Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Vấn đề chiến tranh trong triết học phương tây hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.14 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------

NGUYỄN THỊ KIỀU OANH

VẤN ĐỀ CHIẾN TRANH TRONG TRIẾT HỌC
PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Minh Hợp

NĂM 2007


LỜI CAM ĐOAN
Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của
giáo viên hướng dẫn, TS. Đỗ Minh Hợp. Những thông tin đưa ra trong luận
văn là trung thực, có xuất xứ rõ ràng. Các kết luận của luận văn chưa được
công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả của luận văn

NGUYỄN THỊ KIỀU OANH

-1-


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ............................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................ 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ............................................................... 4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ...................................................... 5
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài................................................... 5
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................... 5
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ....................................................... 6
8. Kết cấu luận văn ............................................................................................. 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
Chương 1 ......................................................................................................... 7
KHÁI LƯỢC CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC KHÁC NHAU VỀ CHIẾN
TRANH ..........................................................................................................................7
1.1. Các quan điểm triết học trước Mác về chiến tranh ................................ 7
1.2. Quan điểm Mac xit về chiến tranh. ..................................................... 19
Chương 2 ........................................................................................................ 37
CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI ................... 37
VỀ CHIẾN TRANH ....................................................................................... 37
2.1. Quan điểm tâm sinh lý ........................................................................... 37
2.2. Các quan điểm đa nguyên chủ nghĩa...................................................... 56
2.3. Một số nhận xét và định hướng cách tiếp cận vấn đề chiến tranh trong
thời đại ngày nay. .................................................................................. 81
Kết luận chương 2 .......................................................................................... 83
KẾT LUẬN..................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 86


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Lịch sử loài người từ khi xuất hiện cho tới nay đã và đang chứng kiến

không biết bao nhiêu cuộc chiến tranh tàn khốc mà trong đó kẻ chủ mưu là con
người và kẻ bị tiêu diệt không ai khác cũng chính là con người. Chiến tranh diễn
ra phổ biến tới mức không ít người buộc phải thừa nhận rằng chiến tranh gắn
liền với bản tính của con người, vì vậy đối với họ thật khó có thể tưởng tượng
đến một khả năng là trong tương lai loài người sẽ được sống trong hoà bình.
Từng thể hiện dưới dạng một phương tiện rất có hiệu quả để giải quyết
các vấn đề chính trị trong suốt nhiều thế kỷ, nhưng càng ngày chiến tranh càng
đánh mất địa vị lịch sử của mình do ảnh hưởng từ những hậu quả mang tính
thảm hoạ của chúng đối với sự sống của nhân loại. Đặc biệt, bước sang thế kỷ
XXI, lưỡng đề chiến tranh và hoà bình thực sự trở thành một vấn đề toàn cầu
gay gắt nhất thời đại. Việc giải quyết đúng đắn vấn đề này có liên quan mật thiết
đến số phận tiếp theo của nhân loại và đối với việc duy trì sự sống trên trái đất.
Quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ đem lại cho vấn đề chiến tranh
những nội dung mới, điều đáng nói là tính phức tạp và sức huỷ diệt của nó lớn
hơn bất cứ cuộc chiến tranh nào trong lịch sử. Hơn thế nữa, qua nghiên cứu của
tổ chức Liên Hợp Quốc cho thấy, những nguy cơ chiến tranh toàn cầu ở đầu thế
kỷ XXI vẫn chưa bị loại bỏ. Còn trước mắt nhân loại, những cuộc chạy đua vũ
trang đang diễn ra với quy mô rộng khắp, những thảm họa và cả những đe dọa
của chủ nghĩa khủng bố vẫn luôn dình dập đem lại sự sợ hãi và bất an trong
cuộc sống của mọi người dân trên thế giới. Thêm vào đó, hàng ngày, hàng giờ,
trên thế giới xảy ra không biết bao nhiêu cuộc xung đột vũ trang do hàng loạt
những nguyên nhân về tôn giáo, sắc tộc, về kinh tế, chính trị…, và gần đây, với
việc tăng cường xây dựng nhà máy điện hạt nhân của một số nước khiến cho
những cảm nhận về một cuộc chiến tranh hạt nhân trong tương lai gần là có
thực. Đó là những điểm nhìn khái quát và nổi bật nhất trong bức tranh về tình
hình chính trị của thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia, mỗi nhà chính trị và mỗi người
dân trên thế giới phải suy ngẫm thực sự nghiêm túc về nó. Có thể khẳng định
-1-



rằng, thực tế đó, cộng với một sự trải nghiệm quá dài trong lịch sử tồn tại giúp
đại đa số người dân trên thế giới nhận thấy chiến tranh không phải là giải pháp
tốt nhất để giải quyết những vấn đề của họ, mà hoà bình, hợp tác lẫn nhau giữa
các quốc gia, dân tộc, cộng đồng mới là cách khôn ngoan nhất để đem lại một sự
phát triển mạnh và bền vững cho cả loài người.
Đối với Việt Nam, trong con mắt bạn bè quốc tế, nước ta được coi là một
nước có tình hình chính trị ổn định, là điểm đến an toàn. Tuy nhiên, điều đó
không loại trừ những thách thức và nguy cơ lật đổ chế độ chính trị, phá hoại
thành quả cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được. Kẻ thù trong và
ngoài nước vẫn không ngừng thực hiện âm mưu chống phá nhà nước và chế độ
chính trị của ta. Lợi dụng những bất cập, yếu kém trong đời sống chính trị - xã
hội của nước ta để lôi kéo, kích động quần chúng, tạo ra những cuộc bạo loạn,
biểu tình, đình công ngày càng gia tăng. Đặc biệt, lợi dụng mạng Internet, các tổ
chức phản động ở nước ngoài càng có điều kiện thuận lợi để truyền bá vào trong
nước những tài liệu phản động, gây hại đến an ninh chính trị và xã hội của đất
nước. Tình hình trên tác động không nhỏ tới đời sống xã hội cũng như lập
trường chính trị của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ thanh niên nước ta.
Nó gây ra tâm lý giao động, thậm chí hoang mang, thiếu niềm tin vào Đảng và
Nhà nước ta. Vì vậy, để giữ vững hòa bình, ổn định chính trị thì một trong
những nhiệm vụ quan trọng là chúng ta phải xây dựng, hoàn thiện thế giới quan
khoa học, tiến bộ làm nền tảng để có một lập trường chính trị vững vàng trước
những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị trong nước và quốc tế.
Về vấn đề chiến tranh, với tư cách là biểu hiện một chính sách chính trị,
nó ngày càng trở thành đề tài gây sự quan tâm của không những các nhà chính
trị mà còn của rất nhiều học giả, trong đó phải nói đến các học giả phương Tây.
Tuy nhiên, khi tìm hiểu những vấn đề liên quan đến chiến tranh đã có không ít
những quan điểm khác nhau thậm chí đối lập nhau, và thực tế cho thấy chính sự
bất đồng về mặt ý thức hệ đã, đang và sẽ dẫn đến sự đối đầu trong chính sách và
hành động. Điều này vô hình trung lại tạo ra một nguy cơ mới cho chiến tranh.
Cho đến nay, sự đối đầu về mặt tư tưởng, lập trường chủ yếu vẫn nổi lên giữa

-2-


hai quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin với quan điểm tư sản phương Tây hiện
đại. Bởi vậy, việc tìm hiểu những quan điểm này trong mối tương quan so sánh
với các quan niệm khác trong lịch sử và đặc biệt với quan điểm chủ nghĩa MacLênin giúp vạch trần âm mưu, thủ đoạn của giai cấp tư sản. Trên cơ sở đó, giúp
chúng ta nhận diện một cách khách quan thực chất của vấn đề chiến tranh trong
lịch sử và quan trọng hơn là trong thời đại ngày nay để mỗi người, mỗi quốc gia,
dân tộc có thái độ và hành động đúng đắn, tỉnh táo hơn để đảm bảo cho sự phát
triển bền vững của toàn nhân loại.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu vấn đề chiến tranh dưới góc độ lý luận đã sớm được
nhiều nhà triết học quan tâm nghiên cứu ở các góc độ khác nhau.
Ở nước ngoài, phải kể đến một số công trình như: “Chiến tranh” của Nhà
xuất bản Sự thật - Hà Nội- 1958; “Khả năng ngăn ngừa chiến tranh mới” của
Nhà xuất bản sự thật - Hà Nội- 1957; “Vấn đề chiến tranh và hòa bình và vấn đề
chung sống hòa bình”, Nhà xuất bản Sự thật- Hà Nội- 1961; “Quan điểm cơ bản
về khởi nghĩa, chiến tranh và quân đội” Nhà xuất bản QĐND - 1973; “Lênin về
chiến tranh và quân đội” của Nxb Quân đội nhân dân năm 1985; “Học thuyết
Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội” do tiến sĩ triết học, giáo sư, trung tướng
D.A. Vôn-cô-gô-nốp chủ biên, Trần Hùng dịch, của Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội- 1987;… Và còn rất nhiều các tài liệu khác. Những công trình kể trên giúp
hệ thống lại quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề chiến tranh, trên cơ
sở đó góp phần xây dựng thế giới quan, phương pháp nhận thức về vấn đề này
một cách khoa học, đúng đắn nhất. Tuy nhiên, do hạn chế vốn có về mặt lịch sử
nên những công trình trên không thể bao quát hết được những nội dung mới
mang tính thời sự của vấn đề chiến tranh.
Vì lẽ đó, để bổ sung tính thời đại cho lý luận về chiến tranh, gần đây, một
số tác giả phương Tây đã có những công trình mới về vấn đề này, trong đó nổi
lên là việc gắn hiện tượng chiến tranh với bối cảnh toàn cầu hóa của thời đại.

Trong số những công trình đó có đóng góp của tác giả người Nga K.Jakcoves
với cuốn “Toàn cầu hóa và sự tương tác giữa các nền văn minh khu vực” (2002).
-3-


Cuốn sách đã đưa ra những lý giải về nguyên nhân và những thảm họa chiến
tranh trong thời đại mới, đặc biệt là nguy cơ kề cận của chiến tranh hạt nhân
đang đe dọa loài người và sự sống trên trái đất. Tác giả còn đưa ra những dự báo
về triển vọng của chiến tranh ở thế kỷ XXI và những giải pháp ngăn chặn nó. Để
có cơ sở cho những lý giải trên, tác giả đặc biệt chú trọng đến sự tồn tại và đối
đầu của các nền văn minh.
Đối với các tác giả Việt Nam, họ cũng có rất nhiều các công trình nghiên
cứu về chiến tranh, nhưng hầu hết trong số đó tập trung nghiên cứu một loại
hình chiến tranh diễn ra trên đất nước ta, cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc chống
lại sự xâm lược của hai nước đế quốc đầu sỏ là Pháp và Mỹ. Những công trình
nghiên cứu có liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn này, trước
hết phải kể đến các tác phẩm: “Tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng
ta” của Lê Duẩn, Nhà xuất bản Sự thật- 1973; “Hỏi đáp về tình hình thế giới và
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia- 1986; “Vài suy nghĩ về thế giới trong thế kỷ XX và thế kỷ XXI” của tác giả
Hồ Vũ, Nhà xuất bản CTQG- 2000;… Những công trình kể trên giúp chúng ta
có cái nhìn khái quát về tình hình chính trị thế giới và trong nước, đặc biệt là lập
trường của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề chiến tranh được thể hiện qua
những chính sách đối ngoại cụ thể. Trong số những tài liệu nghiên cứu lý luận
chiến tranh của các tác giả Việt Nam, có thể nói bài viết của Trần Đức Long:
“Quan điểm tâm sinh học về chiến tranh và hòa bình trong ý thức hệ phương
Tây hiện đại” có liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn này. Bài viết giới thiệu
một cách khái quát, có sự phân tích và đánh giá riêng của tác giả về một trong
những quan điểm khá phổ biến của triết học phương Tây hiện đại về vấn đề
chiến tranh và hòa bình, quan điểm tâm sinh học. Song với phạm vi một bài viết

ngắn nên những nghiên cứu của tác giả chỉ mang tính chất giới thiệu và gợi mở
hướng tiếp cận chứ chưa phải là một công trình nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Nghiên cứu một số quan điểm triết học phương
Tây hiện đại về vấn đề chiến tranh, một mặt nhằm chỉ ra tính chất sai lầm, phản
-4-


động của những quan niệm trên, mặt khác góp phần khẳng định tính đúng đắn
của quan niệm macxit về vấn đề này.
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Một là, hệ thống hóa những quan điểm khác nhau trong lịch sử triết học từ thời
cổ đại cho đến chủ nghĩa Mác- Lênin bàn về vấn đề chiến tranh.
- Hai là, phân tích nội dung hai quan điểm tâm sinh học và quan điểm đa nguyên
chủ nghĩa về chiến tranh trong triết học phương Tây hiện đại.
- Ba là, đề xuất cách tiếp cận đối với vấn đề chiến tranh trong thời hiện đại.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng với các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam, đồng thời có tham khảo những công trình nghiên cứu của các tác
giả trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày nội dung luận văn, tác giả đã kết
hợp phương pháp phân tích với phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích và
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh và phương pháp hệ thống.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích, nhiệm vụ đặt ra, luận văn nghiên cứu vấn đề chiến
tranh trong triết học phương Tây hiện đại. Tuy nhiên, trong giới hạn của luận
văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu hai quan điểm cơ bản và cũng chính là
những quan điểm có ảnh hưởng khá rộng rãi trong tư tưởng của phần lớn cư dân
phương Tây thời hiện đại, đó là quan điểm tâm sinh học và đa nguyên chủ

nghĩa.
6. Đóng góp của luận văn
Trình bày và phân tích một số quan điểm tiêu biểu về chiến tranh trong
triết học phương Tây hiện đại, đặt chúng trong tính hệ thống với các quan điểm
khác trong lịch sử triết học.
Làm rõ ý nghĩa thời sự cấp bách của việc nghiên cứu quan niệm về chiến
tranh của một số trường phái triết học phương Tây hiện đại trong việc định

-5-


hướng về nhận thức và hành động khi ứng xử với những vấn đề liên quan đến
chiến tranh hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm phong phú hơn kho tàng lý luận
về chiến tranh. Trên cơ sở đó, góp phần vào việc giải quyết những vấn đề bức
thiết mang tính toàn cầu do các hiện tượng chiến tranh và xung đột vũ trang
tạo ra.
Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
việc giảng dạy và nghiên cứu vấn đề chiến tranh. Bên cạnh đó, luận văn có ý
nghĩa kiến nghị đối với công tác đối ngoại của nước ta, vừa đảm bảo môi trường
hòa bình có lợi cho việc phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, vừa góp phần
xây dựng nền hòa bình chung trên thế giới.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
hai chương, 5 tiết.

-6-



NỘI DUNG

Chương 1
KHÁI LƯỢC CÁC QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC KHÁC NHAU VỀ
CHIẾN TRANH
1.1

Các quan điểm triết học trước Mác về chiến tranh
Với những trải nghiệm trong lịch sử, chiến tranh cùng những hậu quả mà

nó đem lại đã làm cho các nhà tư tưởng mọi thời đại phải lo lắng.
Ở thời kỳ đầu của lịch sử nhân loại, xã hội cộng sản nguyên thủy, trong
điều kiện kinh tế - xã hội còn thấp kém, phân công lao động xã hội chưa phát
triển thì chiến tranh chưa xuất hiện theo đúng nghĩa của từ này. Do vậy, những
tư tưởng về chiến tranh cũng chưa xuất hiện. Khi chế độ tư hữu ra đời, xã hội
phân chia thành các giai cấp đối kháng và các kiểu nhà nước của giai cấp thống
trị ra đời, và từ đây, chiến tranh trở thành người bạn đường của các kiểu nhà
nước đó. Đồng thời với sự xuất hiện của chiến tranh, thì những tư tưởng, quan
điểm về chiến tranh cũng xuất hiện và phát triển.
Ngay từ thời cổ đại, các triết gia phương Tây đã cố gắng làm sáng tỏ bản
chất của chiến tranh, cội nguồn và vai trò của nó trong đời sống xã hội. Chẳng
hạn, Hêraclít coi chiến tranh là cha đẻ của vạn vật và là vua của muôn loài,
Platôn (427- 347 TCN) cho chiến tranh là hiện tượng tự nhiên của các dân tộc,
gắn liền nguồn gốc của chiến tranh với việc chiếm hữu của cải. Arixtốt (384322 TCN) đã quan niệm chiến tranh là một sự đam mê của những người hoạt
động quân sự. Trong các thế kỷ II, III đã xuất hiện những lý thuyết thần học về
chiến tranh nhằm biện hộ cho các quan điểm của tôn giáo. Một trong những
nguồn lý luận ủng hộ chiến tranh là Kinh thánh giải thích chiến tranh là “công
cụ của Thượng đế” để đấu tranh chống lại “cái xấu” và “trừng trị kẻ phạm tội”.
Mục đích của họ là bảo vệ cho sự tồn tại của nhà thờ và tôn giáo.
Tóm lại, trong các tác phẩm của các nhà tư tưởng Hy Lạp cổ chỉ có một

số rất ít các nhà tư tưởng vận dụng phép biện chứng (mặc dù tự phát) để phân
tích, đánh giá các hiện tượng chiến tranh. Phần lớn các quan điểm, tư tưởng đều
giải thích hiện tượng chiến tranh một cách siêu hình, phiến diện, thậm chí duy
-7-


tâm, họ không chú ý đến các điều kiện lịch sử - cụ thể, không nhận thấy hoặc lờ
đi tính giai cấp của hiện tượng trên. Do đó, họ đã rút ra các kết luận mang tính
thiển cận hoặc không tưởng [27; 23].
Phải thấy rằng, sau này, đến thời kỳ hình thành và phát triển chủ nghĩa tư
bản, những tri thức về chiến tranh mới được phân tích có hệ thống và hình thành
những xu hướng nhất định. Tư tưởng duy vật trong giai đoạn này giữ vai trò
quan trọng trong việc chuẩn bị tư tưởng cho cuộc cách mạng tư sản châu Âu, nó
hướng vào chống lại các quan điểm tôn giáo, phong kiến, xác lập thế giới quan
duy vật để xem xét và giải quyết các vấn đề chính trị- xã hội, trong đó có vấn đề
chiến tranh.
Ở giai đoạn đầu của lịch sử phát triển chủ nghĩa tư bản, quy mô chiến
tranh ngày càng phát triển, hậu quả chiến tranh nặng nề, giai cấp tư sản buộc
phải cân nhắc cái được và cái mất của chiến tranh, so sánh vai trò của chiến
tranh với hòa bình trong việc thực hiện các mục tiêu chính trị của chúng. Vào
thời kỳ chủ nghĩa tư bản đang phát triển, giai cấp tư sản quan tâm đến việc đình
chỉ các cuộc chiến tranh chém giết lẫn nhau, gìn giữ hòa bình để tạo điều kiện
phát triển kinh tế- xã hội. Điều này đã được phản ánh rõ trong quan điểm của
các nhà tư tưởng thời kỳ này. Êraxmơ Rôttécđam, một nhà văn người Hà Lan
thời kỳ Phục hưng, trong tác phẩm “Lời thỉnh cầu hòa bình” (1517) đã lên án
chiến tranh, thuyết phục mọi người tin rằng hòa bình sẽ đem lại hạnh phúc cho
con người và phồn vinh cho xã hội. Theo ông, chiến tranh có thể chấm dứt được,
bằng việc ra lời kêu gọi về lòng yêu chuộng hòa bình gửi tới những nhà cầm
quyền, yêu cầu họ thực hiện, giải quyết mọi vấn đề tranh chấp biên giới và
hoạch định vĩnh viễn các đường biên giới, tạo xu thế hòa bình chung, đoàn kết

tất cả những người phản đối chiến tranh. Còn nhà triết học, sử học người Đức
Xêbatxchian Phrancơ, trong tác phẩm “Nhật ký chiến đấu vì hòa bình”(1539) đã
viết: “Chiến tranh là trái tự nhiên và phản lý trí”, nó “không thể bị thủ tiêu và
loại trừ chỉ đơn thuần bằng mặt đối lập của nó là hòa bình, cái nóng làm tan cái
lạnh, còn ánh sáng thì xua tan bóng tối. Vì vậy tôi tự trang bị cho mình vũ khí
hòa bình và sẽ đấu tranh cho hòa bình” [27; 25].
-8-


Những ý kiến trên đã đóng vai trò nhất định trong việc phát triển lập
trường tích cực của việc nghiên cứu vấn đề chiến tranh. Tuy nhiên, những ý kiến
đó chưa phân tích được cơ sở sâu xa là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và tách
rời với thực tiễn lịch sử đấu tranh giai cấp trong thời kỳ chuyển biến giữa hai
hình thái kinh tế - xã hội có đối kháng giai cấp. Do vậy, mặc dù lý lẽ của họ rất
sắc sảo, những lời kêu gọi rất dễ thấm vào lòng người, nhưng chiến tranh vẫn
tiếp diễn với quy mô lớn hơn, tính chất ác liệt hơn. Những biện pháp nhằm thiết
lập hòa bình của các nhà nhân văn nêu ra đều không tưởng, thiếu cơ sở khoa học
và cơ sở thực tiễn.
Đối lập với tư tưởng của các nhà nhân văn là tư tưởng biện hộ chiến tranh.
Nicôlô Makiavenli, một chính khách nổi tiếng thời Phục Hưng, trong tác phẩm
“Quân vương” (1613) và nhiều tác phẩm khác đã thể hiện lập trường chính trị của
mình về vấn đề chiến tranh. Ông khẳng định xu hướng xâm lược là hoàn toàn tự
nhiên và hợp quy luật. Ông nêu tư tưởng coi chiến tranh là một trong những
phương tiện kiên quyết nhất để củng cố nhà nước và đạt được những mục tiêu
chính trị chủ yếu một cách “hoàn toàn hợp pháp”, vì vậy nó cần thiết và không thể
loại trừ. Nhưng chiến tranh là phương tiện nguy hiểm, là con dao hai lưỡi, chiến
tranh bắt đầu thì dễ, kết thúc thì khó, do vậy chỉ áp dụng chiến tranh trong những
trường hợp hãn hữu. Ông kết luận, nếu nghĩ rằng có thể kết thúc, chấm dứt chiến
tranh hoàn toàn và vĩnh viễn thì thật ngây thơ, ấu trĩ [27; 26].
Đến lượt G.Grôtxi, nhà triết học, luật học người Hà Lan, trong tác phẩm

chủ yếu của mình “Bàn về chiến tranh và hòa bình” (1625) đã xem xét chiến
tranh dựa trên quan điểm pháp lý. Ông nêu ra quan niệm về “quyền tự nhiên”
bắt nguồn từ bản chất của con người và quyết định quan hệ giữa người với
người. Theo quan niệm này, mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, bất cứ
hành vi bạo lực nào của người này đối với người khác đều là tội ác. Đa số mọi
người đều muốn sống hòa bình và hòa hợp. Con người có lý trí và ngôn ngữ cho
phép họ thỏa thuận với nhau về các nguyên tắc của cuộc sống và chấp hành
nghiêm chỉnh các nguyên tắc đó. Chiến tranh trái ngược với quyền tự nhiên và
vi phạm những nguyên tắc đề ra, do vậy cần phải loại trừ khỏi đời sống xã hội.
-9-


Trong số những nhà tư tưởng thời kỳ này, chúng tôi đặc biệt lưu ý đến
Tômát Hôpxơ (1588-1679) bởi những tư tưởng độc đáo về chiến tranh của ông.
Ông xuất phát từ chỗ cho rằng con người sinh ra là bình đẳng, tức có những khả
năng như nhau về thể chất và trí tụê. Nhưng sự bình đẳng tự nhiên cũng sinh ra
những khả năng tự nhiên của con người để đạt tới cùng các mục đích giống
nhau. Để đạt tới các mục đích này, con người thường xuyên gây chiến với nhau.
Từ đó ông đưa ra luận điểm: trạng thái tự nhiên của con người là trạng thái chiến
tranh cuả mọi người chống lại nhau. Trong cuốn “Lêviaphan”(1651), ông nêu ra
thuyết “Khế ước xã hội”. Ông cho rằng chiến tranh phù hợp với bản chất con
người. Ông viết: “Chiến tranh chống lại nhau của mọi người là trạng thái khởi
thuỷ của xã hội. Cạnh tranh không tin tưởng và hám danh là những nguyên nhân
không thủ tiêu được của chiến tranh. Nhưng ông cũng phải thừa nhận chiến
tranh là tai hại. Bởi vì trong trạng thái như vậy không có chỗ dành cho tình yêu
lao động, không ai được đảm bảo sẽ được hưởng thụ thành quả buôn bán, những
công việc khác, không có phương tiện để luân chuyển đòi hỏi phải có thời gian,
nghề thủ công, văn học, không có xã hội, và điều tồi tệ nhất là nỗi sợ hãi vĩnh
cửu và mối nguy hiểm thường trực của cái chết do bạo lực, và cuộc sống của
con người cô độc, nghèo nàn, u ám, đen tối, và ngắn ngủi” [30; 152]. Như vậy,

trong điều kiện xảy ra chiến tranh, người ta không thể tiến hành cả sản xuất,
buôn bán và làm nghệ thuật, cho nên phải lấy “Khế ước xã hội” quy định dùng
một phần quyền tự do và quyền của mình cho nhà nước để thiết lập trật tự và
hòa bình chung. Đó là bước đầu tiên để hạn chế chiến tranh. Song, chiến tranh
vẫn tiếp tục xảy ra do những vi phạm công ước xã hội. Vì vậy, bước tiếp theo là
phải cưỡng bức mỗi người, mỗi nhà nước chấp hành nghiêm chỉnh những yêu
cầu của công ước xã hội. Những yêu cầu đó bao gồm: Ký hòa ước và thực hiện
hòa ước; thực hiện mọi điều cam kết đã ký; thừa nhận mọi người về bản chất là
bình đẳng; hạn chế hợp lý những ham muốn và nguyện vọng của mình; chú ý tới
nguyện vọng của người khác; không gây thù hằn đối với người khác; lấy thiện
trả thiện. Ở đây, thực chất Hôppxơ đã quy những luật tự nhiên về những chuẩn
mực đạo đức. Đặc biệt, khi xác định nhà nước là thiết chế trong đó mỗi người
- 10 -


đều được đảm bảo an ninh hợp lý từ phía những người khác, Hôppxơ đã gán cho
con người nghĩa vụ đạo đức đối với nhà nước. Về thực chất, quy tắc ứng xử của
cá nhân cũng được phổ biến vào điều kiện sinh hoạt xã hội và vào việc đảm bảo
hòa bình. Như vậy, một lần nữa theo Hôppxơ, phải thừa nhận chiến tranh là cái
đi đồng hành với loài người, và phương tiện duy nhất để loại bỏ nó chính là
những quy tắc đạo đức được trình bày trong các cuốn sách kinh. Khiếm khuyết
của quan điểm này là ở chỗ không xác định rõ cần phải đưa cái gì vào những
quy định đạo đức. Các nhà chính khách coi đạo đức là đồng nhất với luật pháp
và áp dụng những luật phục vụ lợi ích của họ một cách có hại cho lợi ích của
những người khác; sau đó các chính khách này coi luật pháp phục vụ lợi ích của
chúng là luật pháp bắt buộc về mặt đạo đức đối với mọi người.
P.Holbach (1723-1789) đã phê phán luận điểm của Hobbes về chiến tranh
chống lại nhau của mọi người như là trạng thái tự nhiên của con người vì nói
chung không có trạng thái như vậy. Ông lên án dữ dội chiến tranh là cái đem lại
những tổn thất nặng nề cho các dân tộc tham chiến. Ông gán ghép nguyên nhân

làm phát sinh chiến tranh cho các quốc vương sẵn sàng hy sinh mạng sống của
những người khác vì các mục đích vị kỷ của bản thân mình. Theo ông, các quốc
vương thường xuyên tiến hành mở rộng biên giới của mình, không bao giờ suy
nghĩ về việc cải thiện cuộc sống của thần dân mình. Họ thực tế nô dịch không
những các dân tộc khác mà cả dân tộc mình vì họ tiêu phí những khoản kinh phí
khổng lồ cho việc tiến hành chiến tranh mà lẽ ra thì có thể sử dụng cho các mục
đích khác. P.Holbach nhận thấy động cơ của những kẻ xâm lược là ở thói lười
biếng, ở sự không có năng lực và sự dốt nát trong việc điều hành công việc nhà
nước. Lên án chiến tranh, Holbach đồng thời cũng bảo vệ chiến tranh chính
nghĩa mà mục đích là việc bảo vệ chủ quyền dân tộc.
Nói đến những nhà lý luận về chiến tranh cũng không thể không nhắc đến
tên tuổi của R.Malthus (1766 - 1834). Ông là nhà kinh tế học, nhà lý luận về dân
số người Anh. Ông đã phân tích một cách có phê phán các thuyết không tưởng
xã hội, các tư tưởng cải tổ xã hội loài người về mặt chính trị và xã hội trong
tương lai, tập trung vào vấn đề các quyền con người, đạt tới phúc lợi chung, tiến
- 11 -


bộ khoa học và xã hội. Theo ông, tất cả mọi hiện tượng xã hội đều căn cứ trên
các luật tự nhiên. Để luận chứng cho “quy luật dân số”, Malthus sử dụng dữ liệu
thống kê và kết luận của các bậc tiền bối trong lĩnh vực nghiên cứu này: R .
Wolles (bức tranh về sự suy thoái của xã hội không tưởng thịnh vượng do tác
động của những chuyển biến về dân số), J.Stuart, J.Taunsend v.v. Tuy nhiên,
thực chất, định hướng và mục đích của tác phẩm “Lược khảo về luật dân số như
nó tác động đến sự hoàn thiện xã hội trong tương lai” (1798) là sâu sắc và
nghiêm túc hơn nhiều. Malthus đã đưa ra hai luận điểm: 1) thức ăn (rộng hơn là
phương tiện bảo đảm sự sống) là cần thiết cho con người; 2) sự cuốn hút lẫn
nhau giữa các giới là tất yếu và không suy giảm trong suốt toàn bộ quá trình tồn
tại của loài người. Mức gia tăng phương tiện đảm bảo sự sống (sản phẩm sản
xuất nông nghiệp) diễn ra chậm hơn (lúc đầu Malthus so sánh sự gia tăng

phương tiện đảm bảo sự sống và sự gia tăng dân số như cấp số cộng với cấp số
nhân; sau đó ông khước từ cách so sánh này) so với tái sản xuất mở rộng dân số.
Trước khi có những thống kê về dân số ở phương Tây thế kỷ 19, điều này chưa
thể hiện rõ. Nhiều chính phủ khuyến khích gia tăng dân số. Các nhà không
tưởng cho rằng vấn đề dân số thừa chỉ trở nên cấp bách sau hàng nghìn năm.
Malthus gắn liền sự mất cân đối này với tính tất yếu tồn tại của cảnh bần cùng,
áp lực mang tính làm suy đồi ngày một gia tăng này đến cuộc sống và văn hoá
của quần chúng nhân dân (sự gia tăng phúc lợi của nhà nước hoàn toàn không tỷ
lệ thuận với việc nâng cao phúc lợi của mỗi cư dân). Chỉ có việc xoá bỏ dân số
thừa tương đối (Malthus không sử dụng thuật ngữ này, nhưng thực chất của nó
là như vậy) trong mỗi nhà nước, trong mỗi khu vực địa lý mới cho phép chặn
đứng việc tái tạo sự bần cùng. Lần đầu tiên trên các phương tiện lý luận, phương
pháp luận và thực tiễn, Malthus đã nghiên cứu vần đề về các hình thức (tác động
mang tính phá huỷ của các quá trình tự nhiên tự phát và bệnh tật; các biện pháp
văn hoá sắc tộc nhằm hạn chế tỷ lệ sinh đẻ) và các phương tiện ( hạn chế có ý
thức) tối ưu hoá tỷ lệ sinh đẻ. Các tác phẩm của Malthus đã bị xuyên tạc đáng kể
khi người ta vô tình hay hữu ý đã gắn liền ông với việc luận chứng không những
cho tính tất yếu mà thậm chí còn cả tính “ nhân văn” của chiến tranh. Trong khi
- 12 -


đó thì những nghiên cứu của ông không hẳn đề cập tới vấn đề này, mà chúng
còn cho phép coi Malthus là ông tổ của các ngành khoa học như dân tộc học,
sinh thái học, địa lý học con người, thống kê học dân số, xã hội học
Vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, triết học cổ điển Đức đạt được
một sự phát triển đáng ghi nhận. Các đại biểu tiêu biểu của triết học giai đoạn
này như I. Cantơ (1724- 1804) và G. Hêghen (1770- 1831) đã có những đóng
góp quan trọng trong việc xem xét, đánh giá hiện tượng chiến tranh.
Trong tác phẩm “Tiến tới một nền hòa bình vĩnh viễn” (1795), I.Cantơ
nhận định chiến tranh là bạn đường thường xuyên của toàn bộ lịch sử hiện nay.

Nhưng nhờ lý trí và làm theo nghĩa vụ bằng con đường thi hành nhiều cuộc cải
cách thường xuyên, loài người sẽ đi tới một nền hòa bình vĩnh cửu. Con đường
đó bao gồm: thiết lập chính quyền dân chủ ở mỗi nước, trong đó vấn đề chiến
tranh và hòa bình không phải chỉ do chính phủ mà do tất cả mọi công dân quyết
định; đề ra luật pháp quốc tế nhằm giữ gìn hòa bình; xây dựng khối liên minh tự
nguyện của tất cả các nước nhằm mục đích duy trì mối quan hệ hòa bình giữa
các nước; thủ tiêu sự bất bình đẳng giữa các dân tộc và chủ nghĩa thực dân, thi
hành chế độ quốc tịch toàn thế giới đối với mọi người; mỗi công dân, mỗi nước
đều tuân thủ nguyên tắc đạo đức chung; hãy làm như anh muốn để người khác
cũng làm như anh. Quan niệm của I.Cantơ có tiến bộ nhưng còn mang tính trừu
tượng, hình thức, phi lịch sử.
G.Hegel đã phê phán tư tưởng của I.Cantơ về một nền hòa bình vĩnh viễn.
Ông tuyệt đối hóa vai trò của chiến tranh, cho rằng không nên chỉ xem xét chiến
tranh như là cái ác tuyệt đối hay chỉ như là một sự ngẫu nhiên bên ngoài. Ông
nhận thấy cơ sở của chiến tranh là khát vọng của các nhà cầm quyền và của các
dân tộc. Hegel ủng hộ quyền lực nhà nước mạnh mà sự vắng mặt của nó, theo
ông, sẽ dẫn tới việc làm cho xã hội và nhà nước bị tan rã. Do vậy ông khẳng
định rằng, chiến tranh góp phần thiết lập quyền lực mạnh và làm lành mạnh xã
hội. Hegel cho rằng đời sống công dân vào thời hòa bình mở rộng ra, con người
bị sa xuống vũng lầy, đánh mất những đặc điểm riêng biệt của họ, ngày càng ít
bộc lộ những đặc điểm độc đáo của họ. Xã hội bắt đầu trở nên giống như con
- 13 -


người bệnh hoạn. Sức khỏe đòi hỏi sự thống nhất các bộ phận, nhưng khi các bộ
phận trở nên cứng đờ, thì cái chết sẽ bắt đầu. Các cuộc chiến tranh thắng lợi
không cho phép sự vô tổ chức trong nước phát triển mà lại củng cố quyền lực
nhà nước. Nhưng xét đến cùng, Hegel cũng không phải là người biện hộ chiến
tranh. Thứ nhất, cần phải gắn liền quan điểm chiến tranh của Hegel với học
thuyết của ông về mâu thuẫn như là nguồn gốc của phát triển; thứ hai, không

nên lãng quên hoàn cảnh lịch sử cụ thể gắn liền với cuộc đời của ông và thời đại
của ông. Hegel rất quan tâm đến bối cảnh chính trị của nước mình, do vậy
những luận điểm cuả ông đã phản ánh một phần bối cảnh đó. Ông cảm nhận rất
sâu sắc tình trạng khủng hoảng của đất nước mình, và đã nhận thấy rằng nước
Đức thậm chí không có khả năng bảo vệ được chủ quyền của mình. Ông nhận
thấy nguyên nhân chủ yếu tạo ra cuộc khủng hoảng của đất nước mình là sự
vắng mặt nước Đức thống nhất cùng với chính quyền tập trung mạnh. Theo
Hegel, sự yếu đuối của nhà nước ngay lập tức bộc lộ ra trong thời chiến, vì chiến
tranh đòi hỏi phải tập trung mọi sức lực. Nó chỉ ra những điểm yếu của nhà
nước và đồng thời đã tạo ra sự cần thiết phải hoàn thiện nhà nước.
Phải thừa nhận rằng, sự ảnh hưởng của triết học cổ điển Đức đến đời sống
tinh thần của xã hội là rất lớn, trong đó có lý luận về chiến tranh của
C.Clauđơvit. Claudơvit (1780-1831) là một nhà lý luận quân sự người Đức đã
biết vận dụng các quan điểm biện chứng vào lý luận quân sự. Ông đã nghiên cứu
chiến tranh trong các mối quan hệ của nó và đi đến kết luận đúng đắn rằng chiến
tranh là một sự tiếp tục chính trị bằng thủ đoạn bạo lực, chính trị làm nảy sinh
chiến tranh, còn chiến tranh là chính trị, là sự thay đổi ngòi bút bằng thanh kiếm.
Theo ông, chiến tranh không xuất hiện một cách bất ngờ mà được các chính phủ
tương ứng chuẩn bị một cách lâu dài khi đang tiến hành một chính sách xác
định. Không nên cho rằng quan hệ chính trị sẽ chấm dứt sau khi khởi xướng
chiến tranh, vì quan hệ ấy thể hiện như là một chỉnh thể, còn chiến tranh là một
bộ phận của chỉnh thể đó. Chiến tranh có những đặc điểm mà chính trị có. Chính
chính trị tạo ra chiến tranh, chứ không phải là ngược lại. Sau khi tuyên bố chiến
tranh, trước khi có những hoạt động quân sự, chính phủ tiến hành một chính
- 14 -


sách xác định nhằm thực hiện lợi ích của mình, và khi nó không đem lại kết quả
mong muốn thì chính phủ chuyển sang hình thức chính trị khác - chiến tranh.
Mục đích của chiến tranh là phá huỷ chính sách của đối phương bằng những

phương tiện quân sự.
Tại thời hiện đại, các cách tiếp cận với việc nhận thức chiến tranh (quan niệm
về chiến tranh như là sự kế tục chính trị bằng những phương tiện khác) đang bị
phê phán dựa trên cơ sở cho rằng không có kẻ chiến thắng và người chiến bại
trong trường hợp sử dụng vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, ngoài chiến tranh hạt
nhân, những cuộc chiến tranh thông thường vẫn đang diễn ra trên thế giới.
Trong thời đại toàn cầu hóa, cần ý thức được rằng bất kỳ cuộc chiến tranh nào
(hơn nữa là chiến tranh hạt nhân) cũng có thể đem lại những hậu quả thảm hại
cho tương lai của toàn bộ nền văn minh nhân loại.
Nhiều người nhất trí với vị tướng người Mỹ thời nội chiến Uliam Cherman
rằng, chiến tranh là âm phủ. Do vậy chiến tranh chính nghĩa là một trò hề. Do
những tội ác của chiến tranh nên việc mô tả nó như là cái phục vụ các mục đích
nhân từ trở nên mâu thuẫn với bản thân thuật ngữ. Nhưng nếu chúng hoàn toàn
không phục vụ cái thiện thì các quốc gia đã không tiến hành chiến tranh. Cần
phải làm sáng tỏ cái gì là mục đích của chiến tranh, bản thân mục đích này có
thể là mục đích tốt đẹp hay không. Cũng có ý kiến cho rằng con người sinh ra đã
là hiếu chiến, nếu điều này là như vậy thì không còn gì để nói về chiến tranh
chính nghĩa hay chiến tranh phi nghĩa.
Một vấn đề thực sự phức tạp là: cái gì xảy ra với đạo đức khi các luật bị
xâm phạm, còn các thoả thuận không được thực hiện? Vì khó có thể chứng minh
tính hiếu chiến của con người theo con đường kinh nghiệm, nên có một quan
điểm có triển vọng hơn là quan điểm cho rằng bản tính con người rất linh hoạt,
có tiềm năng thực hiện hành vi cao thượng cũng như hành vi hiếu chiến. Chúng
ta không thể có một quan điểm thống nhất về hành vi đạo đức và hành vi chính
trị, nhưng chúng ta có thể hợp nhất thành một cộng đồng hay là phân chia ra
thành những kẻ thù của nhau. Đạo đức đánh giá những quyết định chúng ta
thông qua từ góc độ phù hợp giữa những hành vi của chúng ta với các chuẩn
- 15 -



mực đạo đức. Không một hành vi nào nằm ngoài những phán đoán đạo đức. Do
vậy chúng ta là thực thể chính trị và thực thể đạo đức.
Theo quan điểm này, chiến tranh không thể được tách rời khỏi nội dung đạo
đức. Người ta thường phán xét về chúng hoặc là dựa vào các mục đích và các chủ ý
mà theo đó chúng được tiến hành, hoặc là dựa vào các kết quả mà chúng dẫn đến.
Như vậy, với toàn bộ tính chất độc ác của mình, chiến tranh có thể là chính nghĩa
nếu phương thức tiến hành chúng là thoả đáng về mặt đạo đức.
Quan điểm về chiến tranh chính nghĩa nảy sinh từ quan điểm trung cổ về
luật tự nhiên gần gũi với quan điểm nghĩa vụ luận. Quan điểm này đưa ra hàng
loạt điều kiện mà theo đó thì chiến tranh sẽ là chính nghĩa. Chúng ta sẽ đề cập
tới quan điểm đạo đức về chiến tranh chính nghĩa đã từng thống trị một thời gian
dài ở phương Tây.
Nghĩa vụ luận bắt nguồn từ Kant. Kant xem nghĩa vụ là cái giống như luật,
không cho phép có ngoại lệ. Ông khẳng định: "Tôi không bao giờ hành động để
tôi không muốn quy tắc của tôi trở thành luật chung". Tiếp theo Kant chứng
minh rằng mọi người có lý tính đều có địa vị như nhau và không một ai khác có
thể bị sử dụng để đạt tới mục đích của bạn. Ông nói, hãy hành động như sao đó
để bao giờ cũng xem người khác là mục đích chứ không phải chỉ là phương tiện.
Chiến tranh đòi hỏi phải huỷ diệt con người. Đây là thành tố độc ác của
chiến tranh. Vậy có thời điểm nào mà việc sát hại người khác là có căn cứ? Việc
sát hại nhằm mục đích tự vệ là trường hợp rõ ràng nhất. Kant khẳng định rằng
tất cả chúng ta có nghĩa vụ phải bảo vệ sự sống của mình. Quy tắc này có thể trở
thành luật phổ biến. Song việc sát hại người khác nhằm mục đích bảo vệ sự sống
của bản thân mình thể hiện là việc lĩnh hội người khác với tư cách phương tiện
cứu thoát bản thân mình.
Một trong các phương thức để thoát ra khỏi trở ngại này là xác định chính
xác các thuật ngữ. Để cho phép sát hại nhằm mục đích tự vệ, chúng ta cần phải
phân biệt việc tước đoạt sự sống và việc sát hại. Sát hại được coi là việc tước
đoạt sự sống của người vô tội, do vậy việc sát hại là hành vi bị cấm ở khắp mọi
nơi, chứ không phải là việc tước đoạt sự sống bị cấm. Chúng ta sẽ xem con

- 16 -


người là mục đích, nếu không bao giờ sát hại những người vô tội. Khi đó các
cuộc chiến tranh được tiến hành để tự vệ chống lại binh lính - những kẻ xâm
lược của quân địch sẽ được minh biện về mặt đạo đức, vì binh lính xâm lược
không phải là vô tội. Trong trường hợp này, chiến tranh tự vệ là chấp nhận được
về mặt đạo đức xét theo quan điểm nghĩa vụ luận, nếu như không có những sự
kiện, như chiến tranh thế giới thứ hai hay chiến tranh của Mỹ tại Triều Tiên, đã
sát hại nhiều triệu người. Chiến tranh hiện đại dường như hàm ý chỉ vừa là việc
tước đoạt sự sống nhằm mục đích tự vệ, cũng như là sự tước đoạt không chấp
nhận được sự sống của những những người vô tội.
Một số nhà tư tưởng khẳng định rằng việc cải biến công thức "không sát
hại" thành công thức "không sát hại người vô tội" là không chấp nhận được vì
nó gây ra nhiều vấn đề trong việc xác định thuật ngữ "vô tội". Số khác lại cho
rằng cho phép việc sát hại một số lượng người vô tội ở thời chiến là không đúng
xét từ góc độ đạo đức. Các nhà tư tưởng này đưa ra các hình thức khác nhau của
chủ nghĩa hoà bình (Gandi, L.Tônxtôi), vì họ cho rằng bạo lực lại sinh ra bạo lực
và phương thức duy nhất để ngăn chặn bạo lực là sử dụng các phương tiện phi
bạo lực nhằm giải quyết xung đột. Sự quan tâm chủ yếu được dành cho hoạt
động tạo dựng hoà bình và quan hệ bình đẳng giữa người với người. Song các
nhà chính khách lại thường bác bỏ chủ nghĩa hòa bình với tư cách một học
thuyết đạo đức có sức sống, do vậy chúng ta chuyển sang xem xét lý thuyết khác
về chiến tranh chính nghĩa.
Thậm chí khi có tính đến sự cấm đoán về mặt đạo đức đối với việc sát hại
những người vô tội trong lúc tước đoạt sự sống nhằm mục đích tự vệ thì sự minh
biện cho chiến tranh vẫn chưa rõ ràng. Trong trường hợp "không sát hại", luận
điểm của Kant về tính không cho phép có ngoại lệ đối với mệnh lệnh đạo đức
giống như luật của ông cũng đánh giá mọi cuộc chiến tranh là vô đạo đức. Trong
suốt lịch sử, đa số các cuộc chiến tranh đều đòi hỏi phải sát hại những người lính

vô tội của cả hai bên. Do vậy cách tiếp cận của Kant là không chấp nhận được
để minh biện cho chiến tranh sát hại những người vô tội.

- 17 -


Có một cách tiếp cận khác mà đôi khi lại cho phép có sự sát hại những
người vô tội trong khuôn khổ của đạo đức. Lý luận này bắt nguồn từ đạo đức
học trung cổ về luật tự nhiên. Augustin và Thomas Aquins đã đưa ra lý luận về
chiến tranh chính nghĩa, lý luận này căn cứ trên nguyên tắc hai kết quả. Theo
nguyên tắc này, hành vi có hai kết quả đối lập, một là tốt và một là xấu, có thể
được cho phép trong một số hoàn cảnh, với điều kiện cơ sở của nó chỉ là một
mục đích tốt đẹp. Một điều hoàn toàn dễ hiểu là kết quả xấu không được dự định
từ trước, mặc dù có thể tiên đoán nó.
Nguyên tắc hai kết quả cho phép hành vi với kết quả có đạo đức ở chừng
mực chúng đáp ứng bốn điều kiện là:
1) hành vi là hành vi tốt đẹp loại trừ kết quả xấu;
2) người hành động, cho dù là cá nhân hay nhà nước, cần phải có chủ ý tốt đẹp;
3) kết quả xấu không được trù tính trước như là phương tiện đạt tới kết quả tốt;
4) hành vi cần phải tỷ lệ với cái thiện cần tìm kiếm.
Học thuyết về chiến tranh chính nghĩa như một trường hợp riêg biệt của
nguyên tắc hai kết quả cũng có những điều kiện của mình. Điều kiện thứ nhất là
luận cứ xác đáng, tức kết quả hay mục đích tốt đẹp của hành vi phải là xác đáng.
Điều kiện thứ hai là chủ ý tốt đẹp. Điều kiện thứ ba là phân biệt hành vi sát hại
người vô tội với hành vi sát hại người có tội trong quá trình tiến hành hoạt động
quân sự. Việc sát hại người vô tội là kết quả tai hại của chiến tranh và không thể
được trù tính như phương tiện đạt tới kết quả tốt đẹp là bảo vệ con người khỏi sự
tấn công. Điều kiện thứ tư là tính tỷ lệ thuận, tức hành vi phòng ngự phải tỷ lệ
thuận với kết quả tốt đẹp cần tìm. Và điều kiện thứ năm là tính hợp pháp của
chính quyền, nó đòi hỏi nhóm tự vệ, tức nhà nước hay dân tộc, hành động dưới

sự lãnh đạo của chính quyền hợp pháp. Như vậy, chiến tranh phòng vệ được coi
là chính nghĩa khi nó đáp ứng tất cả năm yêu cầu nêu trên.
Nhìn chung, những quan điểm trước C.Mác về chiến tranh đều xuất phát
từ lập trường trừu tượng, phi lịch sử và siêu giai cấp. Vấn đề nguồn gốc, bản
chất và vai trò xã hội của chiến tranh không được nhận thức một cách đúng đắn.
Do phụ thuộc vào trình độ phát triển của thế giới quan, phương pháp luận mà
- 18 -


việc đánh giá các hiện tượng lịch sử về chiến tranh còn hời hợt, phiến diện. Tư
tưởng về tính tất yếu phải loại trừ chiến tranh ra khỏi đời sống xã hội là tiến bộ,
nhưng do hạn chế lịch sử nên cách phân tích của các nhà tư tưởng trước C.Mác
dựa trên quan điểm của chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, siêu giai cấp và phi lịch
sử. Do vậy, con đường để đạt đến hoà bình vĩnh viễn mà họ đề xuất là không
tưởng, hình thành hai khuynh hướng cơ bản, đối lập nhau trong lịch sử tư
tưởng: lên án chiến tranh, phủ nhận tính chất vĩnh viễn của chiến tranh, tuyên
truyền cho hoà bình, coi đó là điều kiện tất yếu của tiến bộ và khẳng định tính
tất yếu của chiến tranh, coi chiến tranh là động lực chủ yếu của lịch sử, hoài
nghi khả năng hoà bình bền vững và vĩnh viễn. Tuy còn nhiều hạn chế trong
phân tích về chiến tranh, một số quan điểm hợp lý, đúng đắn của các nhà triết
học và khoa học trong lịch sử đã đặt tiền đề về lý luận để C.Mác, Ph. Ăngghen
và V.I.Lênin thực hiện cuộc cách mạng trong lý luận về chiến tranh và bảo vệ
tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
1.2

Quan điểm Mac xit về chiến tranh
Sự xuất hiện học thuyết Mác- Lênin về chiến tranh đánh dấu bước ngoặt

mang tính cách mạng trong lý luận triết học về chiến tranh. Trên cơ sở kế thừa
có phê phán các quan điểm trong lịch sử, cùng với việc nghiên cứu trực tiếp thực

tiễn các cuộc chiến tranh trong thời điểm những năm cuối thế kỷ XVIII đầu thế
kỷ XIX, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác đã đưa ra quan điểm về vấn đề này
một cách có hệ thống.
Chiến tranh được xem là một hiện tượng chính trị - xã hội mang tính lịch
sử được thể hiện bằng cuộc đấu tranh vũ trang giữa các tập đoàn người trong
một nước, hoặc liên minh các nước nhằm đạt tới những mục đích chính trị nhất
định. Chiến tranh là kết quả những quan hệ giữa người với người trong xã hội.
Nhưng nó không phải là những mối quan hệ giữa người với người nói chung,
mà là mối quan hệ giữa những tập đoàn người có lợi ích cơ bản đối lập nhau,
nhằm giành, giữ và sử dụng chính quyền nhà nước. Nhưng khác với các hiện tượng
chính trị xã hội khác, chiến tranh được thể hiện dưới hình thức một cuộc đấu tranh
vũ trang. Đó là hai đặc trưng cơ bản mang tính phổ biến của mọi cuộc chiến tranh,
- 19 -


có thể coi các đặc trưng đó là dấu hiệu để phân biệt chiến tranh với các hiện tượng
xã hội khác, như hiện tượng hoà bình, hiện tượng xung đột vũ trang.
Về nguồn gốc xuất hiện chiến tranh, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác- Lênin chứng minh rằng chiến tranh là một hiện tượng lịch sử. Trong thời
kỳ công xã nguyên thuỷ- giai đoạn đầu tiên của tiến bộ xã hội có đặc trưng là
trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, tổ chức xã hội sơ khai, con người hoàn
toàn phụ thuộc vào tự nhiên. Nguồn gốc cơ bản của sự tiến triển của bản thân cơ
cấu xã hội nguyên thuỷ là cuộc đấu tranh giữa nhân tố tự nhiên và nhân tố lịch
sử - xã hội, giữa con người với giới tự nhiên bao quanh họ. Những mâu thuẫn và
xung đột giữa các bộ lạc, kể cả xung đột vũ trang đều chỉ là thứ yếu. Môi trường
tự nhiên đứng trước con người như một lực lượng hung ác, thù địch, mà muốn
chống lại nó, con người chỉ có cách là đoàn kết chặt chẽ lại. Vì vậy, C.Mác coi
“các cuộc chiến tranh cổ đại” là một trong những hình thức lao động nguyên
thuỷ. Xung đột vũ trang của các bộ lạc nguyên thuỷ là một bộ phận của cuộc đấu
tranh chung của con người để tạo điều kiện sinh tồn, để thoả mãn các nhu cầu

kinh tế. Điều đó khẳng định rằng, chiến tranh không phải đã xuất hiện ngay từ
đầu như trong quan niệm của những nhà tư tưởng tư sản, mà chỉ đến một giai
đoạn lịch sử nhất định, khi năng suất lao động đã đến mức có khả năng thu được
sản phẩm thặng dư, thì mới xuất hiện nguồn gốc kinh tế của bạo lực xã hội và
bất bình đẳng xã hội. Khi đã xuất hiện chế độ tư hữu, giai cấp và nhà nước, thì
chiến tranh đã trở thành phương tiện và công cụ quan trọng nhất để nô dịch các
dân tộc khác, để củng cố địa vị thống trị của chúng ở trong nước. Như Ph.
Ăngghen đã nêu rõ, trước đây tấn công vũ trang chỉ được tiến hành “để trả thù
những vụ chiếm đoạt hoặc để mở rộng một lãnh thổ đã trở nên chật hẹp, thì bây
giờ nó được người ta tiến hành chỉ nhằm mục đích cướp bóc; chiến tranh đã trở
thành một nghề thường xuyên” [53; 384]. Thực tiễn cho thấy, mọi cuộc chiến
tranh trong giai đoạn này, không có ngoại lệ, đều là kết quả trong xã hội có bóc
lột. Chế độ áp bức bóc lột càng hoàn thiện thì chiến tranh càng phát triển.
Những tham vọng kinh tế của các giai cấp bóc lột được bảo đảm thông qua việc
thi hành đường lối chính trị phù hợp. V.I. Lênin viết: “Chính trị là sự biểu hiện
- 20 -


tập trung của kinh tế” [50; 349]. Luận điểm đó là chìa khoá để phân tích và nhận
thức chiến tranh như một hiện tượng chính trị- xã hội, một hiện tượng diễn ra do
sự tồn tại của xã hội bóc lột. Theo đó, chúng ta cũng có thể suy luận, đến một
giai đoạn lịch sử nhất định khi nhà nước, giai cấp không còn thì chiến tranh
cũng vĩnh viễn đi vào lịch sử.
Nói về vấn đề nguồn gốc của chiến tranh cũng cần phân biệt, tránh đồng
nhất nguồn gốc với nguyên nhân của chiến tranh. Nguyên nhân của chiến tranh
bao giờ cũng là nguyên nhân của một cuộc chiến tranh cụ thể, gắn liền với
những không gian, thời gian xác định. Nhưng chiến tranh bao giờ cũng là hiện
tuợng phức tạp, phong phú cho nên sự ra đời của nó là kết quả tổng hợp của hệ
thống các nguyên nhân. Các nguyên nhân này được phân chia theo các cấp độ
sau khác nhau. Bao gồm: các nguyên nhân cơ bản, là sự tác động của phương

thức sản xuất bóc lột với những hiện tượng chính trị - xã hội do phương thức đó
đẻ ra dưới hình thức bạo lực vũ trang của giai cấp (nhà nước). Đây là nguyên
nhân giữ vai trò quyết định đến sự xuất hiện chiến tranh. Không có nguyên nhân
này, sẽ không có bất cứ cuộc chiến tranh nào. Cấp độ thứ hai là nguyên nhân đặc
thù, là sự vận động của nguyên nhân cơ bản trong điều kiện lịch sử cụ thể.
Trong khuôn khổ tính tất yếu lịch sử do những nguyên nhân cơ bản quy định,
các sự kiện cũng không lặp lại và biểu hiện của chúng cũng không giống nhau.
Một tình huống cụ thể biểu hiện mức độ gay gắt và chín muồi của các nguyên
nhân cơ bản có thể trực tiếp dẫn đến chiến tranh hoặc cũng có thể cho phép
tránh được chiến tranh. Điều đó tùy thuộc vào tính chất và phương hướng nỗ lực
của quần chúng, của các giai cấp, đảng phái, mà thông qua hoạt động của họ có
thể đẩy nhanh hoặc ngăn chặn chiến tranh. Cuối cùng, cấp độ nguyên nhân đơn
nhất là sự tác động của nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân đặc thù với các yếu tố
cá biệt như: hoạt động của các lãnh tụ, các tập đoàn xã hội trong các tình huống
đặc biệt, các yếu tố ngẫu nhiên… Những nguyên nhân này không đóng vai trò
quyết định trong quá trình phát sinh chiến tranh, nhưng trong từng trường hợp
nó làm cho quá trình đó có sắc thái riêng, dường như bổ sung cho quá trình đó
và thông qua cái riêng mà cụ thể hóa thêm nguyên nhân cơ bản. Hơn nữa, sự tác
- 21 -


động của các cá nhân, các tập đoàn xã hội, những tình huống đặc biệt có thể kìm
hãm hay đẩy nhanh, làm suy yếu hay tăng cường sự tác động của nguyên nhân
cơ bản.
Những nguyên nhân làm nảy sinh chiến tranh luôn tác động lẫn nhau
trong một thể thống nhất. Mối quan hệ và sự biểu hiện của chúng trong mỗi
cuộc chiến tranh là không hoàn toàn giống nhau, song trong bất cứ cuộc chiến
tranh nào thì nguyên nhân cơ bản vẫn luôn đóng vai trò quyết định. Mặt khác,
nguyên cứu hệ thống nguyên nhân của chiến tranh còn giúp chúng ta thấy rõ cơ
chế ngăn ngừa chiến tranh. Đó chính là cơ sở để xây dựng niềm tin vào công

cuộc bảo vệ hòa bình, chống lại có hiệu quả tư tưởng coi chiến tranh như một
định mệnh không tránh khỏi [27; 75-76].
Trong lý luận Mác- Lênin về chiến tranh, vấn đề bản chất của chiến tranh
cũng chiếm một vị trí rất quan trọng. Việc làm này đối với V.I.Lênin không phải
là việc dễ dàng bởi vì mục đích của chiến tranh không phải bao giờ cũng được
tuyên bố công khai. Cho nên nếu chỉ khảo sát nắp tư tưởng bên ngoài của chiến
tranh mà không đi sâu nghiên cứu bản chất của thứ chính trị dẫn đến cuộc chiến
tranh đó thì không thể nhận thức được nguyên nhân và bản chất của một cuộc
chiến tranh ăn cướp.
Vấn đề bản chất của chiến tranh được các nhà kinh điển chủ nghĩa MácLênin trình bày trong rất nhiều tác phẩm, trước hết là tác phẩm “Sự phá sản của
Quốc tế II” (1915) và tác phẩm “Chiến tranh và cách mạng” (1917), V.I.Lênin
đã nêu ra yêu cầu cơ bản về phương pháp luận đối với việc phân tích bản chất xã
hội của chiến tranh là nhất thiết phải có quan điểm chính trị - giai cấp nhất quán
khi xem xét chiến tranh với tính cách là một hiện tượng lịch sử cụ thể. Khi trả
lời cho câu hỏi làm thế nào để tìm ra bản chất thực sự của chiến tranh, Người đã
trả lời: “Chiến tranh là tiếp tục của chính trị. Phải nghiên cứu chính trị được tiến
hành trước chiến tranh, chính trị đang dẫn đến và đã dẫn đến chiến tranh” [45;
106]. Chẳng hạn như khi nhận định về bản chất chiến tranh thế giới thứ nhất,
V.I.Lênin nói: “Chính toàn bộ đường lối chính trị của toàn bộ hệ thống các quốc
gia châu Âu trong những mối quan hệ kinh tế và chính trị của các quốc gia đó,
- 22 -


×