Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

in de cuong dap an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.81 KB, 13 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN PPNCKH
Câu 1: Trên cơ sở phân loại khoa học và các giai đoạn phát triển, anh/chị nhận
thức được vấn đề gì? (Trang 9-12)
Phân loại khoa học để giúp chúng ta hiểu khoa học một cách hoàn chỉnh, hệ thống và
dễ dàng xác định đối tượng nghiên cứu của các bộ môn khoa học, thấy được vị trí của mỗi
bộ môn khoa học trong hệ thống các khoa học và mối tương quan giữa chúng. Phân loại
khoa học là ngôn ngữ chung thống nhất trong trao đổi tri thức và tìm kiếm thông tin. Giúp
chúng ta hoạch định các lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp, xác định hệ thống các chương
trình đào tạo cho các ngành nghề…
* Có nhiều cách phân loại khoa học như:
- Phân loại khoa học theo cách hình thành khoa học:
+ Khoa học tiên nghiệm: được hình thành trên các tiên đề
+ Khoa học hậu nghiệm: được hình thành trên cơ sở những thí nghiệm, quan sát.
+ Khoa học phân lập: được hình thành do sự phân chia, tách ra từ một bộ môn khoa
học đã có trước đó
+ Khoa học tích hợp: được hình thành do sự liên kết của các bộ môn khoa học một
cách hữu cơ, thống nhất biện chứng
- Phân loại theo đối tượng nghiên cứu: vẽ hình 1.1 trang 10
* Các giai đoạn phát triển của khoa học: vẽ hình 1.2 trang 12
Khoa học phát triển theo một quy luật từ ý tưởng khoa học – hướng khoa học – các
bộ môn khoa học – cách ngành khoa học. Khoa học phát triển từ thực tiễn (trực quan sinh
động – cảm tính) qua tư duy trìu tượng (lý tính) để đến với thực tiễn. Đó là con đường biện
chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức khách quan.
Phân loại khoa học để giúp chúng ta hiểu khoa học một cách hoàn chỉnh, hệ thống và
dễ dàng xác định đối tượng nghiên cứu của các bộ môn khoa học, thấy được vị trí của mỗi
bộ môn khoa học trong hệ thống các khoa học và mối tương quan giữa chúng. Phân loại
khoa học là ngôn ngữ chung thống nhất trong trao đổi tri thức và tìm kiếm thông tin. Giúp
ta hoạch định các lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp, xác định hệ thống các chương trình đào
tạo cho các ngành nghề…
Theo cách hình thành khoa học, xác lập phương thức nghiên cứu tính chất các môn
khoa học theo xu hướng phát triển.


Theo đối tượng nghiên cứu, xác lập tiến trình phát triển và mối quan hệ trong hệ
thống của đối tượng nghiên cứu. Xác lập đối tượng nghiên cứu của khoa học và công nghệ
là tìm ra các nguyên lý, các giải pháp nhằm đưa các thành tựu nghiên cứu phục vụ cho lợi
ích của xã hội loài người
Theo các giai đoạn phát triển của khoa học thì xác lập quá trình phát triển của nhận
thức, hình thành và phát triển của tri thức trong các lĩnh vực khoa học khác nhau.
Câu 2: Các loại hình nghiên cứu? Rút ra ý nghĩa (Trang 15-18)
Nghiên cứu khoa học là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, quy
luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn.
Nghiên cứu khoa học bao gồm: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng.
(Vẽ hình 1.3 trang 18)
1


Qua sơ đồ phân tích người nghiên cứu cần căn cứ vào năng lực thực tế của mình để
xác định loại hình nghiên cứu hợp lý.
* Nghiên cứu cơ bản: là những nghiên cứu phân tích những thuộc tính, cấu trúc, hiện
tượng các sự vật nhằm phát hiện bản chất hoặc quy luật của các sự vật và hiện tượng trong
tự nhiên, xã hội và con người. Sản phẩm của nghiên cứu cơ bản có thể là các loại phát
hiện, phát minh và thường dẫn đến hình thành một hệ thống lý thuyết có ảnh hưởng đến
một hoặc nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Trong nghiên cứu cơ bản có: Nghiên cứu cơ
bản thuần túy (chủ yếu nâng cao sự hiểu biết mở rộng kiến thức) và nghiên cứu cơ bản
định hướng (theo hướng xác định để có thể nghien cứu tiếp ứng dụng vào một hướng khoa
học). Trong nghiên cứu cơ bản định hướng có: Nghiên cứu cơ bản định hướng nền tảng (là
cơ sở, là nền tảng để phát triển khoa học) và nghiên cứu cơ bản định hướng chuyên đề (là
các chuyên đề khoa học cụ thể trong nghiên cứu).
* Nghiên cứu ứng dụng: là sự vận dụng các quy luật từ nghiên cứu cơ bản để đưa ra
những mô tả, giải thích, dự báo hoặc các nguyên lý về các giải pháp, có thể bao gồm công
nghệ, sản phẩm, vật liệu, thiết bị; nghiên cứu áp dụng các kết quả nghiên cứu ứng dụng
vào một môi trường mới của một sự vật và hiện tượng. Sản phẩm của nghiên cứu ứng

dụng có thể là một giải pháp mới về tổ chức, quản lý xã hội hoặc công nghệ, vật liệu, sản
phẩm…
Phân loại các loại hình nghiên cứu để bố trí các loại nguồn lực thích hợp, tránh rủi ro
nhiều, phù hợp từng đối tượng.
Ý nghĩa phương pháp luận chung là xác định rõ mục tiêu, mục đích, phạm vi, nội
dung nghiên cứu và yêu cầu của sản phẩm.
Xác lập được khả năng các tổ chức cá nhân thực hiện các hoạt động nghiên cứu. Dự
báo được khả năng tổ chức thực hiện nghiên cứu tiếp theo phù hợp với khả năng và phù
hợp với điều kiện đảm bảo.
Câu 3: Qua các đặc tính nghiên cứu khoa học bản thân nhận thức được như thế
nào? (Trang 19-22)
Đặc điểm chung nhất của NCKH là tìm tòi nghiên cứu những gì mà người nghiên cứu
chưa biết đầy đủ. Điều này dẫn đến hàng loại các đặc điểm khác nhau của nghiên cứu khoa
học mà người nghiên cứu cũng như người quản lý cần quan tâm xử lý. Đây là ý nghĩa
phương pháp luận về nghiên cứu và quản lý. Các đặc tính cơ bản của nghiên cứu khoa
học:
- Tính mới: NCKH luôn là quá trình hướng tới cái mới, những phát hiện mới hoặc
sáng tạo mới. Đó là tính chất bảo trùm, bất cứ một nghiên cứu nào đều phải sản sinh ra các
tri thực mới đem lại những cống hiến mới cho khoa học làm giầu thêm kho tàng tri thức
nhân loại. Nếu không có cái mới, có những thông tin mới thì không còn gọi là NCKH. Đặc
tính này làm cho hoạt động NCKH khác hẳn với các hoạt động xã hội khác, như các hoạt
động sản xuất hay các hoạt động mang tính kinh tế. Tính mới cũng tuân thủ quy luật vận
động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Ý nghĩa phương pháp luận: NCKH phải có tính mới.
- Tính khoa học: thể hiện ở việc vận dụng các kiến thức khoa học đã được tích luỹ
của loài người trong quy trình nghiên cứu, vận dụng các phương pháp khoa học thích hợp
để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu.
Ý nghĩa: Phải vận dụng linh hoạt các kiến thức khoa học trong nghiên cứu.
2



- Tính sáng tạo: Là tổng hợp một cách đúng đắn các kiến thực khoa học để tiến hành
nhiệm vụ nghiên cứu, vận dụng hợp lý các phương pháp thích hợp với đối tượng và điều
kiện nghiên cứu cụ thể; phát huy cao độ hướng mới trong nghiên cứu; phân tích và đề xuất
các kiến nghị khoa học.
Ý nghĩa: Tổng hợp các kiến thức một cách hợp lý, lo gic, tránh lối mòn
- Tính tin cậy: Kết quả nghiên cứu phải có khả năng kiến dựng lại nhiều lần do người
khác thực hiện trong những điều kiện như nhau và phải cho kết quả như nhau.
Ý nghĩa phương pháp luận: người nghiên cứu phải chỉ rõ các điều kiện, các nhân tố
và phương pháp thực hiện để có thể kiểm chứng, nghiệm thu.
- Tính khách quan: Cùng với tính tin cậy, tính khách quan cũng là một đặc tính, và
là tiêu chuẩn để kiểm chứng, nghiệm thu, nó phản ánh một cách khách quan bản chất của
sự vạt, hiện tượng. Cần trả lời các câu hỏi: Kết quả có thể đạt được bằng phương pháp,
điều kiện khác không? kết quả có khác không, đúng trong trường hợp nào?
Ý nghĩa: Tôn trọng các điều kiện khách quan tác động trong quá trình nghiên cứu.
- Tính thông tin: Toàn bộ quá trình NCKH là quá trình thu thập và xử lý thông tin.
Sản phẩm nghiên cứu phải thể hiện các thông tin về quy luật vận động và phát triển của sự
vật, hiện tượng; thông tin về bản chất và quy trình công nghệ, quy trình kỹ thuật cũng như
các thông số, tham số liên quan đến các quy trình đó.
Ý nghĩa: Các thông tin phải sát, đúng với đối tượng, cập nhật được tính chất của đối
tượng nghiên cứu.
- Tính kế thừa: hoạt động khoa học luôn phải kế thừa thành quả lao động của người
trước. Không có một công trình khoa học nào trống không về tri thức. Mỗi công trình
nghiên cứu phải dựa vững trên cơ sở tri thức đã được sáng tạo từ trước (những kiến thức,
phương pháp, kết quả …) từ đó để sáng tạo thêm cái mới.
Ý nghĩa phương pháp luận: ở đây là để đề xuất và triển khai nghiên cứu khoa học cần
thu thập tích luỹ các thông tin có liên quan tới phương pháp, thủ pháp, tư duy mà kết quả
phân tích, lý giải là để chỉnh lý tạo tiền đề cho nghiên cứu mới.
- Tính rủi ro: Do phải tìm kiếm cái mới, cái chưa biết nên mục tiêu của nghiên cứu
chưa thể là cái gì đó đã xác định chắc chắn. Quá trình thực hiện mình phải tìm kiếm thêm,

xác định thêm cho nên NCKH mang tính rủi ro, có khi mạo hiểm. Trong các loại NCKH,
thì nghiên cứu cơ bản có độ rủi ro nhất và mức độ rủi ro đó giảm dần khi triển khai các
bước ứng dụng, nghiên cứu triển khai. Một nghiên cứu có thể thành công và cũng có thể
thất bại. Tuy nhiên trong NCKH thất bại cũng được xem như một kết quả. Điều cơ bản là
có thể xác định rõ được nguyên nhân thất bại về những khía cạnh: thu thập thông tin, trình
độ kỹ thuật trang thiết bị, năng lực người nghiên cứu, những điều kiện bất khả kháng… và
cả những nghiên cứu có kết quả nhưng không thành công trong áp dụng.
Ý nghĩa phương pháp luận: để tránh các rủi ro cho đồng nghiệp đi sau khỏi lặp lại
những thất bại này.
- Tính phi kinh tế: do tính mới, tính khoa học, tính sáng tạo, tính tủi ro… mà NCKH
khó định mực chính xác như trong lĩnh vực sản xuất. Trong NCKH không thể lấy lợi ích
kinh tế trước mắt làm mục tiêu nghiên cứu mà phải hướng tới mục tiêu lâu dài. Tuy vậy,
NCKH với tư cách là một hoạt động xã hội lại luôn chú ý tới hiệu quả kinh tế, làm sao để
mục đích đề ra đạt được một cách tốt nhất, hợp lý nhất.
Ý nghĩa phương pháp luận: Xác định hiệu quả kinh tế trong từng loại hình nghiên
cứu như nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu triển khai.
3


- Tính cá nhân: Là một hoạt động mang tính xã hội, nên vai trò của tập thể, của tổ
chức rất cao, nhưng vai trò sáng tạo và tri thức mới phụ thuộc rất nhiều cá nhân mà người
chủ trì có ý nghĩa quyết định. Trong NCKH mọi sáng chế, phát minh đều mang dấu ấn tư
duy cá nhân, của trường phái.
Ý nghĩa phương pháp luận: Tôn trọng tư duy cá nhân, biết tổ chức phối hợp tạo các
trường phái khoa học.
Nhận thức:
Các đặc tính trên của NCKH rất quan trọng trong quá trình hoạt động NCKH. Do đó,
người NCKH khi đánh giá thông tin phải tuân thủ qua 10 đặc tính trên.
Trong đó, tính mới, khoa học, sang tạo phải phụ thuộc vào tính cấp thiết, tính khả thi
của đối tượng NCKH.

- Vận dụng các đặc tính nghiên cứu khoa học trong quá trình đề xuất, xác định nhiệm
vụ nghiên cứu, tổ chức thực hiện.
- Ý nghĩa chung là xác định rõ mục tiêu, phạm vi, nội dung nghiên cứu và yêu cầu
của sản phẩm đáp ứng nhu cầu thực tiễn
Câu 4: Để xác định khái niệm hợp lý cần chú ý tới những điểm nào? (Trang 2729)
Khái niệm là phạm trù triết học, xác định bản chất vốn có riêng biệt của mỗi sự vật
hiện tượng. Khái niệm, trên phương tiện tư duy là giai đoạn hình thành nội hàm, ngoại
diên của đối tượng để phân biệt với các đối tượng khác.
Trong nhận thức, khái niệm được hình thành từ thực tiễn, nhưng không phải hình
thành một cách trực tiếp mà phải thông qua tư duy, tức là không qua việc khái quát hoá
một cách chủ quan của con người bằng các phương pháp tư duy logic. Đó là phương pháp
phân tích, phương pháp trừu tượng hoá và phương pháp tổng hợp.
Thông qua phương pháp phân tích, người ta phân chia biểu tượng chung về sự vật
hiện tượng thành các phân tố, các mặt khác nhau để nhận thức rõ từng mặt, từng phân tố
và mối liên hệ bản chất giữa chúng trong sự hình thành nên khái niệm về sự vật hiện
tượng.
Thông qua phương pháp trừu tượng hoá, người ra gạt đi những yếu tố, những mặt
không phải là bản chất, giữ lại những gì là bản chất của sự vật hiện tượng để nhận thức.
Cuối cùng, thông qua phương pháp tổng hợp, người ta kết hợp một cách biện chứng
vào một tư tưởng thống nhất về đối tượng tất cả những yếu tố, những mặt có tính bản chất
của sự vật hiện tượng để hình thành nên khái niệm về sự vật hiện tượng đó.
Để hình thành nên một khái niệm, người nghiên cứu phải phân tích đối tượng, tìm ra
những dấu hiệu riêng biệt và đặc thù mang tính bản chất của đối tượng để phân biệt đối
tượng đó với các đối tượng khác. Ngoài ra, những bản chất riêng biệt, đặc thù trên đây có
thể gắn với một hay một tập hợp các sự vật hiện tượng nhất định. Để xác định rõ khái
niệm một cách đầy đủ, người nghiên cứu phải làm rõ thêm các sự vật hiện tượng, các cá
thể có khả năng mang tính chất riêng biệt đó. Chỉ khi đó, ta mới có khái niệm đầy đủ về
đối tượng.
Định nghĩa khái niệm cần tuân theo các quy tắc sau đây:


4


- Định nghĩa phải cân đối: Nghĩa là ngoại diên của khái niệm định nghĩa phải vừa
bằng ngoại diên khái niệm dùng để định nghĩa. Đây là quy định để không định nghĩa khái
niệm quá rộng hay quá hẹp.
- Không được định nghĩa vòng quanh, luẩn quẩn: Nghĩa là nội dung của khái niệm
được định nghĩa lại được đem dùng để định nghĩa cho chính khái niệm đó.
- Trong định nghĩa khái niệm không dùng hình thức phủ định (ví dụ: số lẻ không
phải là số chẵn).
- Định nghĩa phải rõ ràng, chính xác, không ví von (ví dụ: thời gian là vàng bạc,
nước sông công lính).
Định nghĩa khái niệm và tư duy khái niệm phải đúng đắn. Trong hoạt động khoa học
hiểu đúng khái niệm và làm cho người khác hiểu đúng khái niệm là một yêu cầu tất yếu.
Do đó, trong tư duy khái niệm rất quan trọng trong hoạt động NCKH và hình thành
các khái niệm mới phải qua quá trình tư duy.
Câu 5: Bản chất của logic hình thức và logic biện chứng? (Trang 25-36)
- Bản chất của logic hình thức và logic biện chứng
- Ý nghĩa các hình thức tư duy của logic hình thức
- Ý nghĩa của trình tự logic trong nghiên cứu khoa học
Bản chất của logic hình thức và logic biện chứng (T-25)
- Logic hình thức nghiên cứu tư duy tĩnh, phản ánh cái bất động, chính xác của thế
giới khách quan. Sự phản ánh này mang tính lý tường hoá, trừu tượng hoá các sự vật hiện
tượng để đạt tới độ chính xác mang tính lý tưởng.
- Logic biện chứng nghiên cứu tư duy động, nghiên cứu phạm trù phản ánh sự vận
động, chuyển hoá của thế giới khách quan.
* Logic hình thức là khoa học về những hình thức và quy luật của tư duy chính xác,
lấy sự đồng nhất trừu tượng làm cơ sở.
* Logic biện chứng là khoa học về những hình thức và quy luật của tư duy biện
chứng, lấy sự đồng nhất chuyển hoá lẫn nhau làm cơ sở.

Ý nghĩa các hình thức tư duy của logic hình thức
Trong NCKH, người nghiên cứu thường trải qua các giai đoạn của tư duy logic trong
xác định các thuật ngữ, khái niệm, vấn đề khoa học, tìm cơ sở lý luận hay nghiên cứu các
tài liệu khoa học và công nghệ. Các giai đoạn tư duy cơ bản thường gặp trong NCKH là:
khái niệm, phán đoán, suy luận.
Khái niệm là phạm trù triết học, xác định bản chất vốn có riêng biệt của mỗi sự vật
hiện tượng. Khái niệm, trên phương tiện tư duy là giai đoạn hình thành nội hàm, ngoại
diên của đối tượng để phân biệt với các đối tượng khác. Trong nhận thức, khái niệm được
hình thành từ thực tiễn, nhưng không phải hình thành một cách trực tiếp mà phải thông
qua tư duy, tức là không qua việc khái quát hoá một cách chủ quan của con người bằng
các phương pháp tư duy logic. Đó là phương pháp phân tích, phương pháp trừu tượng hoá
và phương pháp tổng hợp. Tư duy của khái niệm là một hình thức tư duy logic, nhằm làm
rõ bản chất khái niệm bằng cách chỉ rõ nội hàm và ngoại diên của khái niệm đó để phân
biệt nó với khái niệm khác. Tư duy khái niệm là để hiểu đúng khái niệm. Trong NCKH,
khi hình thành các khái niệm mới, nhà khoa học bắt buộc phải tư duy trên khái niệm mới
do mình đưa ra hay muốn nói tới. Người làm khoa học có hiểu đúng khái niệm mới có thể
làm đúng được.
5


Phán đoán là hính thức tư duy logic, liên kết các khái niệm để khẳng định một khái
niệm này có hay là không một khái niệm khác. Nói cách khác, phán đoán là đưa ra nhận
định sơ bộ để trả lời các câu hỏi có dạng: Như thế nào? Là cái gì? Phán đoán mang hình
thức so sánh để khẳng định sự vật hiện tượng này có hay không là một sự vật hiện tượng
khác. Vì vậy, phán đoán mang giá trị logic: Đúng hoặc không đúng. Các phán đoán có vai
trò quan trọng trong NCKH vì phán đoán định hướng con đường phải đi, cái đích phải tới,
có tính chất dẫn đường trong NCKH để đi đến kết quả.
Suy luận là một hình thức tư duy logic, đi từ một hay một số khái niệm hay tiên đề
(phán đoán) đã biết để đưa ra một phán đoán mới. Phán đoán mới đó chính là giả thuyết
khoa học. Các hình thức suy luận của tư duy trừu tượng là cơ sở để xây dựng các quy luật

lý thuyết khoa học về hoạt động của tư duy. Suy luận phải dựa trên các sự kiện, tiền đề
đúng (các thông tin đáng tin cậy) gắn kết nhau, có quan hệ với nhau theo một mặt nào đó
thì suy luận mới đúng, có kết luận đúng.
- Ý nghĩa của trình tự logic trong nghiên cứu khoa học (T-36)
Trong NCKH, nhà khoa học và nhà quản lý phải có khái niệm đầy đủ về trình tự logic
của NCKH. Đây chính là yếu tố giúp cho ta có phương pháp NCKH đúng đắn. Khi nói tới
trình tự logic của nghiên cứu khoa học là nói tới nội dung và thứ tự công việc phải làm khi
tiến hành nghiên cứu khoa học. Việc chấp hành đúng thứ tự logic trong NCKH sẽ tránh
mất thì giờ và làm cho việc nghiên cứu đi theo những bước hợp lý, bước làm trước làm
tiền đề cho bước làm sau, nhờ đó mà nhanh chóng đạt tới kết quả.
Câu 6: Phương pháp lý thuyết trong nghiên cứu khoa học? (Trang 53)
Phương pháp lý thuyết trong nghiên cứu khoa học là quá trình thu thập và xử lý
thông tin bằng cách nghiên cứu tài liệu, là phương pháp cơ bản, xuyên suốt trong cả quá
trình. Là phương pháp chứng minh luận đề, chứng minh giả thuyết khoa học dựa trên
những lý thuyết khoa học đã có, các tri thức khoa học có tính quy luật đã được đúc kết và
thừa nhận, dùng phương pháp lập luận logic hay lập luận toán học để chứng minh.
Trên cơ sở các thông tin lý thuyết thu thập được, tiến hành phân tích, lý giải vấn đề
nghiên cứu theo các khái niệm, quy luật, định luật, vận dụng các lý thuyết đã có một cách
sáng tạo để đạt được mục đích cần chứng minh. Sử dụng các thao tác logic xử lý, phán
đoán, lập luận để đi đến kết quả.
Sử dụng phương pháp lý thuyết theo các bước: xác định các khái niệm; tiến hành các
thao tác logic trên khái niệm như: phân tích, xử lý (mở rộng, thu hẹp...), phán đoán hay
lập luận (suy diễn, quy nạp, loại suy), nhằm xác định phạm trù, khái niệm riêng... hay nói
cách khác là lập luận để đi đến kết quả.
Kết quả nghiên cứu theo phương pháp lý thuyết ở dạng lý thuyết khoa học. Lý thuyết
khoa học là một hệ thống luận điểm khoa học về đối tượng NCKH, cung cấp một quan
niệm hoàn chỉnh về bản chất sự vật hiện tượng, những liên hệ bên trong của sự vật hiện
tượng và mối liên hệ cơ bản giữa sự vật hiện tượng với thế giới hiện thực. Lý thuyết đó có
thể là các khái niệm các định lý, định luật, các nguyên lý hay nguyên tắc, quy định hay
đường lối, chính sách... Chất lượng kết quả nghiên cứu phụ thuộc nguồn thông tin tư liệu

có được. Chính vì vậy, để sử dụng tốt phương pháp lý thuyết đòi hỏi phải có phương pháp
thu thập và xử lý thông tin đúng đắn và phù hợp. Vì lý thuyết khoa học là một hệ thống tri
thức phản ánh dưới dạng trừu tượng hoá một phần hiện thực khách quan được nghiên cứu,
có cấu trúc và chức năng nhất định, nên ưu điểm của phương pháp lý thuyết là nó phản
6


ánh tương đối chính xác các quy luật vận động của sự vật hiện tượng nếu sử dụng các
luận cứ lý thuyết và phương pháp xử lý thông tin một cách đúng đắn và chính xác.
Nhược điểm của phương pháp lý thuyết là chưa phản ánh đầy đủ các yếu tố của thực
tiễn, mà thực tiễn bao giờ cũng hiện hữu. Vì vậy phương pháp lý thuyết cần được kiểm
chứng qua thực tiễn.
* Đánh giá ưu, nhược điểm của phương pháp lý thuyết, phạm vi ứng dụng của
phương pháp lý thuyết trong nghiên cứu khoa học?
- Sử dụng phương pháp lý thuyết để xác định đúng, đủ khái niệm trong các công trình
nghiên cứu có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nếu xác định đúng sẽ giúp cho người nghiên
cứu đi đúng nội dung mình cần nghiên cứu, ngược lại, nếu xác định sai sẽ không đúng với
nội dung nghiên cứu.
- Chất lượng kết quả nghiên cứu phụ thuộc quá trình thu thập và xử lý thông tin, vì
vậy nếu thu thập và xử lý thông tin không chính xác sẽ dẫn đến kết quả nghiên cứu không
đúng.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết được sử dụng trong cả khoa học tự nhiên, khoa
học xã hội và các khoa học khác.
Câu 7: Phương pháp phi thực nghiệm? (Trang 54)
- Nêu bản chất của phương pháp
- Các điểm chú ý khi sử dụng phương pháp phi thực nghiệm (phương pháp quan sát,
phương pháp chuyên gia...)
- Ý nghĩa phương pháp luận
- Phương pháp phi thực nghiệm là phương pháp nghiên cứu dựa trên sự quan sát đối
tượng nhưng chủ thể nghiên cứu không có các tác động trực tiếp để gây ra những biến đổi

trạng thái đang tồn tại vốn có của đối tượng nghiên cứu (như nghiên cứu về các phong tục
tập quán của một vùng)
- Nhóm phương pháp phi thực nghiệm gồm có: quan sát, chuyên gia (phỏng vấn, hội
nghị khoa học, điều tra), trắc nghiệm.
Quan sát: Là phương pháp được sử dụng trong các loại hình nghiên cứu khoa học.
Quan sát được sử dụng trong công đoạn: phát hiện vấn đề nghiên cứu, đặt giả thuyết, kiểm
chứng giả thuyết. Như vậy trong quá trình xây dựng và thực hiện trên một nhiệm vụ khoa
học (đề tài) có thể người nghiên cứu phải quan sát ở cả 3 công đoạn. Tuy nhiên, người ta
có thể kết hợp nếu thấy những dị biệt không nhiều trong các công đoạn đó. Trong quan sát
người nghiên cứu có thể quan sát bằng nhiều phương tiện khác nhau như: trực tiếp xem
nghe, sử dụng các phương tiện ghi âm, ghi hình, sử dụng các phương tiện đo lường (máy
đo địa chấn, điện tâm đồ, máy đo độ cồn, thiết bị đo pH...).
Việc quan sát phải được áp dụng linh hoạt. Quan sát để nắm bắt được thông tin và
các quy luật vận động của đối tượng.
Phương pháp chuyên gia: Là phương pháp dựa trên ý kiến chuyên gia (là người có
trình độ chuyên môn phù hợp và am hiểu về lĩnh vực nghiên cứu, có kinh nghiệm quản lý
và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ NCKH...), Phương pháp này có thể có các hình thức
như: phỏng vấn, hội nghị khoa học, điều tra theo câu hỏi...
- Phỏng vấn là phương pháp thu thập thông tin bằng cách đưa ra các câu hỏi để
chuyên gia trả lời. Việc lựa chọn người phỏng vấn và hình thức phỏng vấn, nhất là cách
đặt câu hỏi cần đặc biệt coi trọng vì nó có ảnh hưởng quyết định tới kết quả phỏng vấn
7


(chú ý thêm tiếp cận tâm lý học với đối tác và phép suy luận khi sắp xếp thứ tự các câu
hỏi).
- Hội nghị khoa học là một phương pháp để thu thập các ý kiến chuyên gia qua việc
nghe họ tranh luận phân tích. Đặc điểm chung của hội nghị khoa học là nêu vấn đề, báo
cáo kết quả nghiên cứu, thảo luận, ghi nhận mà không kết luận (dưới hình thức một nghị
quyết). Ưu điểm của hội nghị là được nghe các ý kiến trái ngược nhau, phản bác nhau để

từ đó mà phân tích và rút ra những nội dung cần thiết. Nhược điểm của phương pháp Hội
nghị là ý kiến của Hội nghị thường bị chi phối bởi những người có tài hùng biện và những
người có địa vị xã hội cao tương đối so với nhóm. Để khắc phục nhược điểm này, người
chủ trì tổ chức cần có các biện pháp thích hợp (tấn công não, phát ý tưởng, phân tích ý
tưởng và phân chia theo nhóm) để lựa chọn các ý kiến chân thực trong các cuộc tranh luận
đó.
- Điều tra theo bảng câu hỏi: Thường là phương pháp của xã hội học nhưng được áp
dụng trong nhiều lĩnh vực. Về mặt kỹ thuật của phương pháp điều tra theo bảng câu hỏi có
3 loại công việc phải quan tâm: chọn mẫu, thiết kế bảng câu hỏi và xử lý kết quả.
Trắc nghiệm: Là phương pháp được sử dụng để đánh giá chất lượng của đối tượng
khảo sát với một chương trình đòi hỏi đối tượng thực hiện nhưng không gây biến đổi bất
cứ một thông số nào trên đối tượng. Công cụ được sử dụng trong nghiên cứu bằng trắc
nghiệm có thể là ngôn ngữ hoặc các công cụ phi ngôn ngữ. Có thể coi trắc nghiệm là
phương pháp bán trắc nghiệm vì sự vật không bị bất cứ tác động nào làm biến đổi trạng
thái mà chỉ có tình huống của môi trường hoạt động của sự vật thay đổi. Trắc nghiệm
được sử dụng trong nhiều lĩnh vực:
- Trong lĩnh vực công nghệ: Thử nghiệm độ bền cơ học của vật liệu; thử nghiệm các
điều kiện làm việc của thiết bị thông qua thời gian, cường độ, điều kiện cơ lý...
- Trong lĩnh vực xã hội: Trắc nghiệm tâm lý, thi trắc nghiệm... là bảng những câu hỏi
với của câu trả lời “có-không”, “đúng-sai”, câu trả lời có sẵn hay là dạng câu hỏi mở.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Việc lựa chọn PP nghiên cứu do mục đích và đối tượng nghiên cứu quy định.
Câu 8: Phương pháp thực nghiệm khoa học, mô hình trong thực nghiệm?
(Trang 58)
- Nêu bản chất phương pháp thực nghiệm, phạm vi ứng dụng?
- Tại sao phải tuân thủ nguyên tắc thực nghiệm?
- Lý giải điều kiện quy hoạch thực nghiệm?
- Ý nghĩa các loại hình nghiên cứu thực nghiệm theo không gian, theo thời gian, theo
mục đích quan sát?
- Các mô hình thực nghiệm?

Phương pháp thực nghiệm là phương pháp nghiên cứu được thực hiện bởi những
quan sát trong điều kiện gây biến đổi đối tượng khảo sát và môi trường xung quanh đối
tượng khảo sát một cách có chủ định. Phương pháp thực nghiệm được áp dụng phổ biến
không chỉ trong nghiên cứu tự nhiên, kỹ thuật, y học mà cả trong xã hội và các lĩnh vực
nghiên cứu khác.
Trong thực nghiệm, người nghiên cứu phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau đây:
* Đề ra những chuẩn đánh giá và phương thức đánh giá;
* Giữ ổn định của yếu tố đã xác lập không bị người nghiên cứu khống chế; lập quy
hoạch thực nghiệm;
8


* Mẫu được lựa chọn trong thực nghiệm phải mang tính phổ biến để cho kết qủa
thực nghiệm được khách quan;
* Đưa ra một số giả thiết thực nghiệm để loại bớt những yếu tố tác động phức tạp.
Cần phải tuân thủ nguyên tắc cơ bản trên vì: Thông tin thực nghiệm có thể chưa thật
hoàn chỉnh về cơ sở khoa học, bị chi phối bởi các điều kiện và phương pháp thu thập. Các
tham số (điều kiện) có thể bị khống chế bởi người nghiên cứu gây mất ổn định các yếu tố
đã xác lập. Trước khi tiến hành, cần có quy hoạch thực nghiệm để việc thu thập thông tin
được bao quát, đầy đủ và có chất lượng. Quy hoạch thực nghiệm tức là căn cứ các quy luật
của cơ sở lý thuyết phân tích cụ thể mục tiêu thực nghiệm, xếp thứ tự ưu tiên theo các mục
tiêu riêng biệt, phân tích các điều kiện thực hiện một mục tiêu. Điều này cho phép ta hạn
chế được số lượng thực nghiệm phải làm mà vẫn có thể khám phá ra quy luật theo mục
tiêu đã xác định.
Phương pháp thực nghiệm có thể phân loại theo nhiều cách như:
1. Theo không gian tiến hành thực nghiệm, có:
- Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm: Đây là nơi người nghiên cứu được hoàn toàn
chủ động tạo dựng mô hình thực nghiệm và khống chế các tham số. Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp (nhất là khoa học công nghệ) mô hình thực nghiệm không thể chế tạo ra được
đầy đủ những yếu tố của môi trường thực. Vì vậy, hầu như không có bất cứ kết quả thực

nghiệm nào thu được từ trong phòng thí nghiệm mà có thể đưa áp dụng thẳng vào điều
kiện thực mà phải tiến hành thực nghiệm tại hiện trường.
- Thực nghiệm tại hiện trường: Là nơi, người nghiên cứu được tiếp cận những điều
kiện hoàn toàn thực, nhưng lại bị hạn chế về khả năng khống chế các tham số và các điều
kiện nghiên cứu. Chẳng hạn, một thí nghiệm sinh học ngoài trời không thể tạo ra được
nhiệt độ khác nhau của tự nhiên.
- Thực nghiệm trong quần thể xã hội: Là dạng thực nghiệm được tiến hành trên một
cộng đồng người trong những điều kiện sống của họ. Trong thực nghiệm này, người
nghiên cứu thay đổi các điều kiện sinh hoạt của họ, tác động vào đó những yếu tố cần
được kiểm chứng trong nghiên cứu. Loại nghiên cứu này được sử dụng trong các nghiên
cứu khoa học xã hội, trong y học, trong tổ chức và quản lý.
2. Theo mục đích quan sát, có:
- Thực nghiệm thăm dò: Được tiến hành để phát hiện bản chất của sự vật hiện tượng.
Loại thực nghiệm này được sử dụng để nhận dạng vấn đề và xây dựng giả thuyết.
- Thực nghiệm kiểm tra: Được thực hiện để kiểm chứng các giả thuyết.
- Thực nghiệm song hành: Là những thực nghiệm trên các đối tượng khác nhau trong
những điều kiện được khống chế giống nhau, nhằm rút ra kết luận về ảnh hưởng của thực
nghiệm trên các đối tượng khác nhau đó.
- Thực nghiệm đối nghịch: Được tiến hành trên hai đối tượng khác nhau với các điều
kiện đối ngược nhau, nhằm quan sát kết quả của các phương thức tác động theo các điều
kiện thí nghiệm trên các thông số của các đối tượng nghiên cứu.
- Thực nghiệm so sánh: Được tiến hành trên hai đối tượng khác nhau, trong đó một
trong hai đối tượng được chọn làm đối chứng nhằm tìm chỗ khác biệt giữa các phương
pháp, giữa các hậu quả so với đối chứng.
3. Theo quá trình thời gian, có:
- Thực nghiệm ngắn hạn: Để xác định tác động hoặc ảnh hưởng của các tác nhân lên
đối tượng nghiên cứu trong một thời gian ngắn.
9



- Thực nghiệm dài hạn: Để xác định tác dụng của giải pháp tác động hoặc ảnh hưởng
của các tác nhân lên đối tượng nghiên cứu lâu dài, liên tục.
- Thực nghiệm trung hạn: là mức độ trung gian giữa hai phương pháp thực nghiệm
trên.
Các mô hình thực nghiệm: Tùy thuộc lĩnh vực khoa học mà người nghiên cứu lựa
chọn loại mô hình thích hợp như mô hình toán, mô hình vật lý, mô hình sinh học, mô hình
sinh thái, mô hình xã hội, mô hình vật lý-xã hội...
- Mô hình toán: Là hình thức thể hiện đối tượng nghiên cứu thông qua việc xác lập
các mối quan hệ giữa các thành phần bằng ngôn ngữ toán học, túc là bằng các số liệu, biểu
thức, công thức, phương trình toán, biểu đồ đồ thị... trong đó, thường bao hàm các biến
đầu vào, các điều kiện và các biến đầu ra.
- Mô hình vật lý: Là thực nghiệm được thực hiện trên đối tượng thật (cũng là dạng
mô hình có cùng kích thước và các yếu tố đảm bảo), mô hình tương tự (về kích thước, vật
liệu, tính chất... theo đúng tỷ lệ kích thước và quá trình vận động tương tự của đối tượng
thật).
- Mô hình sinh học: Là sử dụng động thực vật để nghiên cứu thay thế cho con người
hay phỏng sinh học.
Ý nghĩa PP này:
- PPTN là 1 trong các PP cơ bản của NCKH.
- So với PP phỏng vấn, quan sát việc sử dụng PPTN trong nghiên cứu có 1 ý nghĩa rất
quan trọng. Nếu PP quán sát chỉ tìm hiểu, phát hiện những cái đã có thì PPTN lại chủ động
tạo ra những hiện tượng, quá trình, cấu trúc và cơ chế mới để nghiên cứu ứng dụng.
Tóm lại PPTN mang tính chủ động và sang tạo rất cao trong việc cải tạo thực tiễn và
có ý nghĩa rất quan trọng trong lịch sử phát triển khoa học
Câu 9: Thu thập và xử lý thông tin trực tiếp đối với thông tin định tính và thông
tin định lượng? (Trang 71)
- Nêu bản chất phương pháp thu thập thông tin trực tiếp, các cách thu thập thông
tin? (trang 64)
- Các loại mô hình và ý nghĩa các loại mô hình? (70-71)
- Xử lý thông tin định tính và ý nghĩa thông tin định tính? (71-72)

- Xử lý thông tin định lượng và ý nghĩa thông tin định lượng? (72-74)
- Mối quan hệ giữa thông tin định tính và thông tin định lượng?
- Sai số trong quan sát đo đạc và cách ứng xử thông tin? (74-75)
Phương pháp thu thập thông tin trực tiếp là hoạt động cụ thể để thu thập thông tin khi
người nghiên cứu hay quản lý đã xác định được cần thu thập thông tin gì, bằng cách tiếp
cận nào, dùng phương pháp gì và các yếu tố ảnh hưởng tới thông tin như thế nào. Có các
phương pháp thu thập thông tin trực tiếp cơ bản sau: nghiên cứu tài liệu, thực nghiệm, phi
thực nghiệm (sử dụng chuyên gia), trắc nghiệm,...
Tùy thuộc lĩnh vực khoa học mà người nghiên cứu lựa chọn loại mô hình thích hợp
như mô hình toán, mô hình vật lý, mô hình sinh học, mô hình sinh thái, mô hình xã hội,
mô hình vật lý-xã hội...
- Mô hình toán: Là hình thức thể hiện đối tượng nghiên cứu thông qua việc xác lập
các mối quan hệ giữa các thành phần bằng ngôn ngữ toán học, túc là bằng các số liệu, biểu
10


thức, công thức, phương trình toán, biểu đồ đồ thị... trong đó, thường bao hàm các biến
đầu vào, các điều kiện và các biến đầu ra.
- Mô hình vật lý: Là thực nghiệm được thực hiện trên đối tượng thật (cũng là dạng
mô hình có cùng kích thước và các yếu tố đảm bảo), mô hình tương tự (về kích thước, vật
liệu, tính chất... theo đúng tỷ lệ kích thước và quá trình vận động tương tự của đối tượng
thật).
- Mô hình sinh học: Là sử dụng động thực vật để nghiên cứu thay thế cho con người
hay phỏng sinh học.
Kết quả thu thập thông tin tồn tại dưới hai dạng là thông tin định tính và thông tin
định lượng. Mỗi loại thông tin có cách xử lý khác nhau.
Thông tin định tính là loại thông tin về bản chất sự vật hiện tượng. Thông tin định
tính thường mang tính khái quát, tính quy luật và là vì mang tính bản chất nên thông tin
định tính thường có tính bền vững và tồn tại lâu dài. Thông tin định tính rất quan trọng,
giúp cho việc xác định công việc ở cấp vĩ mô, hoạch định phương hướng, chiến lược,

đường lối chính sách. Thông tinh định tính không thể hiện giá trị cụ thể mà chỉ thể hiện
bản chất của đối tượng hoặc mối quan hệ như: tồn tại hay không tồn tại, tăng hay giảm
theo thời gian hay ổn định, lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu. Mục đích xử lý thông tin định tính
là nhận dạng bản chất và mối liên hệ bản chất giữa các sự kiện. Kết quả sẽ giúp người
nghiên cứu mô tả được dưới dạng các sơ đồ biến đổi định tính. Sơ đồ cho phép hình dung
một cách trực quan các mối liên hệ giữa các yếu tố trong cấu trúc của một sự vật mà không
quan tâm đến kích thước thực hoặc tỷ lệ thực của chúng. Xử lý thông tin định tính có thể
dùng các phương pháp lập luận logic như : Lập luận suy diễn, lập luận quy nạp hay lập
luận loại suy để liên kết các khái niệm, các sự kiện, dẫn dắt từ khái niệm này đến khái
niệm khác và dần dần đi đến kết quả mong muốn. Tất nhiên, đã lập luận logic thì mọi lập
luận phải mang tính hợp lý và rõ ràng, phải tuân thủ các quy tắc của lập luận.
Thông tin định lượng thể hiện độ lớn của thông tin. Thông tinh định lượng thu được
là các số liệu thô, chúng thường mang tính cục bộ, tản mạn, từng mặt và thậm chí còn sai
sót và sai lệch. Người nghiên cứu không thể ghi chép các số liệu thô (nguyên thuỷ) vào tài
liệu khoa học mà phải xử lý, sắp xếp chúng để làm bộc lộ các mối liên hệ và xu thế của sự
vật. Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, vào hệ thống và khả năng thu thập thông tin mà
số liệu có thể được trình bày dưới các dạng khác nhau, từ thấp tới cao là các con số rời rạc,
bảng số liệu, biểu đồ, đồ thị. Việc sử dụng mô hình toán học (như đã nêu ở trên), cần lựa
chọn loại mô hình toán thích hợp cho từng trường hợp cụ thể. Các mô hình toán học có thể
là toán xác suất thông kê, đại số tuyến tính, các phương trình hay các biểu thức toán học
mô tả mối quan hệ giữa các đại lượng. Thực tế, để có thể tìm ra mô hình toán phù hợp, cần
có những kiến thức toán nhất định (không phải ngành nào cũng thoả mãn điều này). Việc
“đặt bài toán” và xác lập “bản chất vật lý” của sự kiện không ai có thể thay thế người
nghiên cứu được.
Đối với thông tin định tính, công cụ toán học nói chung và toán logic nói riêng cũng
có thể áp dụng trong lập luận. Bằng các công cụ toán logic có thể giải quyết mọi vấn đề
một cách rõ ràng và có thể ghi nhận những quan hệ phụ thuộc của các đại lượng định tính
dưới dạng biểu thức, liên kết các đại lượng bằng các phép toán. Điều này cho phép dễ
dàng hơn trong tính toán các quan hệ định lượng giữa chúng.
Bất cứ một quan sát, đo đạc nào cũng có sai số. Vận dụng khái niệm sai số trong kỹ

thuật đo lường, ta có thể xem xét 3 cấp độ sai số sau:
11


- Sai số ngẫu nhiên: Đây là loại sai số do cảm nhận chủ quan của người quan sát.
Trong trường hợp quan sát bằng các phương tiện đo lường, thì đây là sai số của phép đo, là
sai số xuất hiện do năng lực quan sát, đo đạc của mỗi người, mỗi lúc khác nhau.
- Sai số kỹ thuật: Là sai số do các yếu tố kỹ thuật gây nên một cách khách quan,
không do năng lực cảm nhận chủ quan của người quan sát, đo đạc.
- Sai số hệ thống: Là loại sai số do quy mô hệ thống quyết định. Hệ thống càng lớn
thì sai số quan sát, đo đạc càng lớn.
Độ chính xác của sai số phụ thuộc năng lực của con người, phụ thuộc vào thiết bị,
nhưng trình bày độ chính xác phải theo một quy luật nhất định.
Mối quan hệ
• Nghiên cứu định lượng bổ sung cho tính chính xác của nghiên cứu định tính và
nghiên cứu định tính làm rõ hơn ý nghĩa của nghiên cứu định lượng.
• Trong một nghiên cứu toàn diện cần phải có sự phối hợp giữa hai phương pháp
nghiên cứu này để đưa lại kết quả tối đa. Chỉ có thể kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghiên
cứu định lượng và định tính gắn với thực tiễn xã hội mới có hiệu quả trong khoa học.
- Phương Pháp nghiên cứu Định Tính có thể hỗ trợ cho nghiên cứu định lượng bằng
cách xác định các chủ đề phù hợp với phương pháp điều tra.
- Nghiên cứu Định Lượng có thể hỗ trợ cho nghiên cứu Định Tính bằng cách khái
quát hóa các phát hiện ra một mẫu lớn hơn hay nhận biết các nhóm cần nghiên cứu sâu
- Nghiên cứu Định Tính có thể giúp giải thích các mối quan hệ giữa các biến số được
phát hiện trong các Nghiên Cứu Định Lượng.
Câu 10: Xây dựng và tổ chức thực hiện các đề tài nghiên cứu? (Trang 90)
- Phát hiện vấn đề nghiên cứu, nhận dạng vấn đề nghiên cứu (trùng với các tiêu chí
khi xác định loại hình, định hướng, đề xuất nhiệm vụ nghiên cứu mới, khoa học, sáng
tạo,.., thực tiễn, cấp thiết, khả thi,...)
- Tổ chức quá trình thực hiện đề tài, đánh giá kiểm tra kết quả nghiên cứu (tiêu chí

sản phẩm, quy cách và quy trình đánh giá)
Phát hiện vấn đề nghiên cứu là bước quan trọng đầu tiên trong quá trình nghiên cứu
khoa học. Để phát hiện vấn đề nghiên cứu đòi hỏi phải có kiến thức và kinh nghiệm nhất
định. Tổng kết kinh nghiệm của những người đi trước cho thấy, để tìm kiếm những vấn đề
khoa học, khơi mào cho những nghiên cứu tiếp theo cần phải: Học hỏi kinh nghiệm của
những người đi trước, một mặt thu thập được các kiến thức NCKH cần thiết, mặt khác
phát hiện được chỗ mạnh, chỗ yếu trong quá trình thực hiện NCKH, từ đó tìm cách bổ
sung, khắc phục làm cho kết quả đạt được một cách tốt hơn. Nhận dạng những bất đồng
trong tranh luận, các ý kiến bất đồng có thể đúng hoặc sai, song đều chưa đủ luận cứ, luận
chứng để khẳng định, cho nên cần phải được làm sáng tỏ, cần phải lý giải một cách có cơ
sở để đi đến thống nhất.
Nhận dạng những vướng mắc và những yêu cầu của thực tiễn, làm ra cái thực tiễn
cần chứ không phải làm ra cái mình có khả năng. Có suy nghĩ biện chứng về các vấn đề
của cuộc sống, mỗi một trường phái tiếp cận theo một cách khác nhau, nên đứng ở góc độ
khác sẽ phát hiện ra những vấn đề nghiên cứu tiếp, cần bổ sung và làm sáng tỏ tính chất
chân thực của nó. Cần phải quan tâm chú ý tới các ý kiến của các nhà quản lý, người sử
dụng. Từ đó tìm được đề tài phù hợp với mình, đề tài phải đảm bảo 10 đặc tính của
NCKH: tính mới, tính khoa học, tính sáng tạo..., mà trước hết là:
12


Đề tài có ý nghĩa khoa học không? Ý nghĩa khoa học thể hiện trên những khía cạnh
như: Bổ sung những nội dung lý thuyết khoa học; Làm rõ một số vấn đề lý thuyết đang tồn
tại hay xây dựng một cơ sở lý thuyết mới.
Đề tài có ý nghĩa thực tiễn không? Ý nghĩa thực tiễn cần được xem xét đối với từng
loại hình nghiên cứu, nhất là nghiên cứu cơ bản thuần túy và nghiên cứu cơ bản nền tảng
là những vấn đề định hướng cho khoa học tương lai.
Có đủ điều kiện đảm bảo cho việc hoàn thành đề tài không? Đề tài dù có ý nghĩa
khoa học và thực tiễn, cấp thiết nhưng không có đầy đủ điều kiện và yếu tố đảm bảo về
nhân lực, kinh phí, cơ sở vật chất và thông tin tư liệu, quỹ thời gian... thì khó mà hoàn

thành được.
Đề tài có phù hợp với sở thích không? Trong hoạt động khoa học thì câu hỏi này
luôn có một ý nghĩa quan trọng và mang dấu ấn cá nhân. Đương nhiên, bao giờ người
nghiên cứu cũng luôn đứng trước một sự lựa chọn giữa tự nguyện cá nhân với việc giải
quyết nhu cầu cấp thiết của xã hội và khả năng đáp ứng của các nguồn lực.
Các tiêu chí cơ bản trên được hình thành trong quá trình xây dựng nội dung đề tài
(nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề liên quan).
Tổ chức thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học là khâu quan trọng nhất trong quá
trình tổ chức thực hiện NCKH, bao gồm: Thu thập và xử lý thông tin; Viết báo cáo chuyên
đề; Tổ chức cũng như tham gia các hội thảo khoa học, viết các bài báo công bố kết quả
nghiên cứu; Viết báo cáo tổng kết đề tài, báo cáo tóm tắt đề tài; Việt dự thảo đăng ký kết
quả nghiên cứu...
Khi viết báo cáo cần nắm chắc nội dung, mục tiêu nghiên cứu và các yêu cầu đã
được xác định trong thuyết minh đề tài và hợp đồng nghiên cứu đã được ký kết với cơ
quan quản lý hoặc nhà tài trợ nghiên cứu. Điều quan trọng là phải làm rõ những vấn đề mà
đề tài đã thực hiện được và phải mang tính mới, khoa học và sáng tạo. Mặt khác, cũng cần
nêu rõ phạm vi, điều kiện và những khó khăn, hạn chế trong quá trình thực hiện để định
hướng cho các nghiên cứu tiếp theo. Cuối cùng bài báo cũng cần phân tích, bàn luận về
những kết quả của đề tài, làm rõ ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn của những kết quả đó.
Khi đề tài đã hoàn thành, chủ nhiệm đề tài chuẩn bị đầy đủ hồ sơ theo quy định để
báo cáo cơ quan quản lý chuẩn bị cho nghiệm thu.
Đối với cơ quan quản lý khoa học và công nghệ, đánh giá là một biện pháp xem xét
một công trình khoa học làm cơ sở cho việc nghiệm thu. Chỉ tiêu đánh giá kết quả nghiên
cứu bao gồm: Thực hiện đầy đủ các nội dung trong thuyết minh đề tài và Hợp đồng nghiên
cứu đã được ký kết; Nêu rõ tính mới, tính khoa học, tính sáng tạo trong công trình; Tính
tin cậy và khách quan đảm bảo có thể kiểm chứng kết quả nghiên cứu, đủ luận chứng để
chứng minh; Tính ứng dụng đề cập đến việc xem xét khả năng ứng dụng, tính khả thi và
hiệu quả kinh tế khi áp dụng vào thực tiễn.
Thông thường, để đánh giá nghiệm thu các đề tài và dự án KH&CN, các cơ quan
quản lý KH&CN tổ chức các Hội đồng đánh giá nghiệm thu tương ứng với các quy định

chung. Ý kiến nhận xét phản biện và của các thành viên hội đồng là ý kiến tư vấn cho lãnh
đạo cấp cơ sở và cấp quản lý quyết định mức độ hoàn thành các nội dung và phương thức
công bố kết quả nghiên cứu, cũng như việc ứng dụng kết quả nghiên cứu tiếp theo.

13



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×