Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU THỦY

CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ THEO PHÁP LUẬT
BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU THỦY

CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ THEO PHÁP LUẬT
BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN HỮU CHÍ

Hà Nội, năm 2019



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn đến Ban Giám đốc, các khoa, phòng và Quý
Thầy, Cô trong học viện Khoa học Xã hội đã tận tình và tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập, để hoàn thành luận văn này. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn
sâu sắc đến thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí, người đã trực tiếp hướng dẫn đề
tài cho tôi với lòng nhiệt tình và sự quan tâm sâu sắc.
Mặc dù rất cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng luận văn không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Tác giả mong muốn nhận được sự góp ý của Quý Thầy Cô và
bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có nguồn trích dẫn rõ ràng. Kết quả
nghiên cứu của luận văn không có sự trùng lặp với bất kỳ công trình nào đã công
bố.
Đà Nẵng, tháng 02 năm 2019
Tác giả

Nguyễn Thị Thu Thủy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ TRONG HỆ
THỐNG CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI ...................................................... 7
1.1. Khái niệm chế độ hưu trí ...................................................................................... 7
1.2. Cơ sở hình thành chế độ bảo hiểm hưu trí trong hệ thống các chế độ bảo

hiểm xã hội .................................................................................................................. 9
1.3. Nội dung của chế độ hưu trí ............................................................................... 11
1.4. Chế độ hưu trí trong pháp luật một số nước trên thế giới và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam ............................................................................................... 21
Chương 2. THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ TRONG LUẬT BẢO HIỂM
XÃ HỘI HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG ....................................................................................................................... 27
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về chế độ hưu trí trong pháp luật BHXH
hiện hành ................................................................................................................... 27
2.2. Thực trạng áp dụng chế độ hưu trí tại thành phố Đà Nẵng ................................ 39
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ THEO PHÁP
LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI HIỆN HÀNH Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
HIỆN NAY ............................................................................................................... 62
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi chế độ
hưu trí ........................................................................................................................ 62
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ hưu trí ............................................. 63
3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ hưu trí từ thực tiễn
thành phố Đà Nẵng .................................................................................................... 73
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLLĐ

: Bộ luật Lao động

BHTN


: Bảo hiểm thất nghiệp

BHXH

: Bảo hiểm xã hội

BHYT

: Bảo hiểm y tế

CCVC

: Công chức, viên chức

HĐLĐ

: Hợp đồng lao động

HTTT

: Hưu trí, tử tuất

NLĐ

: Người lao động

NSDLĐ

: Người sử dụng lao động


NSNN

: Ngân sách nhà nước

TTHC

: Thủ tục hành chính

UBND

: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 1.1

Bảng phân bổ tỷ lệ đóng BHXH từ 01/01/2007 đến nay

13

Bảng 1.2

Cơ cấu tuổi nghỉ hưu ở một số nước


21

Bảng 2.1

Điều kiện về tuổi đời hưởng lương hưu khi bị suy giảm khả năng
lao động

30

Bảng 2.2

Số năm đóng BHXH tương ứng với 45% lương hưu đối với lao
động nam

32

Bảng 2.3

Mức hỗ trợ các đối tượng tham gia BHXH tự nguyện

34

Bảng 2.4

Sơ đồ tổ chức của BHXH thành phố Đà Nẵng

42

Bảng 2.5


Thống kê số người hưởng chế độ hưu trí ở thành phố Đà Nẵng
giai đoạn 2013-2017

43

Bảng 2.6

Kết quả hoạt động thu BHXH, thu quỹ HTTT ở BHXH thành
phố Đà Nẵng giai đoạn 2013-2017

46

Bảng 2.7

Kết quả thu BHXH tự nguyện (quỹ HTTT) ở BHXH thành phố
Đà Nẵng giai đoạn 2013-2017

48

Bảng 2.8

Tình hình xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ hưu trí ở BHXH thành
phố Đà Nẵng giai đoạn 2013-2017

49

Bảng 2.9

Tình hình chi trả chế độ hưu trí ở BHXH thành phố Đà Nẵng giai

đoạn 2013-2017

51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là sự tổ chức bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một
phần thu nhập cho người lao động (NLĐ) khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, thông
qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham
gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác, nhằm góp phần đảm bảo an toàn kinh
tế cho NLĐ và gia đình họ; đồng thời góp phần bảo đảm an toàn, an sinh xã hội.
BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của NLĐ và được thừa nhận là một
nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con người như trong
“Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc” đã nêu: “Mọi quốc gia
trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị, xã hội, không phân biệt giàu hay
nghèo đều phải thực hiện các chế độ về BHXH”.
Hưu trí là một trong những chế độ quan trọng nhất của chế độ BHXH, đảm bảo
an sinh xã hội, góp phần quan trọng làm cho xã hội được ổn định. Qua một thời gian
dài tổ chức thực hiện, chế độ hưu trí cùng các chế độ BHXH khác đã đảm bảo đời
sống cho NLĐ, tạo điều kiện cho họ yên tâm lao động sản xuất nâng cao chất lượng
cuộc sống, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Nhà nước ta đang từng bước hoàn thiện chính sách BHXH qua việc ban hành
các Văn bản Luật BHXH, Luật Bảo hiểm y tế (BHYT), các Nghị định, Thông tư,
cùng các văn bản hướng dẫn thực hiện. Và gần đây nhất là Nghị quyết Hội nghị lần
thứ Bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII, số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 về
cải cách chính sách BHXH để phù hợp với sự phát triển của đất nước và xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế như hiện nay.
Tuy nhiên, trong điều kiện mới thì việc tổ chức thực hiện hay ban hành các

chính sách về điều kiện hưởng, thời hạn nghỉ hưu, mức hưởng, thời gian tham gia,
độ tuổi nghỉ hưu… của chế độ hưu trí vẫn còn một số hạn chế và vướng mắc cần
được xem xét, nghiên cứu và giải quyết một cách kỹ lưỡng. Việc hoàn thiện chế độ
hưu trí sẽ giúp NLĐ yên tâm hơn về cuộc sống sau khi nghỉ hưu và làm tăng năng

1


suất lao động; mức sống chung của xã hội được cải thiện, đời sống ngày càng được
nâng cao hơn, giúp xã hội ngày càng phát triển, góp phần thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo đảm ổn định và phát triển chính trị, kinh tế - xã hội.
Năm 2017, đối tượng tham gia bảo hiểm hưu trí của thành phố Đà Nẵng là
229.464 người, so với số lượng lao động trong độ tuổi lao động 567.646 người,
cho thấy diện bao phủ BHXH còn khá thấp, đạt 40,42% lực lượng lao động so với
tiềm năng của thành phố (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2017 của BHXH thành
phố Đà Nẵng).
Yêu cầu về tăng nhanh diện bao phủ tham gia BHXH, bảo đảm thu nhập cho
NLĐ khi hết tuổi lao động là một yêu cầu mang tính thời đại. Sử dụng an toàn và
đảm bảo cân đối quỹ hưu trí trong dài hạn, xây dựng hệ thống BHXH hiện đại,
chuyên nghiệp, hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia BHXH theo
mục tiêu của Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020
là mục tiêu mà ngành BHXH của thành phố Đà Nẵng phấn đấu thực hiện.
Vì vậy tác giả đã chọn đề tài: “Chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH Việt Nam
từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để nghiên cứu, đưa ra những giải pháp tăng cường
tổ chức thực hiện pháp luật về chế độ hưu trí, nhằm duy trì và thực hiện tốt chính
sách an sinh xã hội, góp phần ổn định an ninh chính trị, đảm bảo quyền lợi cho
NLĐ, người thụ hưởng, đồng thời chống lạm dụng quỹ hưu trí.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài

Nghiên cứu về lĩnh vực BHXH là vấn đề không mới. Được thực hiện ở nhiều
cấp độ nghiên cứu khác nhau.
Ở cấp độ nghiên cứu tiến sĩ, tiêu biểu là luận án "Thực thi chính sách an sinh
xã hội (ASXH) ở thành phố Đà Nẵng hiện nay - thực trạng và giải pháp" của nghiên
cứu sinh Lê Anh, Học viện Chính trị Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, năm 2017.
Tác giả đã tập trung nghiên cứu Quá trình thực thi chính sách ASXH của thành phố
Đà Nẵng trên các lĩnh vực bảo trợ xã hội, giảm nghèo, người có công với cách
mạng, nhà ở xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động, BHXH, BHYT... được

2


thể hiện trong các chương trình ASXH có tính “đặc thù” của thành phố Đà Nẵng
như Chương trình thành phố “5 không”, “3 có”, Chương trình “4 an”. Làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận về thực thi chính sách ASXH, phân tích thực trạng và đề xuất một
số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao chất lượng việc thực thi hệ thống chính
sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
Ở cấp độ nghiên cứu thạc sĩ, có luận văn như: "Thực hiện chính sách hưu trí
ở nước ta hiện nay" của tác giả Lý Hoàng Minh, Học viện Khoa học Xã hội, Hà
Nội, năm 2016. Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ sở lý luận về chính
sách hưu trí, vận dụng để nghiên cứu thực hiện chính sách hưu trí ở nước ta. Đánh
giá thực trạng quá trình thực hiện chính sách hưu trí ở nước ta, từ đó đưa ra các giải
pháp tăng cường thực hiện chính sách hưu trí, cách thức tổ chức thực hiện phù hợp
với điều kiện thực tế ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, còn có nhiều bài viết đăng trên tạp chí, kỷ yếu có thể kể tên
một số bài viết tiêu biểu như:
- "Mô hình thực hiện BHXH tự nguyện ở một số nước trên thế giới và những
bài học kinh nghiệm có thể vận dụng ở Việt Nam" của tác giả Đào Thị Hải Nguyệt và
bài viết "Nghiên cứu xây dựng lộ trình thực hiện BHXH đối với mọi người lao động ở
Việt Nam", đăng trên Kỷ yếu nghiên cứu Khoa học Ngành BHXH, quý I/2018;

- "Mức giới hạn trên của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH: Từ góc
nhìn lý luận và thực tiễn" của tác giả TS. Phạm Đình Thành-Viện Khoa học BHXH,
BHXH Việt Nam, đăng trên Tạp chí BHXH, tháng 3/2018.
Nhìn chung, ở các cấp độ nghiên cứu, các đề tài nghiên cứu và bài viết về
BHXH khá nhiều, tuy nhiên chưa có một nghiên cứu nào chuyên sâu về pháp luật
chế độ hưu trí từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng. Chính vì lý do đó, đề tài: “Chế độ
hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”
vẫn còn có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề chung về hưu trí và chế độ hưu trí; thực trạng các
quy định của pháp luật về chế độ hưu trí ở nước ta và thực tiễn áo dụng ở thành phố

3


Đà Nẵng. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực hiện chế độ hưu trí theo pháp luật hiện hành phù hợp với điều kiện hiện nay
của thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ những mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ như sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về chế độ hưu trí theo pháp luật BHXH Việt
Nam.
- Nghiên cứu về vấn đề thực hiện bảo hiểm hưu trí tại thành phố Đà Nẵng;
phân tích, đánh giá thực trạng quá trình tổ chức thực hiện.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện chế
độ hưu trí theo pháp luật hiện hành phù hợp với điều kiện hiện nay của thành phố
Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định về chế độ hưu trí trong
pháp luật BHXH. Các quy định về đối tượng tham gia, điều kiện hưởng, mức
hưởng, nguồn hình thành quỹ hưu trí, thủ tục hồ sơ, quy trình giải quyết chế độ hưu
trí và tổ chức chi trả chế độ hưu trí của BHXH Việt Nam; tổ chức quản lý, giải
quyết và chi trả chế độ hưu trí tại BHXH thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn về thực tiễn thực hiện chế độ hưu trí của đối
tượng tham gia BHXH bắt buộc và đối tượng tham gia BHXH tự nguyện tại BHXH

thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn 2013 đến 2017. Về bảo hiểm hưu trí bổ
sung theo quy định tại Khoản 3 Điều 4, Khoản 7 Điều 3 Luật BHXH năm
2014 và Nghị định số 88/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ về
Chương trình hưu trí bổ sung tự nguyện, Ngành BHXH chưa triển khai và đến
thời điểm hiện tại chưa có doanh nghiệp nào kinh doanh dịch vụ quản lý quỹ
hưu trí bổ sung tự nguyện nên chưa nghiên cứu nội dung này trong luận văn.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2018 đến tháng 02/2019.

4


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng các quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta trong sự nghiệp phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, nhằm phát huy mọi tiềm năng trong sự nghiệp hiện đại hóa đất nước.
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, đề tài còn được nghiên cứu trên cơ sở phương
pháp lí luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, triết học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu cơ bản được sử dụng trong đề tài là phương pháp

nghiên cứu tài liệu thứ cấp.
Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp là phương pháp nghiên cứu khoa học
cơ bản và phổ biến trong nghiên cứu khoa học xã hội. Nghiên cứu lý thuyết thường
bắt đầu từ phân tích các tài liệu để tìm ra cấu trúc, các xu hướng phát triển của lý
thuyết. Từ phân tích lý thuyết, lại cần tổng hợp chúng lại để xây dựng thành một hệ
thống khái niệm, phạm trù tiến tới tạo thành lý thuyết khoa học mới.
Trên cơ sở lý thuyết về BHXH, các quy định pháp lý hiện hành về chế độ hưu
trí trong pháp luật BHXH, kinh nghiệm quản lý và tổ chức thực hiện chế độ hưu trí
của một số quốc gia trên thế giới được thể hiện trong các nguồn tài liệu và thông
qua các cách tiếp cận của nhiều tác giả, tác giả luận văn đã liên kết những mặt,
những bộ phận, những mối quan hệ thông tin từ các lý thuyết đã thu thập được
thành một chỉnh thể để tạo ra một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về chủ
đề nghiên cứu.
Dựa trên kết quả của việc phân tích và tổng hợp các tài liệu thứ cấp có liên
quan lựa chọn, đánh giá và xây dựng thành hệ thống các khái niệm, luận điểm, luận
cứ khoa học phục vụ đề tài. Bên cạnh đó, tác giả luận văn có sử dụng các bài phỏng
vấn thứ cấp được đăng tải trên các phương tiện thông tin khác để có thêm nhiều
thông tin trong điều kiện không tiếp cận trực tiếp được với các chuyên gia.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng các quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta trong sự nghiệp phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, nhằm phát huy mọi tiềm năng trong sự nghiệp hiện đại hóa đất nước.
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu đề tài còn được nghiên cứu trên cơ sở phương
pháp lí luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, triết học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn còn có thể giúp cho các nhà làm luật có thể sử dụng để tham khảo
trong quá trình sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật BHXH về chế độ
hưu trí.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác
nghiên cứu khoa học, cho việc giảng dạy, học tập cũng như cho các cơ quan quản lý
nhà nước, các đoàn thể tham khảo.
Bên cạnh đó, người sử dụng lao động và NLĐ cũng có thể tham khảo để phục
vụ tốt hơn trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng, trách nhiệm của các bên khi
tham gia BHXH và giải quyết chế độ BHXH, đặc biệt là chế độ hưu trí.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ
BHXH
Chương 2. Thực trạng chế độ hưu trí trong luật BHXH hiện hành và thực tiễn
áp dụng tại thành phố Đà Nẵng
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện chế
độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội hiện hành ở thành phố Đà Nẵng hiện nay.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ TRONG HỆ THỐNG
CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. Khái niệm chế độ hưu trí
1.1.1. Định nghĩa chế độ hưu trí
Chế độ hưu trí là chế độ mà NLĐ sẽ trích một phần thu nhập khi đang làm
việc để đóng vào quỹ hưu trí, để khi già yếu và được về nghỉ hưu thì quỹ này sẽ

được dùng để chi trả một phần cuộc sống của họ cho đến khi chết. Mỗi chúng ta đều
phải tuân theo quy luật của cuộc sống, có nghĩa là ai cũng đến lúc già yếu không
còn khả năng lao động nữa, nếu không có chế độ hưu trí thì những người này sẽ trở
thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Theo nghĩa chung nhất: "Chế độ hưu trí là chế độ BHXH đảm bảo thu nhập
cho người hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động nữa" (Bài
giảng BHXH 2, NXB Lao động - Xã hội).
Dưới góc độ pháp luật: "Chế độ hưu trí là tổng hợp các quy phạm pháp luật
quy định về các điều kiện và mức trợ cấp cho những người tham gia BHXH, khi đã
hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động" (Bài giảng BHXH 2,
NXB Lao động - Xã hội).
Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2012 thì chế độ hưu trí được hiểu
là “Chế độ BHXH đảm bảo thu nhập cho NLĐ đã hết tuổi lao động theo quy định
của pháp luật” [19].
1.1.2. Vai trò của chế độ hưu trí
Trong hệ thống các chế độ BHXH gồm nhiều chế độ khác nhau (chế độ ốm
đau, chế độ thai sản, chế độ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và
tử tuất…). Tuy nhiên, các chế độ BHXH được xây dựng và thực hiện phụ thuộc vào
trình độ phát triển và mục tiêu cụ thể của hệ thống BHXH trong từng thời kỳ của
mỗi nước. Và trong bất cứ hệ thống BHXH nào cũng có những chế độ chính thể
hiện đặc trưng, những mục tiêu chủ yếu của hệ thống BHXH; một trong những chế
độ đó là chế độ hưu trí hay chế độ bảo hiểm tuổi già cho NLĐ.

7


Theo quy định của ILO (International Labour Organization - Tổ chức

Lao động Quốc tế) thì chế độ hưu trí là một trong những chế độ bắt buộc, là chế
độ chính sách khi mỗi quốc gia muốn xây dựng cho mình một hệ thống BHXH.

Theo thống kê của ILO, trong tổng số 163 nước trên thế giới có hệ thống BHXH
(1993) thì có tới 155 nước có thực hiện chế độ hưu trí chiếm tỷ lệ 95,1%. Điều đó
chứng tỏ chế độ hưu trí rất được các nước cũng như NLĐ quan tâm.
Trên thực tế, những người tham gia BHXH đều có mong muốn tham gia vào
chế độ hưu trí; trong phần đóng góp phí BHXH nói chung thì phần chủ yếu là đóng
cho chế độ này. Đối với hệ thống BHXH thì hoạt động của ngành này tập trung chủ
yếu vào chế độ hưu trí cho NLĐ. Điều này được thể hiện cụ thể trong các hoạt động
nghiệp vụ của BHXH. Chẳng hạn ở Việt Nam, chế độ hưu trí có vị trí đặc biệt quan
trọng với người tham gia BHXH; chế độ này được quy định và đưa vào thực hiện
ngay từ khi hệ thống BHXH mới được thành lập (1947). Theo các quy định hiện
hành thì tỷ lệ cho bảo hiểm hưu trí và các chế độ khác có liên quan tới người về hưu
là 86% (phí bảo hiểm là 25,5% tổng quỹ tiền lương thì tới 22% đóng cho hưu trí).
Do đó thu cho chế độ hưu trí chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu của BHXH,
khoảng trên 80%. Tương tự, trong tổng chi của BHXH thì việc chi cho chế độ này
cũng rất lớn. Trong những năm gần đây tiền chi cho chế độ hưu trí chiếm khoảng
trên 80% tổng chi cho BHXH. Như vậy, hoạt động thu - chi của chế độ hưu trí có
ảnh hưởng sống còn tới toàn bộ hoạt động của hệ thống BHXH, ảnh hưởng đến sự
ổn định của BHXH nói riêng cũng như cả xã hội nói chung.
Một vấn đề nữa đặt ra là xu hướng già hóa của dân số thế giới dẫn đến số
lượng người nghỉ hưu ngày càng tăng. Điều đó cho thấy rõ vai trò ngày càng quan
trọng của chế độ hưu trí trong đời sống kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Chế độ
bảo hiểm hưu trí còn thể hiện được sự quan tâm chăm sóc của Nhà nước, NSDLĐ
đối với NLĐ, và nó còn thể hiện đạo lý của dân tộc, đồng thời còn phản ánh trình
độ văn minh của một chế độ xã hội.
1.1.3. Sự cần thiết phải có bảo hiểm hưu trí
Bảo hiểm hưu trí đảm bảo đời sống cho NLĐ khi họ về hưu do đó giúp xã

8



hội ổn định bền vững. Ngày nay, tỷ lệ người già trong dân số ngày càng tăng, nên
ổn định đời sống cho bộ phận này là rất quan trọng. Mặt khác, khi nghỉ hưu NLĐ có
cuộc sống ổn định và an nhàn hơn. Đối với người có trình độ, có khả năng họ lại
tiếp tục cống hiến, truyền đạt kinh nghiệm cho thế hệ sau. NLĐ trong quá trình lao
động họ có được sự bảo đảm chắc chắn về phần thu nhập khi họ nghỉ hưu, làm cho
họ yên tâm công tác, không lo nghĩ về điều kiện sống khi nghỉ hưu, do đó làm việc
với năng suất và chất lượng cao hơn. Giúp NLĐ tiết kiệm cho bản thân mình ngay
trong quá trình lao động để bảo đảm cuộc sống khi về hưu, giảm bớt một phần gánh
nặng cho người thân, gia đình và xã hội.
1.2. Cơ sở hình thành chế độ bảo hiểm hưu trí trong hệ thống các chế độ
bảo hiểm xã hội
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Bảo hiểm xã hội trên thế
giới
BHXH đã hình thành một cách khách quan, do nhu cầu, nguyện vọng chính
đáng của NLĐ và người chủ sử dụng lao động. Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, một
số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời để bảo vệ nhau trong hoạt động nghề nghiệp và
họ đã thành lập nên các quỹ tương trợ (như ở Anh năm 1473 đã thành lập hội “Bằng
hữu”) nhằm giúp đỡ các hội viên khi bị ốm đau, tai nạn… Đến năm 1883, Đức cũng
đã ban hành Luật Bảo hiểm ốm đau đầu tiên trên thế giới, sau đó tiếp tục ban hành
Luật Bảo hiểm tai nạn lao động và Luật Bảo hiểm người già - người tàn tật do lao
động vào năm 1884 và 1889. Sau đó, một số nước ở Châu Âu, Bắc Mỹ tiếp tục đưa
ra luật BHXH vào cuối năm 1920. Sự ra đời các bộ luật chính thức đầu tiên đó phản
ánh một yêu cầu tất yếu khách quan của BHXH. Qua thời gian thực hiện và tiếp tục
hoàn thiện các chế độ bảo hiểm chúng ta có thể hiểu được bản chất BHXH: “BHXH
là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với NLĐ khi họ gặp phải
những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình
thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho NLĐ và gia
đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội”. Nguyên tắc chung trong hoạt động bảo
hiểm này là gắn liền quyền lợi được hưởng với nghĩa vụ đóng góp. Tuy vậy, BHXH


9


chỉ thực sự trở thành một lĩnh vực hoạt động mang tính chất và ý nghĩa xã hội sâu
sắc từ đầu thế kỷ XIX. Quá trình đó gắn liền với sự phát triển sản xuất công nghiệp,
của nền kinh tế thị trường và thị trường sức lao động mà trong đó có quan hệ chủ
thợ trong lao động trở nên phổ biến. Sang thế kỷ XX, hầu hết các nước trên thế giới
mà trước hết là các nước công nghiệp phát triển đều ban hành và thực hiện điều luật
về BHXH đối với NLĐ. Đặc biệt vào tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, ILO thông
qua Công ước số 102 với những quy phạm tối thiểu về BHXH, trong đó có quy định
hệ thống gồm 9 chế độ đó là: chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau, trợ cấp thất nghiệp, trợ
cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp
sinh đẻ, trợ cấp khi tàn phế, trợ cấp cho người còn sống; 9 chế độ này hình thành
nên một hệ thống các chế độ BHXH. Với sự phát triển như vậy, BHXH đã trở thành
một lĩnh vực mang tính quốc tế rộng lớn và hiện nay có hơn 170 quốc gia trên thế
giới thực hiện BHXH (theo ILO-2017).
1.2.2. Bảo hiểm hưu trí trong chế độ bảo hiểm xã hội
Trong quá trình NLĐ tạo ra của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu của bản
thân, nhưng cùng với thời gian tuổi tác, sức khỏe của họ bị giảm sút và đến một lúc
nào đó họ sẽ không còn khả năng lao động. Lúc đó khoản thu nhập mà họ có thể
sinh sống hoặc là do tích góp trong quá trình lao động hoặc do con cháu nuôi
dưỡng... Những nguồn thu nhập này không thường xuyên và phụ thuộc vào điều
kiện của từng người. Để đảm bảo lợi ích cho NLĐ khi họ hết tuổi lao động và giúp
họ có nguồn thu nhập thường xuyên, ổn định, Nhà nước đã thực hiện chế độ BHXH
hưu trí. Vậy, bảo hiểm hưu trí là hình thức bảo đảm thu nhập cho NLĐ khi hết tuổi
lao động, NLĐ tạo ra thu nhập để nuôi sống chính họ trong quá trình lao động. Quá
trình này diễn ra ngay trong các nhà máy, xí nghiệp, đơn vị kinh tế, hành chính sự
nghiệp trong lĩnh vực quốc doanh và ngoài quốc doanh. Trong quá trình đó, họ cống
hiến sức lao động để xây dựng đất nước bằng cách tạo ra thu nhập cho xã hội và cho
cả chính họ nữa. Do đó đến khi họ không còn khả năng lao động nữa thì họ phải

được sự quan tâm ngược lại từ phía xã hội. Đó chính là khoản tiền trợ cấp hưu trí
hằng tháng phù hợp với số tiền BHXH mà họ đã đóng góp trong suốt quá trình lao

10


động. Nguồn trợ cấp này tuy ít hơn so với lúc đang làm việc nhưng nó rất quan
trọng và cần thiết giúp cho người về hưu ổn định về mặt vật chất cũng như tinh thần
trong cuộc sống, tạo cho họ có thêm điều kiện để cống hiến cho xã hội những kinh
nghiệm quý báu trong quá trình lao động sản xuất mà họ đã tích luỹ được nhằm xây
dựng đất nước ngày càng phồn vinh hơn. Bảo hiểm hưu trí bảo đảm quyền lợi cho
NLĐ, giúp họ tự bảo vệ mình khi hết tuổi lao động, tự lo cho chính bản thân một
cách hợp lý nhất nhờ vào việc họ đã cống hiến sức lao động để tạo ra của cải vật
chất cho xã hội trước đó. NLĐ chỉ cần trích ra một tỷ lệ % tiền lương tương đối nhỏ
khi còn đang làm việc trong một thời gian nhất định. Đến khi hết tuổi lao động phải
nghỉ việc họ sẽ có được sự bảo đảm của xã hội làm giảm bớt phần nào khó khăn về
mặt tài chính do không còn lao động được nữa. Như vậy, bảo hiểm hưu trí là một
chế độ mang tính xã hội hóa cao được thực hiện một cách thường xuyên và đều đặn,
kế tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác.
1.3. Nội dung của chế độ hưu trí
Chế độ hưu trí là một chế độ có liên quan đến rất nhiều mặt trong quá trình tổ
chức thực hiện. Do vậy, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nghiên cứu để
đi đến xác lập một chế độ bảo hiểm hưu trí. Sau đây là một số nội dung cơ bản:
1.3.1. Điều kiện để hưởng bảo hiểm hưu trí
1.3.1.1. Độ tuổi hưởng bảo hiểm hưu trí
Độ tuổi hưởng chế độ BHXH dài hạn nói chung và chế độ hưu trí nói riêng
đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định chi phí của hệ thống chế độ. Tuổi
hưởng chế độ hưu trí có thể được ấn định theo một số cân nhắc như: Khả năng làm
việc tổng thể của người cao tuổi; vị thế của người cao tuổi trong thị trường lao
động; khả năng kinh tế của chế độ hưu trí.

Điều quan trọng là phải cân đối mức hưởng thỏa mãn đóng và chi phí liên
quan đến tuổi thọ bình quân của người cao tuổi. Mặt khác, khi quy định tuổi về
hưu còn phải dựa vào quy luật sinh - lão - bệnh - tử và điều kiện kinh tế - xã hội
của mỗi nước.
Ngoài ra, tuổi nghỉ hưu còn được quy định hạ thấp so với độ tuổi bình quân

11


đối với những người làm những công việc trong điều kiện lao động và môi trường
nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm có ảnh hưởng nhất định làm suy giảm một phần khả
năng lao động so với bình thường hay những người có thể chất yếu không đủ sức
đảm đương công việc.
1.3.1.2. Thời gian đóng bảo hiểm hưu trí
Thời gian đóng bảo hiểm hưu trí là tổng số đơn vị thời gian có đóng phí bảo
hiểm để được hưởng chế độ này. Việc quy định thời gian đóng phí BHXH nhằm xác
định sự cống hiến về mặt lao động của mỗi người với xã hội nói chung và phần đóng
góp vào BHXH nói riêng. Thời gian đóng BHXH là một trong những căn cứ để chi
trả đối với NLĐ theo luật định nhằm bảo đảm sự công bằng, bình đẳng giữa những
người tham gia BHXH, thực hiện một trong những nguyên tắc cơ bản của BHXH.
Việc xác định thời gian đóng phí BHXH được căn cứ: độ tuổi về hưu, tỷ lệ
đóng góp, tuổi thọ của những người về hưu, mức được hưởng... Về nguyên tắc nếu
xuất phát từ việc đóng BHXH để hình thành quỹ sử dụng cho chế độ hưu trí thì phải
tính đến tổng số thời gian đóng BHXH thực tế. Trường hợp NLĐ làm việc trong
những điều kiện đặc biệt như ở nơi độc hại, vùng sâu, vùng xa... được pháp luật
BHXH quy định số thời gian này làm căn cứ để giảm tuổi đời khi nghỉ hưu.
Trong các chế độ BHXH bắt buộc, đối với chế độ hưu trí hầu hết các nước
đều quy định điều kiện để được hưởng chế độ phụ thuộc hai yếu tố đó là độ tuổi và
thời gian đóng BHXH .
1.3.2. Mức đóng

Cũng như tất cả các chế độ bảo hiểm khác, chế độ hưu trí liên quan đến mức
phí thu cho chế độ này. Trong thực tế mức thu cho chế độ này được xác định riêng
theo một tỷ lệ nào đó so với thu nhập hay tiền lương dùng để tính BHXH và bảo
hiểm hưu trí. Đối với NLĐ làm công ăn lương thì thu nhập này thường là tiền
lương. Trong một số trường hợp mức thu cho chế độ hưu trí không xác định riêng
mà được gộp chung vào một mức thu gọi là thu BHXH nói chung. Ở Việt Nam hiện
nay thực hiện thu chung một mức phí BHXH cho tất cả các chế độ BHXH đang
được thực hiện, trong đó có định lượng phần dành cho các chế độ bảo hiểm dài hạn

12


như bảo hiểm hưu trí. Cụ thể phân bổ tỷ lệ đóng BHXH theo Luật BHXH năm 2006
đến nay như sau:
Bảng 1.1. Bảng phân bổ tỷ lệ đóng BHXH từ 01/01/2007 đến nay
Người sử dụng lao động (%)
Năm
Từ 01/01/2007-

BHXH BHYT BHTN

BHTNLĐ,
BNN

Người lao động (%)
BHXH BHYT BHTN

Tổng
cộng
(%)


15

2

0

0

5

1

0

23

Từ 01/01/200931/12/2009

15

2

1

0

5

1


1

25

Từ 01/01/201031/12/2011

16

3

1

0

6

1,5

1

28,5

Từ 01/01/2012-

17

3

1


0

7

1,5

1

30,5

18

3

1

0

8

1,5

1

32,5

17

3


1

0.5

8

1.5

1

32

31/12/2008

31/12/2013
Từ
01/2014
đến 05/2017
Từ

06/2017

đến nay

Nguồn: BHXH Việt Nam
Ghi chú:
- Trước ngày 01/06/2017, tỷ lệ trích nộp BHXH của NSDLĐ sẽ được phân bổ
vào quỹ: Hưu trí, tử tuất; ốm đau, thai sản; TNLĐ - BNN;
- Từ ngày 01/06/2017 tỷ lệ trích nộp BHXH của NSDLĐ được phân bổ vào

quỹ: Hưu trí, tử tuất; ốm đau, thai sản;
- Tỷ lệ trích nộp BHXH của NLĐ sẽ được phân bổ vào quỹ hưu trí, tử tuất.
1.3.3. Mức hưởng
Mức hưởng là số tiền mà một người về hưu nhận được hằng tháng kể từ khi
nghỉ hưu. Hiện nay, đang có những quan điểm khác nhau về mức hưởng. Về cơ bản
có hai quan điểm chính. Quan điểm thứ nhất cho rằng tiền lương hưu là để bảo đảm
mức sống tối thiểu của người nghỉ hưu theo tiêu chuẩn sống của quốc gia. Còn theo

13


quan điểm thứ hai thì cho rằng tiền lương hưu phải có giá trị bảo đảm cho người về
hưu có mức sống cao, thậm chí trên mức trung bình của xã hội. Sự khác nhau này
tất nhiên sẽ dẫn đến mức đóng tương ứng trước khi được hưởng cũng khác nhau.
Trong thực tế, khuynh hướng nào cũng có lý khi giải thích nhưng nếu xét về
mức sống của người về hưu và đặt trong quan hệ với sự phát triển và ý nghĩa về sự
hấp dẫn của BHXH đối với NLĐ thì khuynh hướng thứ hai có sức thuyết phục hơn.
Những dù là mức hưởng được xác định theo quan điểm nào thì vẫn phải đảm bảo
yêu cầu có tính nguyên tắc là tiền lương hưu phải thấp hơn tiền lương khi làm việc.
Ngoài ra, tùy theo luật pháp của từng nước về chế độ này mà người nghỉ hưu
được hưởng thêm các quyền lợi như trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, hay đối với
những NLĐ nghỉ việc chưa đủ tuổi để hưởng chế độ hưu hằng tháng cũng nhận
được trợ cấp một lần và ngoài lương hưu hằng tháng, người nghỉ hưu còn được hỗ
trợ BHYT do quỹ BHXH chi trả, khi chết gia đình được hưởng chế độ tử tuất.
1.3.4. Thời gian hưởng chế độ hưu trí
Thời gian hưởng chế độ hưu trí được hiểu là thời gian kể từ khi nghỉ hưu cho
đến khi qua đời. Với mỗi người thì thời gian hưởng lương hưu thông thường là khác
nhau vì tuổi nghỉ hưu và tuổi thọ không giống nhau. Và do một trong những vấn đề
có tính xã hội, tính bù trừ... trong BHXH nên trong quản lý thường lấy số bình
quân chung thời gian hưởng tiền lương hưu của người nghỉ hưu trong cùng một hệ

thống BHXH để tính toán cho các chỉ tiêu khác.
Thời gian hưởng tiền hưu phải ngắn hơn thời gian đóng BHXH cho chế độ
hưu trí. Tuy vậy, thời gian nghỉ hưu để hưởng tiền lương hưu có thể khác nhau khi
thực hiện chế độ bảo hiểm này. Điều đó phụ thuộc vào các yếu tố như tuổi đời khi
nghỉ hưu theo quy định của pháp luật, tuổi thọ bình quân của người nghỉ hưu.
Những yếu tố này lại phụ thuộc vào chính sách lao động và BHXH trong từng giai
đoạn, mức sống và điều kiện sống của dân cư.
Trong thực tế, tuổi nghỉ hưu theo quy định của pháp luật thường ổn định
trong một thời gian dài và nếu có thay đổi thì cũng ở trong khoảng từ 55 đến 60 tuổi
đối với NLĐ bình thường trong xã hội. Trong trường hợp đặc biệt, có thể có những

14


điều chỉnh nhưng cũng dựa trên những độ tuổi đó. Khi tuổi thọ bình quân ngày càng
tăng lên thì thời gian hưởng chế độ hưu trí cũng có xu hướng tăng lên. Vấn đề có
tính quy luật này buộc các nhà nghiên cứu các chế độ chính sách về lao động và
BHXH phải tính đến để điều chỉnh tuổi về hưu cho phù hợp.
1.3.5. Một số chỉ tiêu đánh giá hoạt động của chế độ hưu trí
BHXH nói chung cũng như chế độ hưu trí nói riêng là những phạm trù kinh tế
tổng hợp, phản ánh rất nhiều mặt trong đời sống xã hội. Do vậy, việc hình thành hệ
thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả là hoàn toàn không đơn giản vì khó có thể có
được một hệ thống chỉ tiêu phản ánh đầy đủ tất cả các khía cạnh của lĩnh vực này.
Tuy nhiên, việc xây dựng các chỉ tiêu này thực sự cần thiết và đó là cơ sở cho việc
đánh giá trình độ phát triển và kết quả của BHXH trong đời sống xã hội. Thông
thường việc đánh giá kết quả hay hiệu quả của mỗi hoạt động nào đó chúng ta phải so
sánh với định hướng, mục tiêu đề ra. Tính hiệu quả phản ánh trong mức độ đạt được
so với các mục tiêu đặt ra.
Trong BHXH nói chung và chế độ hưu trí nói riêng, mục tiêu cao nhất là
đạt được sự phát triển của BHXH và bảo đảm đời sống người về hưu trên cơ sở

tiền lương hưu (còn gọi là thu nhập thay thế) mà NLĐ nhận được từ quỹ BHXH,
góp phần bảo đảm an sinh và ổn định xã hội. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cũng
phải xoay quanh mục tiêu này. Trong chế độ hưu trí, do tính phức tạp của chế độ
này mà hệ thống các chỉ tiêu phải bao gồm tất cả các chỉ tiêu định tính và các chỉ
tiêu định lượng.
Theo quan điểm về hiệu quả như trên ta thấy có thể có ba nhóm chỉ tiêu hiệu
quả của hoạt động BHXH đó là :
Nhóm 1: Các chỉ tiêu hiệu quả của hoạt động bảo hiểm hưu trí
Nhóm 2: Các chỉ tiêu đánh giá về sự phát triển của bảo hiểm hưu trí
Nhóm 3: Các chỉ tiêu đảm bảo lợi ích về kinh tế - xã hội của người về hưu.
Sau đây là sự xác định cụ thể trong từng nhóm chỉ tiêu:
1.3.5.1. Nhóm các chỉ tiêu hiệu quả của hoạt động bảo hiểm hưu trí
BHXH tập trung vào ba hoạt động chính đó là thu BHXH, quản lý quỹ

15


BHXH và chi trả BHXH. Trong mỗi hoạt động đó có các chỉ tiêu cụ thể để đánh giá
mức độ hiệu quả:
Thu bảo hiểm hưu trí
Thu bảo hiểm hưu trí là một chỉ tiêu tổng hợp và hiệu quả của nó được đánh
giá trên các mặt chủ yếu sau:
Một là, Tỉ lệ về số người đóng BHXH:
Số người đóng
Tỉ lệ % người đóng =

* 100
Số người phải đóng

Thực chất là thực hiện thu đúng và đủ số người đóng bảo hiểm hưu trí. Thu

đúng ở đây chủ yếu là thu đúng đối tượng phải thu. Số đối tượng phải thu hiện nay là
số NLĐ thuộc diện đóng BHXH bắt buộc, đối tượng đăng kí tham gia BHXH tự
nguyện; họ phải đóng BHXH trong đó có chế độ hưu trí. Số người này thường thay
đổi do có sự thay đổi của các doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh, nhất là số
NLĐ làm việc ở khu vực ngoài quốc doanh. Việc thu đúng, thu đủ là rất cần thiết để
BHXH vừa đảm bảo lợi ích cho NLĐ, vừa đảm bảo có những tác dụng tích cực với
các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như với nền kinh tế nói chung.
Mục tiêu thu ở đây là đảm bảo thu 100% đối tượng thuộc diện phải đóng BHXH.
Chỉ tiêu này có thể áp dụng mở rộng ra cho tất cả số người có nhu cầu tham
gia bảo hiểm BHXH tự nguyện, và rộng hơn nữa là bảo hiểm xã hội toàn dân.
Hai là, Thu đủ số tiền theo quy định cho chế độ hưu trí:
Số tiền thu được
Tỷ lệ % tiền thu được =

* 100
Số tiền phải thu

Số tiền thu được này phụ thuộc vào mức thu theo luật định và số lượng người
mà các cơ quan BHXH đã thu được, hay số người trực tiếp đóng BHXH. Thu đủ là
rất quan trọng không chỉ vì như đã đề cập ở trên mà đó còn là bảo đảm sự chủ động
về nguồn tài chính, làm cho nguồn quỹ BHXH được ổn định, giúp duy trì các hoạt
động bình thường và ngày càng phát triển của chế độ hưu trí.

16


Ba là, Thu đúng thời gian: Đó là thời gian mà các đơn vị và cá nhân phải
đóng BHXH theo quy định của pháp luật hiện hành. Nếu không thu đúng thời gian
sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch tài chính trực tiếp của chế độ hưu trí. Nhất là trong điều
kiện chế độ hưu trí áp dụng theo cơ chế thu của người đóng trả cho người hưởng.

Còn trong chế độ hưu trí theo cơ chế của đầu tư ứng trước thì thu kịp thời là một
điều kiện quan trọng để ổn định và phát triển quỹ hưu trí trong tương lai trên cơ sở
các kế hoạch sử dụng quỹ để đầu tư sinh lời.
Chi trả BHXH
Trong hoạt động chi trả, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cũng tập trung vào các
nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, Chi trả đúng đối tượng
Đảm bảo tiền hưu phải đến đúng người được hưởng. Đó phải là những người
hội đủ được điều kiện ràng buộc để được hưởng chế độ hưu trí. Điều này có liên
quan đến công tác quản lý đối tượng hưởng chế độ hưu trí. Khác với NLĐ khi tham
gia đóng BHXH, sự di chuyển hay thay đổi nơi ở của từng người về hưu phụ thuộc
vào khả năng và điều kiện sống mà họ lựa chọn. Khi đó công tác quản lý phải có sự
linh hoạt tốt để không chỉ quản lý tốt mà còn được thực hiện chi trả thuận lợi đúng
đối tượng được hưởng chế độ này.
Hai là, Chi trả đủ về số lượng
Chỉ tiêu chi trả đủ về số lượng phản ánh về số tiền chi trả đủ cho mọi đối
tượng được hưởng hưu trí theo quy định. Đây là yêu cầu pháp lý, được luật quy
định thành các mức tiền hưu được hưởng. Chi trả đủ cho người về hưu phải được
đảm bảo trên cơ sở số tiền mà quỹ hưu trí có được dùng để thanh toán và sự an toàn
của số tiền này trong quá trình chi trả cho các đối tượng được hưởng chế độ hưu trí.
Ba là, Chi trả đúng thời gian
Chi trả đúng thời gian chính là việc bảo đảm người về hưu phải được nhận
lương hưu đúng theo thời gian quy định. Đây là điều rất quan trọng vì tiền hưu là
một loại thu nhập thường xuyên của người về hưu. Đối với các đối tượng này việc
nhận lương hưu đúng hạn sẽ giúp cho họ có thể ổn định được đời sống. Đối với các

17


cơ quan bảo hiểm điều này có ý nghĩa rất lớn trong quản lý nói chung và thanh

quyết toán cho chế độ hưu trí nói riêng.
Các chỉ tiêu này rất quan trọng trong quản lý quá trình thực hiện BHXH ở
Việt Nam, trong điều kiện hiện nay khi mà BHXH đang còn có nhiều thay đổi cho
phù hợp với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta.
Quản lý quỹ hưu trí
Chỉ tiêu của hoạt động này phản ánh qua quản lý số lượng tiền hay quy mô
quỹ bảo hiểm hưu trí nhằm bảo toàn giá trị của quỹ hưu trí cả về giá trị danh nghĩa
và giá trị thực tế. Đồng thời đó còn là việc sử dụng quỹ này vào các hoạt động khác
nhau, làm phát triển không ngừng và nâng cao khả năng thanh toán của quỹ hưu trí.
Đó chính là sự tăng cường nguồn lực tài chính của chế độ hưu trí. Có nhiều chỉ tiêu
cụ thể như: Bảo toàn giá trị của quỹ bảo hiểm hưu trí, mức và tỷ lệ tăng của quỹ hưu
trí qua các thời kỳ, khả năng cân đối thu chi của quỹ BHXH.
1.3.5.2. Nhóm các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của chế độ hưu trí
Một là, Mở rộng phạm vi đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm hưu trí
Chỉ tiêu mở rộng phạm vi đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm hưu trí được
tính qua tỷ lệ NLĐ trong xã hội thực hiện vào chế độ hưu trí trong tổng số lao động
nói chung. Đây là chi tiêu phản ánh kết quả thực hiện mục tiêu mở rộng phạm vi
hoạt động của chế độ hưu trí. Trong điều kiện ở các nước có nền kinh tế kém phát
triển, số người tham gia vào chế độ hưu trí không nhiều thì chỉ tiêu này được sử
dụng để đánh giá quy mô và sự phát triển của chế độ hưu trí qua các thời kỳ.
Theo đuổi mục tiêu mọi người đều có quyền và được tham gia vào BHXH để
hưởng chế độ hưu trí nên trong quá trình phát triển và mở rộng phạm vi hoạt động,
số người tham gia vào chế độ này phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng nguồn lao động
xã hội. Tỷ lệ tăng số lượng người tham gia chế độ hưu trí được xác định trên cơ sở
mục tiêu mở rộng của chế độ này. Ở đây có thể lượng hóa chỉ tiêu này qua tỷ lệ
phần trăm số người tham gia vào chế độ bảo hiểm hưu trí và tốc độ tăng của tỷ lệ
này qua các năm. Ngoài ra, cũng có thể tính thêm chỉ tiêu tỷ lệ tăng tương đối so
với tỷ lệ tăng lao động xã hội.

18



×