Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Đề tài Tư tưởng triết học về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong Đạo gia và ý nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 85 trang )

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, cho phép em được gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban chủ
nhiệm khoa, các thầy cô giáo trong khoa Triết học trường Đại học Sư phạm
Hà Nội – những người đã nhiệt tình truyền đạt và trang bị cho em những kiến
thức quan trọng và quý báu trong thời gian học tập tại trường.
Đặc biệt, xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Lê Văn Đoán,
người thầy đã dạy dỗ em, dành thời gian tận tình hướng dẫn, định hướng và
tạo điều kiện, giúp đỡ để em hoàn thành khóa luận này.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn tới kiến trúc sư – phong thủy Kiến
Phong và kiến trúc sư Nguyễn Quốc Khánh đã giúp đỡ em để hoàn thành các
vấn đề kiến trúc phong thủy và hoàn thành khóa luận này.

Hà Nội, tháng 5 năm 2015.
Sinh viên

Nguyễn Thị An


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………


…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Chữ kí của GVHD

PGS.TS. Lê Văn Đoán


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5
4. Phạm vi nghiên cứu........................................................................................ 6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................. 6
6. Ý nghĩa đề tài................................................................................................... 6
7. Kết cấu đề tài ................................................................................................... 6
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƢỜI VỚI TỰ NHIÊN
TRONG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA.............................................................................................. 7
1.1. Một số khái niệm cơ bản .............................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm “con người” trong triết học Đạo gia ......................... 7
1.1.2. Khái niệm “tự nhiên” trong triết học Đạo gia .......................... 12
1.2. Nội dung mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong triết học
Đạo gia ...................................................................................................................16
1.2.1. Cơ sở hình thành mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong triết học Đạo gia .......................................................................... 16
1.2.2. Thiên - Địa - Nhân hợp nhất ..................................................... 20
1.2.3. Lý tưởng hóa tự nhiên ............................................................... 22
1.2.4. “Đạo” vượt trên cõi tự nhiên ..................................................... 24

1.2.5. Phương pháp luận lấy tự nhiên và quy luật tự nhiên làm cách
xử thế của con người ............................................................................ 29
1.3. Những giá trị và hạn chế của mối quan hệ giữa con ngƣời với tự
nhiên trong triết học Đạo gia ............................................................................37


CHƢƠNG 2: Ý NGHĨA CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƢỜI VỚI
TỰ NHIÊN TRONG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA ĐỐI VỚI KIẾN TRÚC
PHONG THỦY Ở VIỆT NAM ................................................................................................. 40
2.1. Cơ sở lý luận về kiến trúc phong thủy .....................................................40
2.1.1. Khái niệm “phong thủy” ............................................................ 40
2.1.2. Khái niệm “kiến trúc phong thủy” ............................................ 43
2.1.3. Nguồn gốc thuật phong thủy ..................................................... 44
2.1.4. Sự phát triển của thuật phong thủy với ngành kiến trúc ......... 50
2.2. Ý nghĩa đối với kiến trúc phong thủy trong mối quan hệ giữa con
ngƣời với tự nhiên của triết học Đạo gia ........................................................54
2.2.1. Kiến trúc phong thủy với ngoại cảnh thiên nhiên .................... 54
2.2.2. Kiến trúc phong thủy với các yếu tố nội thất ............................ 62
2.2.3. Kiến trúc phong thủy với vấn đề đất đai ................................... 66
2.3. Những giá trị và hạn chế của mối quan hệ giữa con ngƣời với tự
nhiên trong triết học Đạo gia đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam. 68
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................73


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Một nhà hiền triết thời cổ đại đã nói rằng, đối với con người thì không có
đối tượng nào thú vị hơn là bản thân con người; con người là giá trị cao nhất,
là kẻ sáng tạo duy nhất tất cả mọi thành tựu văn hóa trên trái đất, là trung tâm
có lý tính của vũ trụ, là điểm mà tất cả phải xuất phát từ đó và tất cả phải quay
về đó.
Bất kỳ khoa học cụ thể nào nghiên cứu con người đều dùng phương pháp
chia cắt các vấn đề xung quanh con người, còn triết học thì bao giờ cũng nắm
lấy tính chỉnh thể của con người. Triết học vạch ra vị trí và ý nghĩa của con
người trong thế giới, quan hệ của con người với thế giới, khả năng của con
người làm ra bản thân mình, tức là trở thành kẻ sáng tạo ra số phận của mình.
Vì thế, nhà triết học Xocrat từng nói: “Hãy nhận thức bản thân mình”.
Có thể thấy, vấn đề con người là vấn đề gốc rễ, cốt lõi của tất cả các vấn
đề triết học khác. Triết học Mác lại khẳng định rằng: con người là sản phẩm
của giới tự nhiên và là một bộ phận của tự nhiên. Mặt khác, với tư cách là một
thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến
giới tự nhiên, thúc đẩy sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội. Giữa con
người và tự nhiên có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Vì
vậy, triết học đã khái quát và trình bày mối quan hệ biện chứng giữa con
người với tự nhiên trong suốt chiều dài của lịch sử triết học.
Theo dòng lịch sử của nhân loại, đã có rất nhiều tư tưởng triết học của
các nhà triết gia về vấn đề con người và tự nhiên, về vị trí và vai trò của con
người trong thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Nếu ví triết học là một dòng
chảy của nền văn minh nhân loại thì những tư tưởng triết học của các triết gia
thời cổ đại có vai trò là tiền đề, nền móng cho các học thuyết triết học thời kỳ
sau nghiên cứu và phát triển tư tưởng của mình.

1


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý

nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

Một trong những nền tư tưởng đóng góp vào dòng chảy của nền triết học
đó là triết học Trung Quốc cổ đại. Triết học Trung Quốc cổ đại là những kho
tàng tư tưởng phản ánh lịch sử phát triển của những quan điểm của nhân dân
Trung Quốc về tự nhiên, xã hội và quan hệ của con người với thế giới xung
quanh. Trong đó, triết học Trung Quốc cổ đại đề cập sâu sắc về vấn đề con
người và đặc biệt mối quan hệ giữa con người với tự nhiên theo quy luật
“Thiên nhân hợp nhất”. Tư tưởng triết học về mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên trong Đạo gia ở khía cạnh triết học được thể hiện sâu sắc nhất so với
các học thuyết của các nhà triết học thời đó.
Đạo gia là một trong ba trào lưu triết học lớn trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc thời Xuân thu – Chiến quốc. Sự hình thành và phát triển của Đạo
gia gắn liền với tên tuổi của nhiều nhà tư tưởng và tiêu biểu nhất đó là ba nhà
hiền triết có công sáng lập và hoàn thiện Đạo gia đó là Lão Tử, Dương Chu và
Trang Chu.
Người Trung Quốc xưa rất coi trọng việc chọn đất làm nhà, cất mộ… Họ
cho rằng, gia chủ có gặp điều tốt hay không là do vị trí địa lý và các yếu tố tự
nhiên tác động. Phong thủy ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu tâm lý của nhân dân
và nó cũng là một hiện tượng văn hóa được lưu truyền từ việc ứng dụng các
tư tưởng của các triết gia trong vấn đề mối quan hệ giữa con người với hoàn
cảnh – một sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Phong thủy chứa đựng những
yếu tố hợp lý song không ít người ứng dụng sai dẫn đến mê tín dị đoan. Để
thấy được những giá trị to lớn của thuyết phong thủy, chúng ta cần nghiên cứu
tính triết học trong phong thủy để làm sáng tỏ những yếu tố khoa học. Vì vậy,
những tư tưởng của triết học Đạo gia mang lại ý nghĩa sâu sắc đối với lĩnh vực
phong thủy về sự kết hợp giữa con người với tự nhiên một cách hài hòa.
Triết học Đạo gia, học thuyết Âm Dương – Ngũ Hành và Kinh dịch là một
trong ba tiền đề cho sự ra đời của thuật phong thủy. Việc ứng dụng những kiến
thức về phong thủy và kiến thức triết học vào việc thiết kế và xây dựng nơi ở,


2


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

nơi làm việc đã mang lại cuộc sống thoải mái, hòa hợp với tự nhiên cho con
người. Kiến trúc phong thủy dựa trên tiền đề triết học Đạo gia đã phán ánh nhu
cầu, nguyện vọng của con người hướng tới cuộc sống hài hòa và gắn kết với tự
nhiên. Hiện nay, kiến trúc phong thủy đã được ứng dụng rộng rãi trong đời
sống và trở thành một môn khoa học được nhiều người biết đến. Ở Việt Nam,
phong thủy đã được ứng dụng vào rất nhiều lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là
lĩnh vực kiến trúc. Nghiên cứu vấn đề kiến trúc phong thủy trong mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên của triết học Đạo gia dưới ánh sáng của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, với tinh thần “gạn đục
khơi trong” sẽ lý giải vấn đề này theo cơ sở khoa học.
Chính từ ý nghĩa đó, tôi lựa chọn đề tài “Tƣ tƣởng triết học về mối quan
hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý nghĩa của nó đối với kiến
trúc phong thủy ở Việt Nam” làm khóa luận tốt nghiệp đại học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong việc nghiên cứu lịch sử triết học có một số công trình nghiên cứu
đã đề cập tới vấn đề con người thời cổ đại. Tuy nhiên, những công trình này
mới mang tính khái quát và sơ lược về vấn đề con người nhưng chưa sâu sắc,
hệ thống và toàn diện về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Một số công trình tiêu biểu như cuốn sách “Lịch sử triết học đại cương”
(2010) của tác giả Đỗ Minh Hợp. Đây là một tập hợp gồm 8 chương, trong đó
chương 1 đề cập tới lịch sử triết học cổ đại của Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp –
La Mã. Trong quá trình nghiên cứu về lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại,
công trình này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các tư tưởng của các triết gia

trong đó có Đạo gia, giải thích và trình bày quan điểm về lịch sử triết học.
Mặc dù công trình đã đôi nét đề cập đến vấn đề con người nhưng chưa đề cập
đến mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong triết học Đạo gia một cách
hệ thống và sâu sắc.
Cuốn sách “Kinh dịch”(2007) của tác giả Nguyễn Hiến Lê cũng có đề

3


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

cập một phần về vấn đề con người và tự nhiên nhưng chỉ dừng lại ở triết lý
trong Kinh dịch là vũ trụ quan, nhất là nhân sinh quan của con người.
Cuốn sách “Lịch sử triết học Trung Quốc” của PGS. Hà Thúc Minh đã
trình bày trong phần một - triết học Trung Quốc thời kỳ Xuân thu – Chiến
quốc đề cập đến các tư tưởng của trường phái Đạo gia. Cuốn sách “Đại cương
lịch sử triết học phương Đông cổ đại” của tác giả Doãn Chính cũng đã trình
bày các tư tưởng của triết học Đạo gia. Tuy nhiên, hai cuốn sách này chưa đề
cập đến mối quan hệ giữa con người với tự nhiên một cách rõ nét.
Cuốn sách “Lược sử triết học Trung Quốc” (2013) của tác giả Phùng
Hữu Lan với 28 chương đã trình bày về lịch sử triết học Trung Quốc từ thời
khởi nguyên các học phái cho đến thời hiện đại. Công trình này đã đề cập tới
các tư tưởng của các triết gia, tổng quát các đặc điểm của triết học Đạo gia và
chỉ dừng ở việc khái quát vấn đề mối quan hệ giữa con người với tự nhiên của
triết học thời cổ đại.
Cuốn sách “Địa lý phong thủy toàn thư (2011) của nhà xuất bản Thời đại
với 12 chương đã trình bày lịch sử ra đời của thuật phong thủy và các kiến
thức cơ bản của phong thủy. Trong đó, công trình này chỉ dừng lại ở ứng
dụng thuật phong thủy trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên khái

quát ở yếu tố ngoại cảnh.
Một số cuốn sách như: tác giả Hoàng Thần Thuần viết (2012) cuốn sách
Lão Tử tinh hoa trí tuệ qua danh ngôn và Trang Tử tinh hoa trí tuệ qua danh
ngôn; tác giả Nguyễn Hiến Lê viết cuốn sách tư tưởng của Trang Tử (2009) là
Nam hoa kinh; của NXB Văn hóa – Thông tin đã phần nào trình bày tư tưởng
của các triết gia Đạo gia nhưng chưa đề cập đến vấn đề mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên.
Một số công trình nghiên cứu về lịch sử triết học, về vấn đề con người,
về kiến trúc và phong thủy nhưng chỉ dừng ở mức độ khái quát như: công
trình nghiên cứu“Thiên - Địa - nhân hợp nhất” của Giáo sư Nguyễn Tiến

4


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

Đích; năm 2010 Thiên Việt công bố công trình “Bí ẩn Âm dương Ngũ hành
trong thiên can địa chi” do NXB Văn Lang xuất bản; “Nho giáo” của tác giả
Trần Trọng Kim xuất bản năm 2003 bởi NXB Văn học; năm 2010 NXB Văn
hóa Thông tin xuất bản cuốn sách“Đạo đức kinh” của Lão Tử với phần chú
dịch và giới thiệu của Nguyễn Hiến Lê; năm 2011 NBX Trẻ xuất bản cuốn
sách“Đổng Trọng Thư và sự độc tôn Nho học đời Hán” của Võ Thiện Điển
biên soạn; năm 2013 NXB Văn hóa - Thông tin xuất bản cuốn
sách“Almanach Những nền văn minh thế giới” của nhiều tác giả; công trình
“Nguyên lý chọn ngày theo quan niệm thiên can” của Nhật Minh trên
lyso24h.com; công trình“Triết học xã hội” của A.G. XPI - RKIN do NXB
Tuyên huấn năm 1989 với Phan Huy Châu dịch.
Một số bài viết về phong thủy của các kiến trúc sư như: Tổng quan về mối
liên hệ giữa kiến trúc và phong thủy - KTS. Kiến Phong; Những cơ sở lý thuyết

khoa học của thuật phong thủy - KTS. Nguyễn Văn Vịnh; Một số giá trị của
phong thủy đối với quy hoạch xây dựng hiện nay - KTS. Doãn Quốc Khoa;
Phong thủy và kiến trúc xây dựng - KTS. Nguyễn Cảnh Mùi; Bàn luận phong
thủy dưới góc độ kiến trúc và đô thị - PGS. TS. KTS. Doãn Minh Khôi; Thuật
phong thủy với tiến trình lịch sử kiến trúc Việt Nam - KTS. Nguyễn Bá Đang;
Nhìn nhận phong thuỷ trong kiến trúc và quy hoạch xây dựng trên cơ sở nhận
thức xã hội về mối quan hệ logic giữa môi trường và sức khoẻ của con người GS.TS.GVCC. Đặng Đức Phú đã đôi nét nói về lịch sử ngành kiến trúc và tư
tưởng triết học cơ sở của phong thủy. Tuy nhiên, các công trình này chưa đi sâu
vào ý nghĩa của triết học Đạo gia với phong thủy và lĩnh vực kiến trúc.
Mặc dù một số công trình, bài báo của các tác giả đã ít nhiều đề cập đến
tư tưởng triết học về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong Đạo gia
và ý nghĩa trong phong thủy nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu
vần đề này một cách đầy đủ và hệ thống.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích tư tưởng triết học về mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên trong Đạo gia, khóa luận làm rõ những giá trị và hạn chế của mối

5


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

quan hệ đó, đồng thời đưa ra những ý nghĩa đối với lĩnh vực kiến trúc phong
thủy ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận trình bày hệ thống tư tưởng triết học về mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên trong Đạo gia và ý nghĩa đối với lĩnh vực kiến trúc ở Việt
Nam giai đoạn thế kỉ XVII với việc Cao Biền truyền thuật phong thủy vào
Việt Nam đến nay.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu khóa luận này sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc phân
tích đánh giá vấn đề và phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử trong việc
nghiên cứu lịch sử nhằm phân tích bản chất của vấn đề một cách khách quan
theo xu hướng vận động của sự vật, hiện tượng.
- Phương pháp luận mácxít trong nghiên cứu lịch sử nhằm phân tích
bản chất của vấn đề một cách khách quan và xu hướng vận động của nó.
- Phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
- Phương pháp liên ngành như tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê,
phân tích,...
6. Ý nghĩa đề tài
- Khóa luận làm rõ tư tưởng triết học về mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên trong Đạo gia, trình bày ý nghĩa đối với lĩnh vực kiến trúc phong
thủy ở Việt Nam.
- Thông qua những mối quan hệ, những ý nghĩa đó để rút ra một số giá
trị cũng như hạn chế.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, khóa luận gồm 2 chương 6 tiết:
Chương 1: Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong triết học Đạo gia.
Chương 2: Ý nghĩa của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong
triết học Đạo gia đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam.

6


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƢỜI VỚI TỰ NHIÊN
TRONG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm “con người” trong triết học Đạo gia
Vấn đề bản tính con người là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các
nhà triết gia Trung Quốc cổ đại. Ở mỗi điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể và
góc độ tiếp cận khác nhau mà các trường phái triết học, các triết gia lại có
những quan điểm khác nhau về việc lý giải vấn đề con người theo lập trường
khác nhau. Khác với các nhà tư tưởng của Nho gia và Pháp gia khi giải quyết
vấn đề này ở góc độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội thì các
nhà tư tưởng của Đạo gia lại tiếp cận giải quyết vấn đề về bản tính tự nhiên
của con người.
Trong triết học Đạo gia, khái niệm “con người” chưa được định nghĩa
một cách rõ ràng mà nó được biểu hiện thông qua mối quan hệ với phạm trù
“Đạo”, “Đức”, “vô vi” và “vị ngã”.
Có lẽ ở thời Xuân thu – Chiến quốc, Tử Sản là người đầu tiên đề cập đến
“Đạo”. Chúng ta thường gặp chữ “Đạo” trong danh pháp của Nho gia khi thể
hiện lý tưởng đạo đức. Có thể thấy, phạm trù “Đạo” không chỉ được dùng
trong trường phái Đạo gia mà nó còn được dùng cho nhiều trào lưu tư tưởng
của triết học Trung Quốc cổ đại.
Phạm trù “Đạo” trong triết học Đạo gia có nhiều nghĩa khác nhau thể
hiện tư tưởng của các triết gia. Theo nghĩa đen, “Đạo” là con đường, lối đi
hoặc có nghĩa là dẫn dắt, giao tiếp bằng ngôn ngữ với người khác,… Trong
Kinh Dịch, “Đạo” chỉ một nguyên lý tối cao bao gồm và chi phối sự luân
phiên của Âm và Dương. Từ đó, “Đạo” trở thành một nguyên lý chỉ trật tự
của tự nhiên hay đạo đức, chính trị.

7



Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

Phạm trù “Đạo” thời xưa đều mang hàm ý nhân đạo (đạo làm người) và
cho đến Lão Tử thì “Đạo” mang một ý nghĩa riêng – Đạo không chỉ có nghĩa
là con đường mà còn bao gồm nội dung như bản thể luận, quy luật hay chuẩn
mực. Tư tưởng về “Đạo” chiếm vai trò cực kì quan trọng trong triết học của
Lão Tử. Nó là nền tảng của mọi vận động khác và chi phối xuyên suốt toàn bộ
học thuyết của ông. Xét về phương diện bản thể luận, “Đạo” được Lão Tử
diễn đạt theo hai nội dung là: thể (bản chất) và dụng (công dụng, chức năng).
Về mặt thể của “Đạo”: Bản chất của “Đạo” theo Lão Tử thể hiện ở hai
tính chất tự nhiên, thuần phác và trống không. Về mặt dụng của “Đạo” thể
hiện ở cái không tên là cái thể của Đạo, nó chỉ trạng thái ban đầu, nguyên
thủy của Đạo khi chưa vận động, chưa biểu lộ tính chất; còn cái có tên, chính
là dụng của Đạo – là trạng thái vận động, biến đổi với năng lực sản sinh và
huyền đồng vạn vật.
Lão Tử cho rằng trời đất và vạn vật đều sinh ra từ một nguyên lý chung
đó được gọi là “Đạo”. Đạo là nguyên lý chung sinh ra vạn vật, tác dụng của
Đạo cũng là tác dụng của vạn vật, nhưng vạn vật thành là do Đạo. “Đạo” vô
hình, vô thanh, nhìn không thấy, không nghe được và không nắm bắt được.
Lão Tử viết:
“Đạo thường vô vi nhi vô bất vi.”
(Đạo thường không làm gì, nhưng qua nó cái gì cũng được làm.)
[27; chương 37]
Đối với Lão Tử, “Đạo” là một thực thể nguyên thủy và vĩnh viễn
(trường), là hư, là vô. Nó có trước mọi vật hữu hình và người ta không thể
nắm được nó bằng giác quan, nó là cái không tri giác được (vô). Từ cái vô
này nảy sinh thế giới hữu hình (hữu) và cuối cùng nảy sinh các sự vật riêng
biệt. Các phạm trù “vô” và “hữu” là cốt lõi trong tư duy của ông. Hữu và Vô

là hai phương diện của Đạo.

8


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

Lão Tử viết:
“Thiên địa vạn vật sinh ư Hữu, Hữu sinh ư Vô.”
(Muôn vật trong thiên hạ đều sinh ra từ cái Hữu, cái Hữu sinh ra từ cái
vô.) [27; chương 40]
“Đạo” theo Lão Tử là cội nguồn của muôn loài, là chủ của trời đất và là
cơ sở đầu tiên của vạn vật. “Đạo” là hư, là vô và là cái ban đầu của vạn vật, là
bản nguyên của vũ trụ, “huyền diệu mà bất kì một ngôn từ nào cũng không
thể diễn tả được” [24; tr.15]. Lão Tử viết:
“Đạo sinh Nhất, Nhất sinh Nhị, Nhị sinh Tam, Tam sinh vạn vật. Vạn vật
phụ Âm nhi bão Dương, xung khí dĩ vi hòa.”
(Đạo sinh Một, Một sinh Hai, Hai sinh Ba, Ba sinh vạn vật. Vạn vật đều
cõng Âm, ôm Dương, và là sự dung hòa của hai khí Âm Dương.) [27;
chương 42]
Đạo luôn vận hành theo quy luật, quy luật đó không phải cái gì khác mà
chính là lẽ tự nhiên. Lão Tử cho rằng toàn bộ vũ trụ bị chi phối bởi hai quy
luật cơ bản nhất đó là luật quân bình (bắt nguồn từ tư tưởng của dịch học ở
quẻ Thái của dịch ở thế cân bằng trung dung) và luật phản phục (khuynh
hướng tất yếu trong quá trình vận động, biến đổi của vạn vật là trở về trong
“Đạo” và trở về với tĩnh lặng, hư không). “Đạo” mang ý nghĩa là quy luật
chung của mọi sự biến hóa của vạn vật, vừa có trước sự vật lại vừa nằm trong
sự vật. Con người được sinh ra, tồn tại và không tách rời “Đạo”. Vì vậy, con
người mang tính thuần phác, tự nhiên, vô vi của “Đạo” và không nên hữu vi,

không nên làm gì trái với bản tính tự nhiên của mình cũng như của vạn vật.
Quy luật biến hóa tự thân của sự vật được Lão Tử gọi là “Đức”. “Đức” là
sự thể hiện của “Đạo” trong hiện thực. “Đức” là nguyên lý sinh ra một vật,
tức là cái lý được Hàn Phi Tử nhắc tới. “Đức” là “Đạo” cư ngụ trong vạn vật;
nói cách khác, đức là cái mà vật nhận được từ “Đạo” để vật là chính nó. Theo
Lão Tử, “Đạo” sinh “Đức” dưỡng.

9


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

Lão Tử viết:
“Đạo khả đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh.”
(Đạo có thể gọi được thì nó không phải là Đạo vĩnh hằng; tên có thể gọi
được thì không thể là tên vĩnh hằng.)
Hay:
(Đạo vĩnh hằng không làm mà làm tất cả.) [27; chương 1]
Từ đó, Lão Tử đưa ra quan niệm về “vô vi”. “Vô vi” theo nghĩa thông
thường là không làm gì. Trong triết học Lão Tử, “vô vi” nghĩa là con người
không áp đặt, không can thiệp, sống và hoạt động theo lẽ tự nhiên. “Vô vi” là
con người không hành động có tính chất giả tạo, gò ép, trái với bản tính tự
nhiên của mình, không can thiệp vào “guồng máy tự nhiên của vạn vật” và
nhờ có vô vi mà được tất cả [35; tr.129].
“Vô vi” cũng có nghĩa là bảo vệ, giữ gìn bản tính tự nhiên của mình và
của vạn vật. Lão Tử viết:
“Ngã hữu tam bảo, trì nhi bảo chi; nhất viết từ, nhị viết kiệm, tam viết
bất cẩn vi thiên hạ tiên.”
(Ta có ba bảo vật thường giữ cẩn thận. Một là lòng từ ái, hai là tính cần

kiệm, ba là không dám hiếu thắng ở trước mặt người khác.) [27; chương 67]
Như vậy, theo Lão Tử “Đạo” là bản nguyên, là khởi thủy của mọi thứ
trên đời. Mặc dù quan niệm của Lão Tử còn huyền bí nhưng đã giải thích
nguồn gốc của vũ trụ và lần đầu tiên xác lập vũ trụ quan của người Trung
Quốc. Lão Tử khẳng định vũ trụ có từ sự biến hóa vô cùng, vô tận của “Đạo”
và con người phải sống trong “Đạo”.
Trang Tử trong quan niệm về “Đạo” có những điểm khác biệt với Lão
Tử. Ông được coi là nhà tư tưởng lớn trong trường phái Đạo gia với quan
điểm “tề vật luận” (mọi sự không có sự phân biệt) đã mang lại những tư
tưởng sâu sắc về vấn đề con người.

10


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

Trang Tử cho rằng, con người sinh ra từ đạo tự nhiên, vô danh; mỗi vật,
mỗi người đều có một bản tính, khả năng, sở thích tự nhiên của mình và thuận
theo bản tính tự nhiên ấy mỗi vật, mỗi người đều có chỗ cho là phải, là trái, là
lớn, là nhỏ, là tốt,… không người nào giống người nào. Nhận thức của con
người cũng là tương đối và trí thức chỉ là sản phẩm chủ quan của con người
tạo ra áp đặt cho sự vật mà thôi.
Trang Tử đề ra học thuyết vứt bỏ phán đoán về mặt lý luận và thủ tiêu
đấu tranh về mặt thực tiễn khi cho rằng: “đây” cũng là “kia”, “kia” cũng là
“đây”. “Kia” có phải trái của nó. “Đây” cũng có phải trái của nó… Phải cũng
là một lẽ vô cùng, trái cũng là một lẽ vô cùng... [28; Tề vật luận]. Từ đó,
Trang Tử dạy người ta đối với những điều phải trái tự nhiên phát triển, không
cần phân biệt chân lý, sai lầm.
Theo Trang Tử con người và vạn vật sinh ra từ “Đạo” đều có bản tính và

khả năng tự nhiên của mình. Ông đưa ra học thuyết cơ bản “Trời đất cùng ta
đồng sinh, vạn vật cùng ta là Một.” [28; Tề vật luận].
Một mặt, Trang Tử đã có quan điểm không đồng nhất với Lão Tử về
“Đạo”, ông công kích những quan điểm duy vật và những quan điểm về nhận
thức tiến bộ của thời đó khiến ông rơi vào chủ nghĩa tương đối. Trang Tử xem
“Đạo” là một thứ thực thể thần bí siêu lý tính không thể tưởng tượng được.
“Đạo” là cái “hư không”, hỗn độn và xem cái “không” là nguồn gốc của thế
giới, biểu dương lý luận “trong cái không sinh cái có”, “cái có không thể lấy
cái có làm cơ sở” [28; Cang Tang Sở]. Tất cả vật chất tồn tại đều sinh ra từ
chỗ hư vô, hay từ cái không tồn tại. Mặt khác, Trang Tử chịu ảnh hưởng của
quan điểm duy vật của Lão Tử khi khẳng định đạo Trời là tự nhiên vốn có,
không ai sinh ra nó mà nó tự bản, tự căn, vô cùng vô hạn, là bản thể đầu tiên
của vũ trụ, có trước cả Trời đất, quỷ thần. Ông cho rằng “con người sinh ra là
do khí tụ lại, tụ thì sống, tan thì chết”. [28; Tri Bắc du]

11


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

Cùng với quan điểm về “Đạo”, Trang Tử đưa ra quan điểm về “Đức”.
“Đức” theo ông là “Đạo” thể hiện ở mỗi vật, là bản tính tự nhiên của mỗi vật,
mỗi người sinh ra từ “Đạo” tự nhiên, vô danh, vô thể.
Dương Chu lại chủ trương “vị ngã” khi đề cập đến vấn đề con người.
Ông cho rằng cái danh chỉ là ngụy tạo, chỉ có thân ta là thực, vật nuôi sống ta
là thực, bởi vậy không nên mang hư danh mà nên coi trọng, bảo toàn thân ta
và cuộc sống thực. Con người phải biết tận hưởng hết mọi thú vui trong cuộc
đời ngắn ngủi và phải biết “toàn sinh”, “quý kỉ”, “vị ngã”.
Như vậy, khái niệm “con người” đã được các nhà triết học Đạo gia đề

cập thông qua phạm trù “Đạo”. Trong triết học Đạo gia, phạm trù “Đạo” có
hai nghĩa được rút ra từ sự quan sát sự vận chuyển của vạn vật trong thế giới.
“Đạo” là bản nguyên của vũ trụ, có trước trời đất, không biết đặt tên nó là gì,
tạm gọi là “Đạo”. Nó là cơ sở vật chất đầu tiên của thế giới, dùng “Đạo” để
giải trích tính vật chất là tính thống nhất của thế giới. Những quan điểm đó
tuy còn hạn chế do điều kiện hoàn cảnh lịch sử và góc nhìn của mỗi triết gia,
nhưng đã mang những tư tưởng duy vậy và biện chứng rõ nét. Quan điểm về
con người của triết học Đạo gia đã đóng góp những tư tưởng sâu sắc vào dòng
chảy của triết học Trung Quốc nói riêng và trên thế giới nói chung.
1.1.2. Khái niệm “tự nhiên” trong triết học Đạo gia
Triết học Đạo gia đóng góp vào nền triết học Trung Quốc cổ đại không
chỉ ở những vấn đề về con người mà còn đề cập đến vấn đề về “tự nhiên” và
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Cũng giống như khái niệm “con
người” trong triết học Đạo gia, khái niệm “tự nhiên” được đề cập thông qua
các phạm trù “Đạo”, “Vô vi”, “Thiên lý” và “Thiên – Địa – Nhân hợp nhất”.
Thứ nhất, phạm trù “Đạo” là sự khái quát cao nhất của triết học Lão –
Trang và là nền tảng chi phối toàn bộ học thuyết của Đạo gia.
Trong bản thể luận của Lão Tử, về mặt thể của “Đạo”, ông cho rằng tính
tự nhiên của Đạo được hiểu như là tính khách quan, vốn có và không phụ

12


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

thuộc vào ý chí con người (không hiểu như khái nhiện tồn tại khách quan trong
triết học phương Tây bởi vì “Đạo” chứa đựng và hòa đồng cả cái tồn tại và cái
không tồn tại, cả cái tĩnh lặng và biến đổi, cả cái tương đối và tuyệt đối). Nó
vốn tự nhiên, lạnh lùng trước con người. Nó là tự nhiên nhưng không phải tồn

tại có định tính, hình thái mà là một trạng thái vĩnh cửu, chưa đựng tất cả. Vì
vậy, Lão Tử đã đứng trên lập trường quan điểm duy vật khi bàn về Đạo. Ông
xuất phát từ bản thân tự nhiên để giải thích vấn đề thế giới quan của mình.
Lão Tử viết:
“Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề, liêu hề, độc lập nhi bất
cải. Chu hành nhi bất đãi. Khả dĩ vi thiên hạ mẫu. Ngô bất tri kỳ danh; tự chi
bất Đạo, cưỡng vi chi danh viết Đại.”
(Có vật gì trong sự hỗn độn, có trước cả Trời đất, vừa trống không vừa
lặng yên, đứng một mình không đổi, lưu hành khắp trốn không mỏi, có thể là
mẹ thiên hạ, ta không biết nó tên gì, nên mới đặt tên cho nó là Đạo, gượng gọi
là Lớn.) [27; chương 25]
“Đạo” gồm hai phương diện “hữu” và “vô”. “Vô” là thể của “Đạo”,
“hữu” là dụng của “Đạo”. “Vô” là nguyên lý vô hình, là gốc của trời đất.
“Hữu” là nguyên lý hữu hình là mẹ của vạn vật. “Đạo” là thể thống nhất giữa
“hữu” và “vô”, “thể” và “dụng”, là động lực biến hóa của vạn vật mà không
cần hoạt động. Vì vậy, Lão Tử viết: “Mọi người trong thiên hạ sinh ra từ hữu,
hữu sinh ra từ vô” [27; chương 40] và vạn vật sản sinh ra theo trình tự “Đạo
sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật” [27; chương 42].
“Đạo” còn là quy luật biến hóa tự thân của sự vật, quy luật ấy gọi là
“Đức”. Mỗi vật đều có đức mà đức của bất kỳ sự vật nào cũng từ “Đạo” mà
ra, là một phần của “Đạo”, đức nuôi lớn mỗi vật tùy theo đạo.
Từ đó, Lão Tử đưa ra học thuyết “đạo pháp tự nhiên” để giải thích
bản chất của “Đạo”. “Đạo” sinh ra vạn vật, không có ý chí dục vọng,
không có mục đích. “Đạo” không làm chúa tể chi phối vạn vật mà thuận

13


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam


theo sự phát triển tự nhiên của vạn vật. Lão Tử cố gắng tìm ra quy luật
khách quan của sự vật phát triển và biến hóa, khuyên con người hành
động theo quy luật tự nhiên.
Đối với Trang Tử, ông cho rằng “Đạo” là vô hạn, ở khắp mọi nơi và nó
có trước tự nhiên. Vì vậy, vạn vật sinh ra từ “Đạo” đều có bản tính, khả năng
tự nhiên của mình. Mặt khác, ông cho rằng “Đức” là “Đạo” thể hiện ở mỗi
vật, là bản tính tự nhiên của mỗi vật, mỗi người sinh ra từ “Đạo” tự nhiên, vô
danh, vô thể.
Trang Tử viết:
“Thái sơ hữu Vô, Vô hữu danh. Nhất chi sở khởi, nhất hữu nhi vị hình.
Vật đắc dĩ sinh vị chi đức.”
(Thái sơ có Vô, cái Vô này không có tên. Vô sinh ra Nhất. Có Nhất nhưng
chưa có hình. Vạn vật có được nó (tức Đạo) để sinh trưởng, thì gọi là Đức.)
[28; Thiên Địa]
Dương Chu lại cho rằng sinh ra từ “Đạo” tự nhiên, thuận theo bản tính tự
nhiên, con người ta phải biết bảo tồn sự sống của mình. Dương Chu gọi đó là
“Thiên tính tồn ngã” của con người. Dương Chu nói: “Con người bản chất
giống Trời đất, có đức tính của ngũ hành, là loại tối linh trong vạn vật. Thân
ta không phải là của ta, nhưng đã có chúng rồi thì không thể diệt chúng
được.” [13; Chương VII, tr. 15]
Từ quan niệm cốt lõi của “Đạo” (Đạo pháp tự nhiên), Lão Tử cho rằng
xã hội con người không những không thể tách khỏi tự nhiên mà ngược lại
không được làm những gì ngược lại với tự nhiên. Mọi cái nhân tạo đều sai
lầm, mọi cái tự nhiên đều vĩ đại.
Thứ hai, quan niệm về “vô vi” của triết học Đạo gia.
“Vô vi” là một khái niệm triết học đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại. Đó là phương pháp sống tự nhiên, mộc mạc, thuần phác, không bị cưỡng
chế, gò ép. “Vô vi” theo Lão Tử cũng xuất phát từ ý nghĩa này nhưng thực


14


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

chất của nó là nghệ thuật sống của con người trong sự hòa nhập với tự nhiên
và thuận theo bản tính tự nhiên của con người.
Trong triết học Lão Tử, vô vi có ba ý nghĩa: vạn vật đều có bản tính tự
nhiên của mình, chúng tồn tại, vận động, biến hóa theo lẽ tự nhiên, sống với
cái vốn có của tự nhiên; vô vi là tự do tuyệt đối, không bị ràng buộc bởi bất
cứ thứ gì và vô vi là luôn bảo vệ, giữ kín bản tính tự nhiên của mình, biết
ngăn chặn, bài trừ những gì vốn làm tổn hại đến bản tính tự nhiên của vạn vật
mà trước hết là chống lại mọi hành động của con người xã hội.
“Vô vi” và “Hữu vi” theo Lão Tử thể hiện bản tính nhân loại. “Vô
vi” là khuynh hướng trở về với gốc để sống với tự nhiên, có nghĩa là hợp
thể với “Đạo” theo hai quy luật là luật quân bình và luật phản phục. “Vô
vi” còn có nghĩa không làm trái tự nhiên, vượt quá bản tính, nhu cầu tự
nhiên của con người.
Lão Tử viết:
“Trì nhi doanh chi, bất như kì dĩ. Sủy nhi huệ nhi, bất khả trường bảo.”
[27; chương 9]
(Bất cứ một ai đều phải biết đủ, biết dừng đúng lúc và cho là vật gì đi
nữa dù mài cho sắc bén lắm cũng không thể mài bén mãi được. Của cải đầy
nhà, há giữ được lâu dài, giàu sang mà kiêu ngạo thì chỉ tự hại mình mà thôi.
Cũng giống như nước đầy trong bất kỳ một đồ vật nào đó, đều không thể
đựng được quá đầy, nếu như nước quá đầy thì nước sẽ trào ra ngoài, cho nên
trước khi đầy, cần phải biết dừng lại đúng lúc, không nên tiếp tục cho thêm
vào. Lại lấy ví dụ như mài thành một con dao có thể sử dụng được, nếu như
mãi mãi thì nó sẽ bị gầy không thể sử dụng được.) [24; tr.25]

Hay:
“Thủ thiên hạ thường dĩ vô sự.”
(Muốn được thiên hạ phải luôn dùng vô vi.) [27; chương 48]

15


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

Vô vi khác hữu vi. Hữu vi là phát huy tính năng động chủ quan, cố sức
thi thố đạo đức nhân nghĩa, ban hành pháp lệnh chính sách, bày vẽ lễ nghi
giáo huấn… Tất cả những thứ đó theo Lão Tử, càng làm càng khiến cho xã
hội ngày càng xấu đi mà thôi.
Thứ ba, tự nhiên hợp nhất với Trời và người thể hiện trong tư tưởng
“Thiên – Địa – Nhân hợp nhất”.
Thiên – Địa – Nhân hợp nhất trong triết học Đạo gia có hai nghĩa, đó là:
Trời – Đất – Người giống nhau và Trời – Đất – Người có quan hệ mật thiết
với nhau.
Triết học Đạo gia đã có những quan niệm về vấn đề tự nhiên sâu sắc và
khẳng định vũ trụ quan của mình với những yếu tố biện chứng. Chính những
quan niệm đó đã khẳng định năng lực quan sát và trình độ tư duy sâu sắc của
các nhà triết học đối với sự vật khách quan, tuy còn những hạn chế do điều
kiện hoàn cảnh lịch sử hay thế giới quan của các nhà triết học thời Xuân thu –
Chiến quốc.
1.2. Nội dung mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong triết
học Đạo gia
1.2.1. Cơ sở hình thành mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong triết học Đạo gia
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, sự phát sinh, phát triển của

những tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại gắn liền với sự thay đổi, phát
triển của nền sản xuất, khoa học và tính chất sinh hoạt xã hội Trung Quốc cổ
đại. Vì vậy, tính chất, đặc trưng của nền triết học đó tất yếu phản ánh và bị chi
phối bởi những điều kiện lịch sử của xã hội ấy.
Đạo gia là một trong ba trào lưu triết học lớn trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc thời Xuân thu – Chiến quốc. Người sáng lập là Lão Tử là người
nước Sở. Lão Tử tiếp nhận tư tưởng của Âm Dương Ngũ Hành và phép biện
chứng của Dịch học để sáng lập nên Đạo gia thể hiện trong cuốn Đạo Đức

16


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

Kinh. Dương Chu và Trang Tử là người đã phát triển học thuyết Lão Tử
(Trang Tử đã đứng trên lập trường duy tâm và những tư tưởng của ông được
thể hiện trong cuốn Nam Hoa Kinh).
Thời Xuân thu – Chiến quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ của triết học
Trung Quốc cổ đại. Đây là giai đoạn suy tàn của chế độ nô lệ và chế độ sơ kỳ
phong kiến đang lên. Thời kỳ Xuân thu bắt đầu khi Chu Bình Vương dời đô
về phía Đông vào khoảng từ năm 770 trước C.N đến năm 475 trước C.N.
Thời Chiến quốc bắt đầu từ năm 475 trước C.N và kết thúc vào năm 221
trước C.N và gắn với sự kiện nhà Tần thống nhất đất nước.
Cơ sở hình thành mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong triết
học Đạo gia được hình thành từ điều kiện địa lý, điều kiện kinh tế - chính trị
và văn hóa của Trung Quốc cổ đại.
Thứ nhất, cơ sở hình thành mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
trong triết học Đạo gia được hình thành từ điều kiện địa lý của Trung Quốc.
Trung Quốc là một đất nước lục địa có Trường Giang và Hoàng Hà là

hai con sông lớn dài thứ ba và thứ sáu trên thế giới. Hai con sông này được
bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng và chảy hướng về vùng bờ biển của Trung
Quốc. Có thể nói, thiên nhiên đã dành cho Trung Quốc những ưu ái về mặt
địa hình cũng như khí hậu thuận lợi cho việc phát triển nghề nông nghiệp định
canh định cư.
Cảnh quan Trung Quốc biến đổi trên lãnh thổ rộng lớn. Ở phía Đông,
dọc theo bờ biển Hoàng Hải và phía Hoa Đông là các đồng bằng phù sa rộng,
cư dân đông đúc; phía rìa cao nguyên Nội Mông là các thảo nguyên rộng lớn.
Đồi và các dãy núi thấp chi phối địa hình tại Hoa Nam, trong khi miền Trung
– Đông có những châu thổ gắn với hai con sông lớn. Khí hậu Trung Quốc
được chia thành hai mùa rõ rệt mùa đông và mùa hạ.
Trung Quốc là một đất nước có điều kiện địa lý thuận lợi cho việc phát
triển nghề nông nghiệp và định canh định cư. Điều kiện sống ở Trung Quốc

17


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

đã làm cho con người hòa đồng với thiên nhiên, gắn bó với tự nhiên và con
người từ khi sinh ra đã gắn kết không tách rời khỏi tự nhiên.
Vì vậy, điều kiện địa lý của Trung Quốc đã quyết định đến thế giới quan
và phương pháp luận của các triết gia Trung Quốc, đặc biệt là các triết gia của
Đạo gia luôn gắn vấn đề con người với tự nhiên.
Thứ hai, cơ sở hình thành mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong
triết học Đạo gia được hình thành từ điều kiện kinh tế - chính trị - văn hóa
của Trung Quốc.
Về kinh tế, suốt chiều dài của lịch sử Trung Quốc, tư tưởng và chính sách
về kinh tế vẫn luôn chú trọng vào nông nghiệp với điều kiện của một nước lục

địa. Cho nên, đến cả thời Chiến quốc (480 – 222 TCN) đất nước Trung Quốc
bị chia cắt thành nhiều nước phong kiến vẫn lấy “canh chiến chi thuận” (thuật
chinh chiến và canh tác) làm nền tảng.
Thời Xuân thu, việc sử dụng công cụ sản xuất bằng sắt và dùng bò kéo
cày đã khá phổ biến, tạo điều kiện cho việc khai khẩn đất hoang, phát triển kỹ
thuật canh tác và kỹ thuật “dẫn thủy nhập điền” dẫn đến năng suất lao động
trong nông nghiệp tăng cao. Thủ công nghiệp đã có những bước phát triển
mới, đặc biệt là trong sự phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất dẫn
tới các ngành nghề mới được ra đời. Không chỉ có nông nghiệp và thủ công
nghiệp mà thương nghiệp cũng phát triển hơn. Chế độ sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất được hình thành từ sự phát triển của sức sản xuất xã hội và bọn
quý tộc chiếm đoạt ruộng đất ngày càng tăng cao.
Thời Chiến quốc, kinh tế đã có những bước phát triển mới. Đồ bằng sắt
được phổ biến rộng rãi do sự phát triển của nghề luyện sắt trở lên hưng thịnh
và bên cạnh những đường giao thông quan trọng được sử dụng để lập nên các
trấn đô mới. Vì vậy, nông nghiệp ngày càng phát triển do thủy lợi và kỹ thuật
canh tác nhờ các công cụ mới như cày, cuốc, rìu, dao... ra đời. Các ngành
nghề thủ công ngày càng phát triển và sự thịnh hành của tiền tệ bằng kim loại.

18


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

Quan hệ sản xuất phong kiến nông nô xuất hiện và dần dần chiếm ưu thế
trong đời sống xã hội.
Có thể thấy, trong tư duy về kinh tế của các triết gia Trung Quốc có sự
phân biệt rõ giữa gốc và ngọn. Trong đó, gốc là nông nghiệp và ngọn là
thương nghiệp vì nông nghiệp liên quan đến sản xuất còn thương nghiệp liên

quan đến trao đổi sản phẩm. Muốn trao đổi sản phẩm thì trước tiên phải sản
xuất ra nó. Trong một nước nông nghiệp thì hình thức chủ yếu là sản xuất. Do
đó, suốt lịch sử Trung Quốc, các lý thuyết và chính sách về kinh tế đều “trọng
gốc khinh ngọn”. [11; tr. 33]
Những điều kiện về kinh tế trên dẫn đến nghề học, nghề cày ruộng là hai
nghề đáng tôn trọng ở Trung Quốc và đời sống của người dân gắn chặt với
nông nghiệp. Do đó, vũ trụ quan và nhân sinh quan của các triết gia Trung
Quốc luôn gắn liền với tự nhiên cũng như có sự diễn đạt ngôn ngữ riêng. Điều
đó được thể hiện rõ nét trong triết học của Đạo gia.
Về chính trị và văn hóa, Trung Quốc thời kỳ Xuân thu – Chiến Quốc có
nhiều biến động về chính trị cũng như văn hóa.
Thời Xuân thu, mệnh lệnh của nhà Chu không còn được tuân thủ dẫn
đến trật tự về lễ nghĩa và cương thường xã hội đảo lộn, đạo đức suy đồi, tranh
quyền đoạt vị, chiến tranh xảy ra liên miên. Ước tính thời Xuân thu có khoảng
295 năm thì đã xảy ra 483 cuộc chiến tranh. Vì vậy, đời sống nhân dân vô
cùng cực khổ, như thời kỳ nước Tần thì “thây người chết đầy đường”.
Thời Chiến quốc, chiến tranh giữa các nước liên tục xảy ra khiến cho đời
sống nhân dân ngày càng cực khổ và trật tự xã hội đảo lộn khiến lòng dân ly tán.
Chính trong những sự biến động của chính trị và xã hội Trung Quốc thời
Xuân thu – Chiến quốc ấy đã đặt ra một loạt những vấn đề xã hội và triết học
mới. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho các nhà tư tưởng phải quan tâm, giải quyết
ngày càng nhiều và dẫn đến sự đa dạng của các trường phái triết học với sự
đấu tranh quyết liệt.

19


Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam


Hình thành trên cơ sở hoạt động thực tiễn lâu dài của nhân dân, những tri
thức về triết học một mặt đã góp phần thúc đẩy sản xuất và đời sống xã hội
phát triển; mặt khác, nó còn góp phần phát triển nhận thức, khám phá và cải tạo
hiện thực, làm tiền đề cho thế giới quan triết học duy vật nảy nở và phát triển.
Sự phong phú, đa dạng của triết học Trung Quốc thời kỳ Xuân thu –
Chiến quốc đã phản ánh sự phát triển rất cao trong đời sống văn hóa tinh thần
của xã hội Trung Quốc và đối với văn hóa phương Đông. Điều này đã đánh
dấu một mốc son trong lịch sử. Vì vậy, triết học Đạo gia đã thể hiện mối gắn
kết giữa con người với đời sống nông nghiệp của Trung Quốc một cách sâu
sắc qua những tư tưởng về con người với tự nhiên.
1.2.2. Thiên - Địa - Nhân hợp nhất
“Thiên – Địa – Nhân hợp nhất” là tư tưởng quan trọng trong triết học
Trung Quốc. Tư tưởng này được thể hiện rõ nét trong triết học Đạo gia. Thiên
– Địa – Nhân hợp nhất trong triết học Đạo gia có hai nghĩa, đó là: Trời – Đất
– Người giống nhau và Trời – Đất – Người có quan hệ mật thiết với nhau.
Danh từ “Thiên” thời xưa trong văn tự Trung Quốc có năm nghĩa, đó là:
bầu trời, tương ứng với đất; ông Trời, có tính cách như người; vận mệnh,
những thứ có liên quan đến con người nhưng không thể kiểm soát được; sự
vận hành tự nhiên; nguyên lý tối cao trong vũ trụ.
Sự tin tưởng vào “Trời” đã được Khổng Tử nhìn nhận và được Mặc Tử
đề xướng. Tuy nhiên, Mạnh Tử có lúc sử dụng danh từ “Thiên” với ý nghĩa
duy tâm đạo đức – là nó không ám chỉ một đấng tối cao mang hình dáng con
người đặt ra những quy luật đạo đức. Lão Tử đã thủ tiêu ý duy tâm và đạo đức
của “Thiên” khi viết: “Thiên địa bất nhân” (Trời đất không có lòng nhân) [27;
chương 5]. Mặt khác, Lão Tử đã lấy Đạo và tự nhiên làm khởi nguồn cho
những giá trị tư tưởng triết học của mình về Thiên, Địa, Nhân hay vạn vật là
một chỉnh thế thống nhất.

20



Đề tài: Tƣ tƣởng triết học về mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong Đạo gia và ý
nghĩa của nó đối với kiến trúc phong thủy ở Việt Nam

Lão Tử viết:
“Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp Đạo, Đạo pháp tự nhiên.”
(Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo
thuận theo tự nhiên.) [27; chương 25]
Trang Tử lại cho rằng “Đạo” gắn với “Thiên”, “Thiên” ở đây có nghĩa là
“tự nhiên” và “Trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một”. Cho nên
Trang Tử nói:
“Vô vi vi chi vị thiên”
(Vô vi mà làm gọi là thiên)
Và:
“Thiên tại nội, nhân tại ngoại... Ngưu mã tứ túc, thị vị thiên; lạc mã thủ,
xuyên ngưu tỵ, thị vị nhân.”
(Thiên (sự tự nhiên) thì ở bên trong, nhân (sự nhân tạo) thì ở ngoài...
Trâu hoặc ngựa có bốn chân, đó là tự nhiên; cột dây vào đầu ngựa và xỏ dây
vào mũi trâu, đó là nhân tạo.) [28; Thu Thủy]
Quan niệm “Thiên nhân tương thông” cũng được thể hiện phần nào đó
trong triết học Đạo gia. Khi đề cập đến vấn đề này, các nhà triết học Trung
Quốc cho rằng con người là bẩm thụ được tinh của trời, thì cái đạo của trời là
cái đạo của người. Cái bẩm thụ được cái tính của trời, nên trời và người có
quan hệ mật thiết với nhau, mà người phải lấy phép tắc của trời làm mẫu mực,
phải coi thiên đạo là nhân đạo, nghĩa là phải ăn ở cho hợp với đạo trời. Lão
Tử không hoàn toàn chủ trương “Thiên nhân tương thông” nhưng cũng nghĩ
rằng “người bắt chước đất, đất bắt chước trời”.
Quan niệm “Thiên – Địa – Nhân hợp nhất” của triết học Đạo gia đã cho
thấy sự thống nhất của Trời – Đất – Người và mối quan hệ giữa chúng. Con
người sống trong tự nhiên, là một bộ phận của tự nhiên, hay nói cách khác

con người và tự nhiên là một chỉnh thể.

21


×