkhailựclượngtạiNewYork..................Error!Bookmarknot
defined.
3.3.Nhữngvấnđềđặtra..............................................................................................121
3.3.1.Bốicảnhquốctếvàtrongnước......................................................................................127
3.3.2TìnhhìnhtạiHĐBALHQhiệnnay..................................................................................130
3.3.3Cơhội,tháchchứcvàápdụngbàihọckinhnghiệmnhiệmkỳ2008-2009131
KẾTLUẬN.............................................................................................................................141



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Tên viết tắt

1

LHQ

2


HĐBA

Tiếng Anh
The United Nations

Liên hợp quốc

United Nations

Hội Đồng Bảo an

Security Council

Liên hợp Quốc

Association of
3

ASEAN

Southeast Asian
Nations

4

5

6

7


8

UVKTT

WTO

APEC

ĐHĐ

UVTT

9

ASEM

10

PKO

Tiếng Việt

Hiệp hội quốc gia các
nước Đông Nam Á

Non-permanent

Ủy viên Không


member of the United

thường trực Hội đồng

Nations Security

Bảo an Liên hợp

Council

quốc.

World Trade

Tổ chức Thương mại

Organiztion

Thế giới

Asia-Pacific Economic
Cooperation

Diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu Á Thái
Bình Dương

General Assembly of

Đại Hội đồng Liên


the United Nations.

hợp quốc

Permanent Member of

Ủy viên thường trực

the United Nations

Hội đồng Bảo an

Security Council

Liên hợp quốc

Asia Europe Meeting

Diễn đàn hợp tác ÁÂu

Peace Keeping

Hoạt động gìn giữ

Operations

hoà bình



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là cơ quan chính trị quan trọng nhất
của tổ chức Liên hợp quốc, được giao trách nhiệm hàng đầu trong việc duy trì
hoà bình và an ninh quốc tế, qua đó có vai trò và ảnh hưởng lớn trong các vấn
đề quan trọng nhất của đời sống chính trị thế giới. Chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của HĐBA được quy định tại các điều VI, VII, VIII và XII của
Hiến chương Liên hợp quốc, bao gồm: (i) ra khuyến nghị, quyết định về các
biện pháp giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế; (ii) xác định sự tồn tại
của các mối đe doạ đối với hoà bình, phá hoại hoà bình hoặc hành động xâm
lược, khuyến nghị hoặc quyết định các biện pháp cưỡng chế, kể cả sử dụng
vũ lực, cần được tiến hành để duy trì hoặc khôi phục hoà bình và an ninh
quốc tế; (iii) khuyến khích việc giải quyết hòa bình các tranh chấp thông qua
các cơ chế/tổ chức khu vực, sử dụng các cơ chế khu vực để thực thi các hành
động trong quyền hạn của HĐBA và thường xuyên được cung cấp thông tin
về các hoạt động do các cơ chế/tổ chức khu vực tiến hành nhằm duy trì hòa
bình và an ninh quốc tế; (iv) sử dụng sự hỗ trợ của Hội đồng ủy thác để thực
thi các chức năng của Liên hợp quốc liên quan đến các vấn đề chính trị, kinh
tế, xã hội và giáo dục trong các lĩnh vực chiến lược [1].
HĐBA thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao với tư cách thay
mặt cho tất cả các thành viên LHQ, là cơ quan duy nhất của LHQ có quyền
hạn trong việc dùng hành động để giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế. Các
quyết định, nghị quyết của HĐBA, theo chương VII Hiến chương, khi đã
được thông qua đều mang tính chất ràng buộc; tất cả các thành viên của LHQ
đều có trách nhiệm phải tôn trọng và thi hành.
HĐBA gồm 15 nước thành viên, trong đó có 5 nước uỷ viên thường
trực Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc và 10 thành viên không thường trực do



2

ĐHĐ LHQ bầu ra với nhiệm kỳ hai năm trên cơ sở phân chia công bằng về
mặt địa lý, có tính tới sự đóng góp của những nước này cho tôn chỉ và mục
đích của LHQ và không được bầu lại nhiệm kỳ kế ngay sau khi mãn nhiệm.
10 nước thành viên không thường trực được bầu theo sự phân bổ khu vực địa
lý gồm: 5 nước thuộc châu Phi và châu Á; 1 nước thuộc Đông Âu; 2 nước
thuộc vùng Mỹ Latinh và Caribê; 2 nước thuộc Tây Âu và các nước khác.
Với vai trò và ảnh hưởng quan trọng của HĐBA LHQ trong các vấn đề
hệ trọng của thế giới có liên quan đến hòa bình và an ninh quốc tế như đã nêu,
đa số các nước đều nhận thức rằng, việc đảm nhiệm vị trí uỷ viên không
thường trực HĐBA là cơ hội tốt để theo đuổi lợi ích và nâng cao vị thế quốc
tế của quốc gia ở cả khía cạnh đa phương và song phương. Là thành viên
không thường trực HĐBA, các quốc gia có điều kiện tham gia quyết định
những vấn đề liên quan đến hòa bình, an ninh quốc tế, đặc biệt những vấn đề
có liên quan đến lợi ích trực tiếp của họ; lồng ghép những vấn đề họ có lợi ích
vào chương trình nghị sự của LHQ; tranh thủ tăng cường quan hệ với các
thành viên thường trực và không thường trực khác qua đó thúc đẩy các mục
tiêu quốc gia; nâng cao uy tín quốc tế thông qua việc thể hiện khả năng và
trách nhiệm của quốc gia trong xử lý các công việc chung của thế giới. Thực
tiễn cho thấy, tranh thủ vị trí thành viên HĐBA, nhiều nước đã thu được kết
quả cụ thể với các nước, nhóm nước, tổ chức quốc tế, như góp phần tháo gỡ
vướng mắc trong quan hệ, tăng cường quan hệ thương mại, viện trợ, lao động,
tham gia ký kết các hợp đồng cung ứng hàng hoá cho LHQ, các hoạt động gìn
giữ hoà bình LHQ (PKO)…
Chính vì vậy, việc tham gia ứng cử và trở thành Uỷ viên không thường
trực HĐBA là một mục tiêu quan trọng của ngoại giao đa phương mà các
thành viên LHQ hướng tới. Nhiều nước đã nhiều lần làm thành viên không
thường trực HĐBA. Có 8 nước làm thành viên HĐBA 6 lần trở lên, 14 nước



3

làm từ 4-5 lần, 47 nước làm từ 2-3 lần. Chi tính riêng trong ASEAN, Phi-líppin đã làm UVKTT HĐBA 3 lần, Ma-lai-xi-a làm UVKTT HĐBA 4 lần
(trong đó có nhiệm kỳ 1 năm), In-đô-nê-xi-a làm UVKTT HĐBA 3 lần, Xinhga-po và Thái Lan mỗi nước đã 1 lần làm thành viên HĐBA.
Từ năm 1997, Việt Nam đã có chủ trương ứng cử Uỷ viên Không
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA LHQ) nhiệm kỳ 20082009 [9]. Sáng ngày 16 tháng 10 năm 2007 (giờ New York), với 183/190
phiếu ủng hộ, Đại hội đồng LHQ Khoá 62 đã bầu Việt Nam làm Ủy viên
Không thường trực HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2008-2009 [158].
Từ năm 2012, Việt Nam công khai Kế hoạch ứng cử vận động vị trí
UVKTT HĐBA nhiệm kỳ 2020-2021. Theo lộ trình tháng 6 năm 2019, Đại
hội đồng Liên hợp quốc sẽ bỏ phiếu bầu Uỷ viên Không thường trực HĐBA
cho nhiệm kỳ 2020-2021. Do vậy hiện nay đã là giai đoạn nước rút trong quá
trình vận động và chuẩn bị ứng cử cũng như đảm nhiệm nếu ứng cử thành
công. Những tiền đề (chủ trương và chiến lược đối ngoại của Đảng và Nhà
nước, thế và lực của đất nước hiện nay) cùng kiến thức và kinh nghiệm thu
được sau nhiệm kỳ thứ nhất là nền tảng quan trọng cho quá trình chuẩn bị lần
này.
Tại các cuộc tiếp xúc cấp cao Lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam
[163] đều đã vận động Lãnh đạo các nước [2] ủng hộ Việt Nam ứng cử làm
Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (UVKTT HĐBA
LHQ) giai đoạn 2020-2021 [3]. Ngày 24 tháng 9 năm 2016, phát biểu tại
Phiên thảo luận cấp cao Đại hội Đồng Liên hợp quốc khoá 71, Phó Thủ
tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã chính thức thông báo Việt
Nam quyết định tham gia ứng cử nhiệm kỳ UVKTT HĐBA 2020-2021.
Chính vì vậy, việc có một nghiên cứu toàn diện về về quá trình ứng cử
và đảm nhiệm vai trò là UVKTT HĐBA nhiệm kỳ 2008-2009 của Việt Nam



4

là rất cần thiết, trên cả hai phương diện khoa học và thực tiễn. Nhưng đến
nay, chưa có công trình đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về
quá trình Việt Nam vận động ứng cử và đảm nhiệm vị trí UVKTT HĐBA
nhiệm kỳ 2008-2009. Các nghiên cứu từ trước đến nay cả ở trong và ngoài
nước mới chỉ nêu khái quát (cả từ góc độ học thuật và góc độ chính sách) về
việc thực hiện các vấn đề về lợi ích-quốc gia dân tộc (an ninh, phát triển, và
ảnh hưởng) và nhận thức về lợi ích quốc gia-dân tộc, quá trình hoạch định,
triển khai chính sách đối ngoại liên quan đến việc ứng cử làm UVKTT HĐBA
và xây dựng bản sắc quốc gia của Việt Nam.
Công trình nghiên cứu này sẽ góp phần làm rõ những nguyên nhân đưa
tới thành công của Việt Nam trong quá trình vận động ứng cử và đảm nhiệm
vai trò UVKTT HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2008-2009; phân tích những khó khăn
và hạn chế trong quá trình đó nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cho quá
trình chuẩn bị ứng cử nhiệm kỳ thứ hai của Việt Nam 2010-2021. Công trình
cũng góp phần trả lời một trong cáccâu hỏi then chốt nhất phục vụ việc ứng
cử trong nhiệm kỳ tới, đó là: Việt Nam cần phải chuẩn bị gì cho quá trình vận
động tái cử và đảm nhiệm thành công vai trò UVKTT HĐBA LHQ trong
nhiệm kỳ hai nếu trúng cử?
Theo đó, công trình nghiên cứu đó không chỉ có ý nghĩa về học thuật
như là cung cấp và bổ sung nguồn tài liệu, phục vụ cho việc nghiên cứu và
giảng dạy về quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại, mà nó còn hữu ích cho
quá trình hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung và đối
ngoại đa phương nói riêng. Nghiên cứu này hi vọng đóng góp vào cuộc thảo
luận về lý thuyết hiện nay về việc theo đuổi lợi ích quốc gia dân tộc và xây
dựng bản sắc quốc gia thông qua công cụ đa phương qua trường hợp cụ thể
của Việt Nam; đồng thời đóng góp vào quá trình hoạch định và triển khai thực
hiện kế hoạch vận động và ứng cử nhiệm kỳ UVKTT HĐBA 2020-2021 nói



5

riêng, chiến lược hội nhập quốc tế và chiến lược đối ngoại của Đại hội XII nói
chung.
Luận án này sẽ tận dụng lợi thế của “người trong cuộc” để thực hiện
mục tiêu này. Đó là do (i) nghiên cứu sinh đang công tác tại Bộ Ngoại giao,
có thể tiếp cận hồ sơ, tài liệu liên quan đến giai đoạn Việt Nam vận động và
thực hiện vai trò UVKTT HĐBA nhiệm kỳ 2008-2009, (ii) nghiên cứu sinh
đã có một nhiệm kỳ công tác tại Phái đoàn đại diện Thường trực của Việt
Nam tại Liên hợp quốc (2012-2015), New York, Hoa Kỳ, có điều kiện trực
tiếp quan sát, tham gia hoạt động của Việt Nam tại Liên hợp quốc, chứng kiến
và trải nghiệm sự vận hành của Liên hợp quốc, và có điều kiện trao đổi với
các đồng chí, đồng nghiệp đã trực tiếp làm ở Vụ Tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại
giao, hoặc tại Liên hợp quốc trong khoảng thời gian đó, liên quan đến nhiệm
kỳ UVKTT HĐBA của Việt Nam.
Với những lí do trên, Nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài: “Việt Nam
trong vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc giai
đoạn 2008-2009” cho luận án tiến sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
2.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Nhìn một cách tổng quan, các công trình nghiên cứu trên thế giới có liên
quan tới đề tài tập trung vào một số nhóm vấn đề nổi bật như: (i) phân tích,
đánh giá các chức năng, nhiệm vụ của HĐBA; (ii) vai trò và cuộc chơi của
các uỷ viên thường trực HĐBA (UVTT HĐBA – P5); (iii) quyền phủ quyết
(veto); (iv) cải tổ HĐBA – tăng thêm số lượng UVKTT và tăng cường sự
tham gia của UVKTT trong quá trình tham vấn, xây dựng Nghị quyết của
HĐBA; (v) bầu UVKTT HĐBA.
Đi sâu vào các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp tới vấn đề
nghiên cứu của luận án, có thể thấy có các có các nghiên cứu, đánh giá kinh



6

nghiệm làm UVKTT HĐBA (E10)1 của các nước trong và ngoài khu vực có
vị thế, đặc điểm tương đối giống Việt Nam như Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a,
Xinh-ga-po và một số nước khác như Ấn Độ, Úc và Niu Di-lân…, trong đó có
một số nước đã có nhiều lần đảm nhiệm vai trò UVKTT HĐBA. Có thể nêu
một số công trình tiêu biểu sau:
Trong cuốn “The Little Read Dot: Reflections by Singapore’s
Diplomats” [121] và cuốn “50 years of Singapore and the United Nations”
[167], Giáo sư Kishore Mahbubani đã đánh giá nhiệm kỳ UVKTT HĐBA của
Singapore giai đoạn 2001-2002. Theo đó, nhờ có chỉ đạo của Bộ Ngoại giao
Xinh-ga-po về việc xây dựng một Khung chung đối với các vấn đề quan trọng
được thảo luận tại HĐBA (như vấn đề I-rắc và Trung Đông), Phái đoàn
Singapore tại LHQ đã có thể chủ động và tác chiến thành công tại các cuộc
họp của HĐBA. Trong nhiệm kỳ 2001-2002 của mình, tác giả cho rằng Xinhga-po dường như đã tham gia vào “hai HĐBA”. Cụ thể, giai đoạn trước sự
kiện 11 tháng 9 năm 2001, Singapore đã trải nghiệm công việc, chương trình
nghị sự của HĐBA tương tự như giai đoạn cuối những năm 1990. Tuy nhiên,
giai đoạn sau 11 tháng 9 năm 2001, HĐBA LHQ có nhiều thay đổi nhanh và
bất ngờ, các hoạt động, chương trình nghị sự tập trung nhiều vào việc thảo
luận, thông qua các Nghị quyết chống khủng bố, hợp pháp hoá cuộc chiến tại
Áp-ga-nít-xtan và xây dựng một đồng thuận mới về vấn đề I-rắc. Vì vậy, khối
lượng công việc của Phái đoàn Xinh-ga-po giai đoạn này nhiều lên gấp đôi
trong khi với số cán bộ ngoại giao làm việc không thay đổi. Giai đoạn này,
một quốc gia nhỏ như Xinh-ga-po đã được trải nghiệm, tham gia giải quyết
nhiều vấn đề quan trọng của HĐBA, qua đó giúp nâng cao uy tín giá trị và vị
thế của Xinh-ga-po tại LHQ. Giáo sư Kishore Mahbubani khẳng định rằng
“uy tín này là tài sản quốc gia quan trọng của Xinh-ga-po, không được coi
1


E10 tên tiếng Anh là Non-permament members of UNSC: Tên gọi tắt của 10 nước UVKTT HĐBA LHQ.


7

nhẹ, cần được giới thiệu và quán triệt đến các thệ hệ nhà ngoại giao sau này
của Xinh-ga-po”.
Một số công trình nghiên cứu đề cập tới quá trình vận động, đấu tranh
chính trị trong HĐBA và quan hệ giữa các nước P5 và E10 trong HĐBA. Tác
phẩm “Perlious Interventions: The Security Council and the Politics of
Chaos” [125] của Hardeep Singh Pur, Đại sứ, Trưởng Phái đoàn Ấn Độ, Liên
hợp quốc đã tiết lộ những thông tin đáng chú ý về việc gây ảnh hưởng và đấu
tranh chính trị giữa các nước thành viên HĐBA trong quá trình xây dựng và
ban hành Nghị quyết về sử dụng vũ lực tại một số nước trên thế giới như Libi, Xi-ri… Cuốn sách “Five to Rule Them All: The UN Security Council and
the Making of the Modern World” [112] của tác giả David L. Bosco, là công
trình nghiên cứu công phu, đúc rút qua vài chục cuộc phỏng vấn các cựu Đại
sứ, Trưởng Phái đoàn các nước làm UVKTT HĐBA qua các thời kỳ. Cuốn
sách được đánh giá là biên niên sử các cuộc tranh đấu chính trị và va chạm
giữa các cá nhân (nhà ngoại giao) trong các cuộc họp kín và công khai của
HĐBA. David Bosco cho rằng, về lý thuyết khi các nước P5 đoàn kết lại,
HĐBA có thể tiến hành các cuộc chiến tranh, áp đặt lệnh cấm vận, vẽ lại các
đường biên giới… Tuy nhiên, trên thực tế nền chính trị hiện nay, các thành
viên của HĐBA đều có những lợi ích đa dạng và khác biệt, do vậy sẽ không
tránh khỏi xung đột, nhưng sẽ không dẫn đến đổ vỡ vì 5 nước UVKTT
HĐBA vẫn có những vai trò nhất định trong việc bảo đảm hoà bình, an ninh
trên thế giới.
Bài viết của Thom Woodroofe với nhan đề “Australia’s Two Years on
the UN Security Council” [166] đăng trên trang bình luận của Viện Nghiên
cứu quốc tế - AIIA, The Australian Institute of International Affairs năm 2012

nhấn mạnh việc Úc đảm nhiệm vị trí UVKTT HĐBA 4 lần là cơ hội để Úc
tiếp nối các chính sách đa phương, mục tiêu và thực hiện lợi ích quốc gia của


8

mình ở cấp độ toàn cầu. Tác giả cho rằng nếu muốn được quốc tế công nhận
là thành viên chủ động, tích cực và xây dựng của HĐBA giai đoạn 20132014, Ốt-xtrây-li-a cần phải đầu tư nhiều nỗ lực để hiểu cuộc chơi, thủ tục,
quyền lực của các nước P5 tại HĐBA, cũng như quan hệ của các Nhóm nước,
cách định hướng chương trình nghị sự của HĐBA cũng như thường xuyên
cập nhật thông tin về trong nước để tạo sự đồng thuận trong nội bộ.
Bài viết “Eyes on the Prize: The Quest for Nonpermanent Seats on the
UN Security Council) [123, tr. 3-23] của Malone, David M tập trung nghiên
cứu trả lời cho câu hỏi tại sao các nước lại theo đuổi việc ứng cử làm UVKTT
HĐBA. Malone nghiên cứu cụ thể giai đoạn 1999-2000, qua trường hợp các
nước gồm Hà Lan, Hy Lạp và Canada trong Nhóm Tây Âu đấu tranh để được
giới thiệu trong Nhóm (Nhóm Tây Âu giai đoạn này có 2 ghế tại HĐBA) ra
tranh cử ghế UVKTT HĐBA tại cuộc bầu cử năm 1998 tại New York, Hoa
Kỳ.
Bài viết “Mexico’s Experience on the UN Security Council 2009-2010”
của tác giả Guillermo Puente Ordorica, Phó Trưởng phòng, Đại sứ quán Mêxi-cô tại Can-be-ra, Ốt-xtrây-li-a, phân tích quá trình tham gia ứng cử
UVKTT HĐBA 2009-2010 của Mê-xi-cô với mục đích, chiến dịch vận động
và những cam kết khi tham gia ứng cử. Ordiorica cho rằng việc xây dựng và
đạt đồng thuận giữa các thành viên HĐBA LHQ là một quá trình phức tạp,
không hề dễ dàng [132]. Mê-xi-cô luôn bám sát nguyên tắc lập trường của
mình (quy định trong Hiến pháp Mê-xi-cô) và nắm chắc vấn đề được đưa ra
thảo luận để phục vụ việc xây dựng lập trường của mình tại HĐBA. Ví dụ
năm 2009, HĐBA LHQ ra Nghị quyết 1860 đối với cuộc khủng hoảng tại Gada, Mê-xi-cô lúc đó cùng các thành viên mới được bầu (Úc, Nhật Bản, Mê-xicô, Thổ Nhĩ Kỳ và Uganda) đã tham gia đóng góp cho HĐBA xây dựng dự
thảo Nghị quyết cả về số lượng và chất lượng nhằm tạo đồng thuận trong



9

HĐBA để ban hành Nghị quyết trên.
Ngoài ra, bài viết “The Permanent and Elected Council Members” [120]
trong cuốn sách “The UN Security Council: From the Cold War to the 21st
Century” của Đại sứ, Trưởng Phái đoàn Xinh-ga-po tại LHQ, Kishore
Mahbubani đã tập trung phân tích, đánh giá mối quan hệ giữa 5 nước UVTT
HĐBA (P5) và 10 nước UVKTT HĐBA (E10). Kishore Mahbubani nhận
định các nước E10 thường sẽ ít lợi thế trong việc thương lượng, thảo luận
chương trình nghị sự tại HĐBA, hay nói cách khác, các nước P5 giữ vai trò
“thống trị” cuộc chơi tại HĐBA.
Tác giả Kuziemko & Werker với bài viết “How much is a seat on the
Security Council Worth” [164] đăng trên Journal of Political Economy, tập
trung làm rõ việc (i) các nước P5 sử dụng các biện pháp viện trợ kinh tế để
mua phiếu của các nước E10 đối với các chương trình nghị sự cụ thể tại
HĐBA và ngược lại (ii) các nước E10 sử dụng lá phiếu của mình ủng hộ vấn
đề có lợi cho một trong các nước P5 để tranh thủ thúc đẩy quan hệ song
phương cũng như tiếp nhận viện trợ về kinh tế qua nhiều hình thức khác nhau,
trong đó có các khoản viện trợ từ cơ quan hỗ trợ phát triển của LHQ.
Có thể thấy các công trình nghiên cứu ngoài nước về HĐBA tương đối
phong phú, đa dạng, có nhiều thông tin, nghiên cứu, thực tiễn của nhiều
trường hợp khác nhau từ các nước lớn, nước tầm trung và nước nhỏ tham gia
và các vấn đề liên quan đến HĐBA. Các nhà nghiên cứu thường sử dụng
khung phân tích phù hợp với từng nhóm nước (nước lớn, nước nhỏ/nước tầm
trung) tham gia vào HĐBA. Chính trị cường quyền thường được thấy trong
cách hành xử, chính sách đối ngoại của các nước lớn. “Hành xử phù hợp, linh
hoạt” để hài hoà quan hệ với các nước P5 và tối đa hoá lợi ích quốc gia là
cách tiếp cận thường được áp dụng khi phân tích về việc tham gia vị trí
UVKTT HĐBA của các nước nhỏ/tầm trung. Những nghiên cứu trên là một



10

nguồn tham khảo, đối chiếu hữu dụng trong quá trình thực hiện Luận án này.
2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước:
Tới nay, ở Việt Nam không có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu,
sách chuyên khảo đề cập trực tiếp tới vấn đề nghiên cứu của luận án. Các
công trình nghiên cứu ở có liên quan tới đề tài tập trung vào một số nhóm vấn
đề nổi bật như: (i) hoạt động gìn giữ hoà bình Liên hợp quốc [52]; (ii) vai trò
của HĐBA trong việc giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế; (iii) cải tổ HĐBA;
(iv) các nhóm vấn đề chính được thảo luận tại HĐBA như vấn đề hạt nhân
trên bán đảo Triều Tiên; trẻ em và phụ nữ trong xung đột vũ trang… Có thể
nêu ra đây một số công trình tiêu biểu có liên quan tới vấn đề nghiên cứu của
đề tài:
Cuốn sách “Ngoại giao đa phương trong hệ thống quan hệ quốc tế
đương đại” [50] do tác giả Lưu Thuý Hồng chủ biên đề cập tới các khái niệm,
đánh giá về hệ thống đa phương đương đại và đưa ra một số đánh giá khái
quát chung về UVKTT HĐBA.
Công trình nghiên cứu của về “Đối ngoại đa phương Việt Nam trong
thời kỳ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” [66] do Tiến sĩ Lê Hoài Trung
chủ biên đã có những nghiên cứu sâu về chủ nghĩa đa phương, quá trình hình
thành tư duy đối ngoại đa phương của Việt Nam, đánh giá quan hệ Việt Nam
với các tổ chức đa phương như Liên hợp quốc, phong trào Không Liên kết,
IMF, WTO, World Bank… qua đó đề ra định hướng chính sách Đối ngoại đa
phương Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế thời gian tới.
Cuốn sách của tác giả Nguyễn Hồng Thao “Việt Nam và Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc” [62] đưa ra bức tranh chung, cập nhật các vấn đề của
HĐBA LHQ. Đáng chú ý cuốn sách này được xuất bản trong giai đoạn Việt
Nam bắt đầu đảm nhiệm vị trí UVKTT HĐBA.

Công trình Liên hợp quốc và lực lượng gìn giữ hoà bình Liên hợp quốc


11

của tác giả Nguyễn Hồng Quân và Nguyễn Quốc Hùng đã giới thiệu về nhiệm
vụ, vai trò hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc [52].
Luận án Tiến sĩ của tác giả Phạm Lan Dung về “Địa vị pháp lý, thực tiễn
hoạt động và vấn đề nâng cao vai trò của UVKTT HĐBA” đã đề cập phần nào
thành quả nhiệm kỳ UVKTT lần một (2008-2009) của Việt Nam [30].
Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khác đề cập tới các vấn đề chung
của Liên Hợp quốc như cuốn sách “Cơ cấu tổ chức của Liên hợp quốc” (Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, 2000) của tác giả Trần Thanh Hải chủ biên và
cuốn “Hệ thống Liên hợp quốc” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2004) tác
giả Võ Anh Tuấn chủ biên đã cung cấp một số nghiên cứu tổng quan về cơ
cấu tổ chức, của LHQ. Cuốn “Các tổ chức quốc tế và Việt Nam” do Bộ Ngoại
giao xuất bản (2005) giới thiệu khái quát về vai trò, chức năng nhiệm vụ của
các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, phong trào Không Liên kết, Cộng
đồng các nước sử dụng tiếng Pháp…và quan hệ của Việt Nam với các tổ chức
này trong giai đoạn 1980-2005.
Cuốn sách “30 năm Đổi mới và phát triển ở Việt Nam” do các tác giả
Đinh Thế Huynh, Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền và Nguyễn
Viết Thông đồng chủ biên, đã đưa ra nhiều đánh giá thực chất quá trình hội
nhập khu vực và thế giới của Việt Nam, trong đó đều nhấn mạnh đến nhiệm kỳ
UVKTT HĐBA của Việt Nam, tập trung vào việc phát huy vai trò, vị thế, và sự
phát triển của Việt Nam sau khi hoàn thành nhiệm kỳ trên..
Tóm lại, đã có những công trình nghiên cứu về LHQ, HĐBA LHQ và
chính sách của Việt Nam, nhưng đa số mới chỉ dừng ở mức giới thiệu về
LHQ, HĐBA và các lĩnh vực có thể hợp tác giữa Việt Nam và LHQ. Ngoài
ra, không có nhiều công trình nghiên cứu, đánh giá toàn diện, chi tiết, sâu sắc

về việc Việt Nam đảm nhiệm vị trí UVKTT HĐBA LHQ nhiệm kỳ 20082009, nhất là nghiên cứu, tìm hiểu quyết sách của Việt Nam trong giai đoạn


12

này và qua trình triển khai quyết định từ vận động đến đảm nhiệm thành công
vai trò sau khi được bầu vào HĐBA. Luận án “Việt Nam trong vai trò Uỷ viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc giai đoạn 2008-2009” sẽ
bổ sung vào mảng kiến thức còn chưa đầy đủ này.
2.3. Nhận xét
Trong khuôn khổ của những công trình nghiên cứu mà tác giả luận án
tiếp cận được, có thể thấy:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu có liên quan tới Liên Hợp quốc chủ
yếu tập trung vào đề cập tới các vấn đề chung của Liên Hợp quốc như về cơ
cấu, chức năng hay nhiệm vụ cũng như các hoạt động và ảnh hưởng chung
của tổ chức này.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về Hội đồng Bảo an của Liên Hợp
quốc lại thường tập trung nghiên cứu về vai trò và của các uỷ viên thường
trực HĐBA chứ không chú trọng nhiều tới các ủy viên không thường trực.
Thứ ba, các công trình bàn về vai trò của thành viên không thường trực
của HĐBA LHQ cũng thường tập trung vào các nước ủy viên là nước lớn,
tầm trung. Các nước nhỏ như Việt Nam ít được quan tâm đến.
Thứ tư, ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về Hội đồng Bảo an và
về vai trò của các Uỷ viên không thường trực trong Hội đồng Bảo an không
nhiều, chủ yếu là nghiên cứu về Liên Hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác.
Xuất phát từ thực trạng nêu trên, luận án có thể bổ sung vào những
khoảng trống nghiên cứu ở cả trên thế giới và Việt Nam về vai trò của các
nước là ủy viên không thường trực của HĐBA LHQ nói chung và về vai trò
của Việt Nam nói riêng. Kế thừa các công trình nghiên cứu quốc tế và trong
nước, luận án dự kiến triển khai nghiên cứu về vai trò của Việt Nam với tư

cách là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc giai đoạn
2008-2009, phân tích những chính sách mà Việt Nam đã áp dụng trong quá


13

trình quyết định ứng cử vận động ứng cử và thực hiện nhiệm vụ sau khi trúng
cử; làm rõ những thành công cũng như hạn chế của Việt Nam trong nhiệm kỳ
một, từ đó đưa ra những bài học kinh nghiệm, những phân tích những vấn đề
đặt ra cho Việt Nam khi ứng cử lần hai vào vị trí UVKTT HĐBA LHQ nhiệm
kỳ 2020-2021 và việc áp dụng các bài học kinh nghiệm cho quá trình vận
động ứng cử, đảm nhận nhiệm vụ nếu ứng cử thành công lần hai vị trí
UVKTT HĐBA LHQ.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án làm rõ quá trình vai trò của Việt Nam vận
động ứng cử và đảm nhiệm vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an
Liên Hợp quốc giai đoạn 2008-2009. Từ đó, đưa ra những đánh giá về thành
công, hạn chế và rút ra các bài học kinh nghiệm từ quá trình Việt Nam vận
động bầu cử và đảm nhiệm vai trò UVKTT HĐBA LHQ 2008-2009.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục tiêu nêu trên, luận án giải quyết một số nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc Việt Nam ra quyết định ứng
cử, quá trình chuẩn bị ứng cử vận động phiếu bầu, chuẩn bị và đảm nhiệm nhiệm
vụ UVKTT HĐBA giai đoạn 2008-2009.
- Rút ra bài học kinh nghiệm cho quá trình vận động tranh cử, chuẩn bị và
đảm nhiệm vai trò HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2020-2021 (trường hợp trúng cử).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án bao gồm:

- Đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, các định
hướng triển khai đối ngoại đa phương nói chung và liên quan đến sự tham gia
của Việt Nam tại Liên hợp quốc nói riêng;


14

- Thực tiễn quá trình ứng cử và đảm nhiệm nhiệm vụ UVKTT HĐBA
của Việt Nam;
- Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong quá trình chuẩn bị ứng cử và
đảm nhiệm vị trí UVKTT HĐBA giai đoạn (2020-2021);
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về Nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu các hoạt động của Việt
Nam bắt đầu từ quá trình hình thành ý tưởng ứng cử cho tới quá trình vận
động ứng cử, chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ và quá trình thực hiện nhiệm vụ
với vai trò là UVKTT HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2008-2009.
Về thời gian: Luận án tập trung vào giai đoạn từ khoảng giữa thập niên
1990 (khi Việt Nam bắt đầu xem xét việc ứng cử) đến hết năm 2009 (kết thúc
nhiệm kỳ).
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện chủ yếu trên cơ sở phương pháp nghiên cứu sử
học kết hợp với việc áp dụng các phương pháp tiếp cận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự do và chủ
nghĩa kiến tạo...
Luận án cũng được thực hiện dựa trên nghiên cứu tổng kết quá trình
vận động ứng cử và đảm nhận vị trí UVKTT HĐBA LHQ của Việt Nam giai
đoạn 2008 – 2009.
Ngoài ra, nghiên cứu sinh sẽ kết hợp một số phương pháp so sánh, phân
tích-tổng hợp, dự báo và nghiên cứu diễn giải, định tính (phỏng vấn chuyên
sâu), nghiên cứu trường hợp (case-studies), thống kê mô tả để hỗ trợ cho các
diễn giải, giải thích trong quá trình nghiên cứu.

6. Nguồn tài liệu nghiên cứu:
Nguồn tài liệu phục vụ nghiên cứu Luận án là (i) những tài liệu, văn
kiện/văn bản gốc của Đảng, Nhà nước, (ii) các báo cáo, tờ trình của Bộ Ngoại


15

giao và Phái đoàn đại diện Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc, được
lưu tại Vụ các Tổ chức quốc tế, Vụ Đông Nam Á – Nam Thái Bình Dương,
Vụ Trung Đông – Châu Phi, Bộ Ngoại giao; (iii) các bài viết và trả lời phỏng
vấn của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước liên quan đến việc Việt Nam đảm nhận
nhiệm kỳ HĐBA nhiệm kỳ 2008-2009; (iv) báo cáo hoạt động của HĐBA
trình ĐHĐ LHQ, Báo cáo hàng năm của TTK LHQ về công việc của tổ chức,
biên bản các cuộc họp (SPV) và báo cáo tổng thể (Repertoire) các phiên họp
của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc trong năm 2008 và 2009, báo cáo của các
tổ chức phi chính phủ uy tín như Security Council Report, Global Policy
Forum, International Peace Academy… (v) các sách, bài viết và công trình
nghiên cứu phân tích/đánh giá liên quan đến vấn đề nghiên cứu, và (vi) tư
liệu, nhận định của các chuyên gia.
7. Đóng góp của Luận án
Giải quyết được các nhiệm vụ đặt ra, luận án hy vọng sẽ có những đóng
góp sau:
Một là, luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam, từ góc độ
quan hệ quốc tế, làm rõ về vai trò của Việt Nam với tư cách là UVKTT
HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2008-2009.
Hai là, về khía cạnh khoa học, Luận án có thể góp phần lý giải rõ hơn
lý do và những cơ sở của việc Việt Nam quyết định tham gia ứng cử, vận
động ứng cử, chuẩn bị và đảm nhiệm thành công vai trò của mình tại LHQ.
Trên cơ sở đó, Luận án phân tích làm rõ những thành công và hạn chế, cũng
như các bài học kinh nghiệm cần rút ra. Luận án bổ sung vào mảng nghiên

cứu còn trống ở Việt Nam về chủ nghĩa đa phương và ngoại giao đa phương
của nước nhỏ và vừa.
Ba là, về khía cạnh thực tiễn, kết quả nghiên cứu của Luận án có thể là
nguồn tham khảo tốt cho công tác hoạch định chính sách của Việt Nam mà cụ


16

thể là góp phần chuẩn bị cho quá trình vận động và thực hiện nhiệm vụ
UVKTT HĐBA của nhiệm kỳ hai, giai đoạn 2020-2021 (trường hợp trúng
cử); tham mưu và triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam, đặc biệt là
đối ngoại đa phương và quan hệ với LHQ.
Luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo và giảng dạy
cho bậc đại học, sau đại học và các chương trình bồi dưỡng cho cán bộ làm
đối ngoại của Việt Nam đặc biệt là cán bộ đối ngoại đa phương; cung cấp
thông tin và định hướng dư luận trong việc nhìn nhận, đánh giá ngoại giao đa
phương của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh ảnh hưởng của mạng xã hội
ngày càng gia tăng.
8. Bố cục của Luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án
gồm 3 Chương với nội dung như sau:
Chương 1. Cơ sở và quá trình ứng cử của Việt Nam vào vị trí
UVKTT HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2008-2009
Nghiên cứu quá trình ra quyết định và vận động ứng cử UVKTT HĐBA
LHQ giai đoạn 2008-2009 của Việt Nam, trong đó xem xét các khuôn khổ lý
luận về hành vi của các nước khi tham gia hệ thống đa phương và kinh nghiệm
các nước đã làm UVKTT HĐBA LHQ, tập trung phân tích các bước chuyển về
tư duy, quan điểm, chính sách đối ngoại nói chung và chính sách đối ngoại đa
phương của Việt Nam nói riêng qua các thời kì, đặc biệt từ Đại hội Đảng Cộng
sản Việt Nam lần thứ VI (1986) đến Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ

X (2006); Phân tích những cơ hội và thách thức mà tình hình thế giới và khu
vực giai đoạn trước năm 2008 đưa đến cho Việt Nam; Phân tích và đánh giá
các nhân tố liên quan và tác động đến quá trình ra quyết định, xây dựng và triển
khai kế hoạch vận động ứng cử UVKTT HĐBA giai đoạn 2008-2009 của Việt
Nam, gồm hai giai đoạn: (i) từ năm 1997 đến tháng 7 năm 2006 và (ii) từ tháng


17

8 năm 2006 đến tháng 10 năm 2007 (việc chia ra thành hai giai đoạn với thời
gian như trên là dựa trên Đề án vận động ứng cử vị trí UVKTT HĐBA nhiệm
kỳ 2008-2009 trình Lãnh đạo Cấp cao của Bộ Ngoại giao).
Chương 2: Quá trình chuẩn bị, đảm nhiệm vai trò UVKTT HĐBA LHQ
nhiệm kỳ 2008-2009 của Việt Nam
Nghiên cứu quá trình chuẩn bị và đảm nhận vai trò UVKTT HĐBA
trong đó tập trung phân tích và đánh giá (i) quá trình chuẩn bị ứng cử, (ii) quá
trình xây dựng bộ máy, tổ chức liên quan đến cơ chế liên ngành, cơ chế phân
cấp ra quyết định, (iii) quá trình chuẩn bị, xác định hướng xử lý các vấn đề
trong Chương trình nghị sự của HĐBA, (iv) quá trình xây dựng lập trường
nguyên tắc và cơ bản đối với các vấn đề trong Chương trình nghị sự HĐBA,
(v) quá trình hình thành đội ngũ cán bộ ngoại giao đa phương phục vụ việc
đảm nhận nhiệm vụ UVKTT HĐBA LHQ 2008-2009 và (vi) quá trình đảm
nhiệm vị trí UVKTT HĐBA trong năm 2008 và năm 2009, đặc biệt là các
tháng Việt Nam làm Chủ tịch HĐBA (tháng 8/2008 và tháng 10/2009), cách
thức Việt Nam điều hành và điều phối Chương trình nghị sự và các vấn đề
phát sinh. Chương này cũng đi sâu làm rõ quá trình đảm nhận nhiệm vụ của
Việt Nam tại HĐBA LHQ thông qua cách Việt Nam ứng xử, thực hiện
chương trình nghị sự, thể hiện lập trường trong một số trường hợp phức tạp để
bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc cũng như đóng góp vào công việc chung của
LHQ tại HĐBA.

Chương 3: Thành tựu, hạn chế, bài học kinh nghiệm và những vấn
đề đặt ra
Tập trung đánh giá sự thành công trên các mặt chính trị-an ninh, kinh tếthương mại…, hạn chế và bài học kinh nghiệm rút ra của Việt Nam trong
nhiệm kỳ UVKTT HĐBA LHQ 2008-2009; bối cảnh và những vấn đề có thể
đặt ra khi Việt Nam ứng cử nhiệm kỳ 2020-2021 và việc áp dụng các bài học


18

của nhiệm kỳ 2008-2009 cho quá trình vận động ứng cử, thực hiện nhiệm vụ
khi ứng cử nhiệm kỳ UVKTT HĐBA 2020-2021 thành công.


×