Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.9 KB, 72 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THỊ HÀ TRÂM

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ THẨM TRA VIÊN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THỊ HÀ TRÂM

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ THẨM TRA VIÊN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VŨ HỒNG ANH


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN

Công trình luận văn tốt nghiệp này do tôi trực tiếp nghiên cứu, thực
hiện và thể hiện quan điểm cá nhân tôi trên cơ sở nghiên cứu khoa học trung
thực. Những thông tin, tài liệu và số liệu trong luận văn này của tôi là chính
xác, trung thực.
Tôi cũng cam kết và đảm bảo các nội dung trình bày trong luận văn,
các kết quả nghiên cứu, kết luận khoa học trong luận văn này không trùng lắp
với bất kỳ công trình nghiên cứu nào đã công bố trước đây.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Thị Hà Trâm


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
THẨM TRA VIÊN .......................................................................................... 8
1.1. Khái niệm Thẩm tra viên, địa vị pháp lý của Thẩm tra viên ..................... 8
1.2.Nội dung địa vị pháp lý của Thẩm tra viên Tòa án................................... 11
1.3. Các yếu tố tác động đến địa vị pháp lý của Thẩm tra viên ...................... 18
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM TRA
VIÊN TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM .......................................... 25
2.1. Thực trạng thực hiện địa vị pháp lý về nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm
tra viên trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ............................................................. 25
2.2. Thực trạng về đội ngũ Thẩm tra viên trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ....... 36

2.3. Những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập về địa vị pháp lý của
Thẩm tra viên .................................................................................................. 43
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP
LÝ CỦA THẨM TRA VIÊN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ........................... 49
3.1. Quan điểm nâng cao địa vị pháp lý của thẩm tra viên ở nước ta hiện nay
......................................................................................................................... 49
3.2. Giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm tra viên ở nước ta hiện nay
......................................................................................................................... 56
KẾT LUẬN .................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thẩm tra là công cụ rất quan trọng, một nguyên tắc cơ bản trong khâu
tìm kiếm, phát hiện, thu thập thông tin, xem xét, tra cứu, đánh giá, phân tích
và sử dụng các chứng cứ nhằm làm rõ bản chất của sự việc và hành vi, nội
dung và đối tượng kiểm tra để kết luận nhằm đảm bảo đúng nguyên tắc. Thực
tiễn cũng cho thấy, nếu thẩm tra chưa chu đáo hoặc thẩm tra chưa rõ ràng thì
kiểm tra chưa thể kết thúc, chưa thể kết luận nội dung để xử lý đối tượng
kiểm tra. Hiện nay, vẫn có tình trạng một số vụ việc tiến hành thẩm tra không
đầy đủ và chưa sâu, chưa tìm kiếm được bằng chứng xác thực và xác đáng,
làm ảnh hưởng đến tính chính xác, khách quan khi kết luận nội dung thẩm
tra. Những hạn chế, bất cập trong thẩm tra dẫn đến quyết định xử lý không
chuẩn xác như oan sai, bỏ lọt các hành vi và đối tượng vi phạm. Nhiều vụ
việc, hành vi của đối tượng thẩm tra liên quan đến pháp luật và các lĩnh vực
khác… Điều đó đòi hỏi hoạt động thẩm tra cần phải có sự cộng tác, phối
hợp của nhiều hoạt động, nhiều tổ chức và mang tính nghiệp vụ cao. Như
vậy, việc đảm bảo chất lượng và kết quả của hoạt động thẩm tra có ý nghĩa
quyết định trực tiếp đến việc kết luận và quyết định xử lý của tổ chức có

thẩm quyền đối với đối tượng thẩm tra. Hoạt động thẩm tra được thực hiện
các khâu: lập kế hoạch thẩm tra và sử dụng kết quả thẩm tra để kết luận và xử
lý nếu có vi phạm theo thẩm quyền được pháp luật quy định.
Đối với thẩm tra viên, đây vốn là một chức danh nghiệp vụ của Tòa án,
nằm trong hệ thống công chức ngành Tòa án. Thẩm tra viên là chức danh đặc
thù. Tuy có hoạt động nghiệp vụ song chưa được quy định rõ ràng trong Luật
tổ chức Tòa án nhân dân hiện hành, nên dẫn đến trên thực tế khó xác định rõ
công sức đóng góp của Thẩm tra viên trong kết quả hoạt động của công tác thi
hành án. Hơn nữa, pháp luật hiện hành về lĩnh vực thi hành án đang còn thiếu

1


tính đồng bộ, cắt khúc và chưa đảm bảo mối quan hệ nhân - quả giữa hoạt
động xét xử tòa án với hoạt động thi hành án, làm cho cơ chế phối hợp chưa
đồng bộ trong việc tổ chức đưa bản án, quyết định ra thi hành nên thực sự
chưa thực sự tương xứng với vai trò, tầm quan trọng của hoạt động thẩm tra
viên... Điều này làm ảnh hưởng đến phương pháp, nghiệp vụ của thẩm tra
viên. Vì vậy, có nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, sửa đổi, qui định mới đối
với thẩm tra viên.
Chính bởi các lý do trên tác giả chọn đề tài: "Địa vị pháp lý của Thẩm
tra viên theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam" để nghiên
cứu, phát triển luận văn cao học của mình, cũng như góp phần nâng cao chất
lượng của đội ngũ Thẩm tra viên, hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân.
2. Tình hình nghiên cứu:
Nội dung nghiên cứu liên quan đến Thẩm tra viên hoặc gần với nội
dung lĩnh vực này, có thể đề cập đến các tác phẩm và công trình nghiên cứu
tiêu biểu, đó là:
Sách tham khảo về "Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một
số nước trên thế giới" của Ban Nội chính Trung ương, Nhà xuất bản Chính

trị quốc gia năm 2005, Hà Nội. Cuốn sách này đã nêu và phân tích kinh
nghiệm của một số nước về biện pháp kiểm tra, điều tra của Đảng cầm quyền,
như: (i) Các đảng cầm quyền ở Australia đề cao cơ chế bảo đảm sự liêm
chính trong tổ chức hoạt động của cơ quan công quyền; áp dụng kỹ thuật
điều tra đặc biệt, các phiên điều trần theo quy định pháp luật. Song hành
với việc coi trọng công luận và dư luận xã hội để giám sát hành vi của công
chức, phát huy vai trò báo chí có tính độc lập tương đối trong điều tra,
phòng, chống tham nhũng và công chức có sai phạm; (ii) Đảng Hành động
Nhân dân Singapore nắm quyền xác định xem xét cả các đơn thư tố giác
không ghi tên người gửi, xem xét cả các cuộc điện thoại gọi tới. Khi xem xét,

2


phải quyết định có tiến hành điều tra hay không, nếu có thì phải điều tra
ngay (không được để quá 4 ngày). Vì họ cho rằng, thư nặc danh là một
nguồn thông tin, còn kết luận công chức có sai phạm, có tham nhũng hay
không thuộc nhiệm vụ của các cơ quan có thẩm quyền.
Lý Quang Diệu viết chủ đề “Xây dựng một Chính phủ trong sạch”
trong tác phẩm "Bí quyết hóa rồng - Lịch sử Singapore 1965-2000", Nhà
xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, theo tác giả, để ngăn chặn, phát hiện
và cản trở những thủ đoạn tham nhũng, một trong các công cụ được mài
nhọn là cơ quan Ban Điều tra hành vi tham nhũng (CPIB), có quyền hạn
được điều tra bất kỳ viên chức hay vị Bộ trưởng nào. Nhân viên của Ban
được ủng hộ để thực thi luật, không e dè hay thiên vị. Minh chứng về vị trí
pháp lý của CPIB, đó là: năm 1960, chính quyền của Đảng PAP thực hiện
việc nới rộng quyền lực của các điều tra viên, kể cả quyền bắt giữ, khám
xét, thanh tra tài khoản, sổ ghi tiền gửi ngân hàng của những kẻ bị tình nghi
(kể cả vợ, con và thuộc hạ của họ). Cho phép người xét xử xem các chứng
cứ về người bị tố cáo đang sống ở mức sống vượt quá khả năng kinh tế của

họ hoặc có những tài sản mà thu nhập của họ không thể giải thích, là bằng
chứng xác thực để chứng minh rằng người bị tố cáo đã nhận hối lộ. Lý
Quang Diệu rút ra nhận định: Hệ thống được lập ra điều tra và báo cáo
trung thực sẽ chứng minh hệ thống ấy công minh và hiệu quả, không ai ở
ngoài lưới pháp luật cả.
Tác giả Nguyễn Anh Liên trong “Cơ sở lý luận, thực tiễn đổi mới và
nâng cao hiệu quả thẩm tra - xác minh trong công tác kiểm tra của
Đảng”, Đề tài khoa học cấp Ban Đảng Trung ương năm 2001, Ủy ban Kiểm
tra Trung ương. Đề tài này được thực hiện với mục tiêu tập trung đề xuất,
kiến nghị những giải pháp đổi mới về phương pháp, nghiệp vụ và quy
trình tiến hành thẩm tra xác minh, nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ nhiệm

3


vụ kiểm tra Đảng. Các tác giả của đề tài đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn
đề lý luận và thực tiễn của hoạt động thẩm tra, xác minh, đi sâu nghiên cứu
những vấn đề về quan niệm như: "trọng chứng", "trọng cung", "án tại hồ
sơ"…
Công trình đề tài “Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự
từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sỹ ngành Luật hiến pháp và
luật hành chính năm 2016 tại Học Viện Khoa học xã hội của tác giả Nguyễn
Hồng Nhung. Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ thực trạng địa vị pháp lý của
Thẩm tra viên từ thực tiễn công tác thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội,
công trình này có đưa ra các đề xuất mang tính khoa học nhằm hoàn thiện,
nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm tra viên các cơ quan thi hành án dân sự.
Tác giả Phạm Thị Ngạn trong “Hệ thống kỹ năng nghiệp vụ trong công
tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng”, Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2007,
Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Hà Nội. Đề tài này đã trình bày rõ hệ thống các
kỹ năng nghiệp vụ kiểm tra, bao gồm: các kỹ năng chung của công tác kiểm

tra, kỷ luật đảng và các kỹ năng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra bao gồm cả
kỹ năng thẩm tra, xác minh theo quy định tại Điều 32 Điều lệ Đảng .v.v..
Ngoài ra, còn có các công trình nghiên cứu liện quan khác như: Đề tài “Biện
pháp bảo đảm thi hành án dân sự”, Luận văn Thạc sĩ Luật năm 2012 tại Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội của tác giả Phan Huy Hiếu; Đề tài “Hoàn thiện
địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam”,
Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2009, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị Phíp…
Tuy vậy, cho đến thời điểm hiện tại, chưa có nhiều công trình nghiên
cứu khoa học liên quan đến địa vị pháp lý của Thẩm tra viên được triển khai.
Nhìn chung, chưa có công trình nào nghiên cứu về phân tích các yếu tố lý
luận xung quanh chủ đề về địa vị pháp lý của Thẩm tra viên theo pháp luật

4


Việt Nam mà chỉ nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về Thẩm tra viên làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp nâng cao địa vị
pháp lý của Thẩm tra viên góp phần làm rõ vai trò, địa vị pháp lý của Thẩm
tra viên trong hệ thống các cơ quan nhà nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đáp ứng mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ dưới
đây:
- Nghiên cứu, phân tích làm rõ về cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của
Thẩm tra viên.
- Nghiên cứu thực trạng địa vị pháp lý của Thẩm tra viên theo qui định
của pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.

- Đề xuất giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm tra viên, góp
phần nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án nhân dân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định của pháp luật có liên
quan đến Thẩm tra viên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thẩm tra viên là chức danh tồn tại ở trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ở
lĩnh vực tư pháp cũng có các chức danh Thẩm tra viên khác nhau như: Thẩm
tra viên Viện Kiểm sát nhân dân, Thẩm tra viên Tòa án nhân dân…
Trong phạm vi của luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu địa vị pháp lý
của Thẩm tra viên Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam qua giai đoạn 20162018.

5


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng phương pháp luận nghiên cứu
là chủ nghĩa Mác - Lênin.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh được áp dụng nghiên cứu
ở Chương 1 của luận văn.
- Phương pháp thống kê, khảo sát thực tế, phân tích, so sánh được sử
dụng cho những nội dung nêu trong Chương 2 của luận văn.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được áp dụng nghiên cứu ở
Chương 3 của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung làm rõ lý luận về địa

vị pháp lý của Thẩm tra viên Tòa án.
Kết quả nghiên cứu của đề tài còn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho cơ quan có thẩm quyền phục vụ hoạt động hoàn thiện chính
sách, pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm tra viên Tòa án nhân dân, góp
phần nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án nhân dân.
Kết quả nghiên cứu của đề tài còn có ý nghĩa vận dụng vào thực tiễn
nhằm góp phần cũng cố, nâng cao địa vị pháp lý Thẩm tra viên tại Tòa án và
hiệu quả của công tác này.
Luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, học tập trong các cơ sở đào tạo luật học trên phạm vi cả nước.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được chia thành 3 chương:

6


Chương 1: Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của thẩm tra viên
Chương 2: Thực trạng địa vị pháp lý của Thẩm tra viên từ thực tiễn tỉnh
Quảng Nam
Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Thẩm tra
viên ở nước ta hiện nay.

7


CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA THẨM TRA VIÊN

1.1. Khái niệm Thẩm tra viên, địa vị pháp lý của Thẩm tra viên
1.1.1. Khái niệm Thẩm tra viên
Thẩm tra là hoạt động kiểm tra, thẩm định về những nội dung căn bản
của một vấn đề nào đó nhằm kết luận về tính hợp pháp, tính đúng đắn và tính
khả thi. Thẩm tra là công cụ quan trọng, một nguyên tắc cơ bản trong khâu
tìm kiếm, phát hiện, thu thập thông tin. Thẩm tra là khâu rất quan trọng trong
công tác kiểm tra, nhưng phải luôn thực hiện công khai, dân chủ để xem xét,
tra cứu, đánh giá, phân tích và sử dụng các chứng cứ nhăm làm bản chất của
sự việc và hành vi, nội dung và đối tượng kiểm tra để kết luận nhằm đảm bảo
đúng nguyên tắc. Hoạt động thẩm tra được thực hiện các khâu: lập kế hoạch
thẩm tra và sử dụng kết quả thẩm tra để kết luận và xử lý nếu có vi phạm theo
thẩm quyền được pháp luật quy định.
Chức danh thẩm tra viên không những có ở Tòa án mà còn nhiều đơn vị
cũng có như: Thi hành án, Viện kiểm sát …… Ở mỗi đơn vị, thẩm tra viên
thực hiện những nhiệm vụ khác nhau theo sự phân công của lãnh đạo cơ quan
đó. Mặt khác, thẩm tra viên còn được quy định theo mỗi ngành luật khác
nhau.
Thẩm tra viên là công chức làm chuyên môn nghiệp vụ về một lĩnh vực
nào đó, được bổ nhiệm theo qui định của pháp luật về cán bộ, công chức, có
nhiệm vụ giúp thủ trưởng cơ quan thực hiện việc kiểm tra hồ sơ và trả lời các
vụ việc khiếu nại, tố cáo kéo dài, tham mưu cho thủ trưởng cơ quan đơn vị
các nhiệm vụ khác do thủ trưởng cơ quan đơn vị đó giao.
Trong hoạt động của một cơ quan, đơn vị nào đó, Thẩm tra viên có

8


nhiệm vụ giúp thủ trưởng cơ quan đơn vị đó thực nhiệm vụ của mình theo sự
phân công của thủ trưởng cơ quan đơn vị đó theo quy định của pháp luật.
Về phương diện lý luận và thực tiễn, chức danh Thẩm tra viên hiện nay

thực sự là một chức danh còn chưa đủ rõ về vị trí, vai trò, thẩm quyền, chức
năng, nhiệm vụ của chức danh Thẩm tra viên trong bộ máy tổ chức của Tòa
án nhân dân, nhất là trong quy trình tổ chức một vụ án cụ thể của Tòa án.
Thẩm tra viên là công chức chuyên môn, nghiệp vụ về lĩnh vực thẩm tra
các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính hoặc lao động; trực tiếp thực
hiện việc thẩm tra các vụ án theo sự phân công của lãnh đạo Toà án, tuân thủ
theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và chánh án trực tiếp về việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật
thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự theo qui định của luật.
Theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Thẩm tra viên là công
chức chuyên môn của Tòa án đã làm Thư ký Tòa án từ 05 năm trở lên, được
đào tạo nghiệp vụ Thẩm tra viên và bổ nhiệm vào ngạch Thẩm tra viên. Thẩm
tra viên thực hiện công tác thẩm tra hồ sơ vụ việc mà bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật theo sự phân công của Chánh án, kết luận việc
thẩm tra và báo cáo kết quả thẩm tra với Chánh án, thẩm tra về thi hành án
giúp chánh án tòa án thực hiện các nhiệm vụ công tác thi hành án thuộc thẩm
quyền tòa án và trả lời đơn thư, quyết định kháng nghị của các cơ quan liên
quan và thực hiện các nhiệm vụ khác do Chánh án phân công.
Thẩm tra viên tuy không phải là người tiến hành tố tụng nhưng là một
chức danh cũng rất quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân,
nhất là các tòa chuyên trách của hệ thống Tòa án. Chức danh thẩm tra viên
được xác lập kể từ khi có Quyết định số 788 ngày 08/10/1993 của Bộ trưởng,
Trưởng ban Tổ chức cán bộ Chính phủ ban hành về tiêu chuẩn nghiệp vụ ở

9


các ngạch công chức thẩm tra viên của ngành tòa án.
Để trở thành Thẩm tra viên phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau:

* Tiêu chuẩn chính trị, đạo đức, lối sống.
- Có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng; trung
thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
bảo vệ lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.
- Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công chức theo quy định của pháp luật;
nghiêm túc chấp hành sự phân công nhiệm vụ của cấp trên; tuân thủ pháp
luật, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, trật tự hành chính; gương mẫu thực hiện nội
quy, quy chế của Cơ quan.
- Tận tụy, trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, khách quan, công tâm và
gương mẫu trong thực thi công vụ; lịch sự, văn hóa và chuẩn mực trong giao
tiếp, phục vụ nhân dân.
- Có lối sống và sinh hoạt lành mạnh, khiêm tốn, đoàn kết; cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư; không lợi dụng việc công để mưu cầu lợi ích cá
nhân; không quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
- Thường xuyên có ý thức học tập, rèn luyện nâng cao phẩm chất, trình
độ, năng lực.
- Có đủ sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
* Tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ.
- Nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
chỉ thị, nghị quyết của cấp trên để vận dụng vào công tác thi hành án dân sự,
thi hành án hành chính;
- Nắm vững các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, thi hành
án hành chính, pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo và nghiệp vụ thẩm tra,
kiểm tra thi hành án dân sự, nghiệp vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo;

10


- Nắm được tình hình kinh tế, xã hội ở địa phương liên quan đến công

tác thi hành án dân sự;
- Có năng lực phối hợp với các đơn vị, cá nhân trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ;
- Nắm vững quy trình giải quyết công việc, có kỹ năng soạn thảo văn
bản và thuyết trình các vấn đề được giao nghiên cứu, tham mưu;
- Công chức được đề nghị bổ nhiệm vào ngạch Thẩm tra viên phải đang
giữ ngạch Chuyên viên và tương đương, có thời gian làm công tác pháp luật
từ 03 năm (36 tháng) trở lên.
* Tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng.
- Có trình độ Cử nhân Luật trở lên;
- Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ ngạch Thẩm tra viên theo nội dung
chương trình của Bộ Tư pháp;
- Có Chứng chỉ Ngoại ngữ với trình độ tương đương bậc 2 khung năng
lực ngoại ngữ Việt Nam theo quy định tại Thông tư số 01/2014/TT-BGDĐT
hoặc có chứng chỉ tiếng dân tộc đối với những vị trí yêu cầu sử dụng tiếng
dân tộc;
- Có chứng chỉ Tin học với trình độ đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công
nghệ thông tin cơ bản theo quy định tại Thông tư số 03/2014/TT-BTTTT.
1.1.2. Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm tra viên
Địa vị pháp lý là tổng thể về các quyền và nghĩa vụ của chủ thể pháp
luật, chúng phản ánh về vị trí, vị thế tư cách pháp lý của chủ thể ấy trong các
mối quan hệ pháp luật. Địa vị pháp lý (tư cách pháp lý) của một chủ thể được
thể hiện ở vị trí, vai trò của một chủ thể trong quan hệ pháp luật và gắn liền
theo nó là quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý phát sinh, ràng buộc, xác định
quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, là căn cứ xem xét và xử lý những mâu
thuẫn, xung đột và tranh chấp pháp lý, là căn cứ để thực hiện quyền và nghĩa

11



vụ, trách nhiệm của một tổ chức/ cá nhân trong một mối quan hệ pháp luật
xác định.
Như vậy, địa vị pháp lý của Thẩm tra viên là tổng thể các quyền và
nghĩa vụ của Thẩm tra viên trong các mối quan hệ pháp luật, thể hiện vị trí,
vai trò, thẩm quyền, chức trách, nhiệm vụ, quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm
của Thẩm tra viên khi thực hiện giúp Chánh án Tòa án thẩm tra hồ sơ vụ việc
và các nhiệm vụ khác theo quy định pháp luật.
Ý nghĩa của việc xác định địa vị pháp lý của Thẩm tra viên là nhằm
khẳng định vị trí, vai trò của Thẩm tra viên trong cơ cấu tổ chức của Tòa án
nhân dân; việc xác định địa vị pháp lý của thẩm tra viên cũng là căn cứ để
xác định trách nhiệm của Thẩm tra viên khi thực hiện nhiệm vụ của mình theo
đúng chuẩn mực quy định của pháp luật; nâng cao ý thức thực hiện nhiệm vụ
của Thẩm tra viên trong hoạt động của Tòa án nhân dân.
Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên được hình thành và xây dựng trên cơ
sở kết quả hoạt động của Tòa án là trọng tâm, thông qua việc trao quyền, giao
nhiệm vụ, tổ chức triển khai và thực hiện nhiệm vụ được giao, kết quả thực
hiện nhiệm vụ được giao.
Theo Khoản 4, Điều 93 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy
định chi tiết về các quyền và nghĩa vụ của Thẩm tra viên Tòa án như sau:
Thứ nhất, thẩm tra hồ sơ các vụ việc mà bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật theo sự phân công của Chánh án;
Thứ hai, kết luận việc thẩm tra và báo cáo kết quả thẩm tra với Chánh
án Tòa án;
Thứ ba, thẩm tra viên về thi hành án giúp Chánh án Tòa án thực hiện
các nhiệm vụ về công tác thi hành án thuộc thẩm quyền của Tòa án;
Thứ tư, thực hiện các nhiệm vụ khác theo sụ phân công của Chánh án
Tòa án.

12



Cùng với các quyền và nghĩa vụ nêu trên, thẩm tra viên phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật và trước Chánh án Tòa án về việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình. Nếu có hành vi phạm pháp căn cứ theo tính chất và mức
độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật/ truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định
pháp luật.
1.2. Nội dung địa vị pháp lý của Thẩm tra viên
Quy định của pháp luật hiện hành đã xây dựng cơ chế để Thẩm tra viên
thực hiện quyền tư pháp; nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm tra viên trong đó
có Thẩm tra viên Tòa án khi thực hiện công vụ góp phần hoàn thiện cơ chế để
nâng cao chất lượng và hiệu quả tranh tụng, tiếp tục hoàn thiện thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và
trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật; khắc phục tình trạng kháng nghị thiếu căn cứ; xây
dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ điều kiện;
khuyến khích giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng
tài; tiếp tục mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện
hành chính; bảo đảm sự công bằng giữa công dân và cơ quan công quyền
trước Tòa án; đổi mới thủ tục hành chính, thủ tục tố tụng tư pháp tại Tòa án
theo hướng dân chủ, khách quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân
tiếp cận công lý.
Cụ thể quy định về địa vị pháp lý của Thẩm tra viên Tòa án được quy
định theo pháp luật Việt Nam thông qua chức danh Thẩm tra viên của ngành
Tòa án đã được chính thức đưa vào quy định trong Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân, đây là cơ sở pháp lý nâng cao tương xứng vị trí, vai trò quan trọng,
quyền hạn của Thẩm tra viên Tòa án:
Thẩm tra viên là công chức chuyên môn của Tòa án đã làm Thư ký Tòa
án từ 05 năm trở lên, được đào tạo nghiệp vụ Thẩm tra viên và bổ nhiệm vào

13



ngạch Thẩm tra viên.
Thẩm tra viên ngành Tòa án có nhiệm vụ đó là: thẩm tra hồ sơ các vụ
việc mà bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tức là công
việc được tiến hành sau khi hoạt động giải quyết vụ việc đã kết thúc và kiểm
tra, thẩm tra trên hồ sơ đã hoàn thành (Khoản 4 Điều 93 Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân).
Tiêu chuẩn, điều kiện và việc thi nâng ngạch Thẩm tra viên do Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao quy định.
Ngạch của Thẩm tra viên Tòa án có 03 ngạch là Thẩm tra viên, Thẩm
tra viên chính và Thẩm tra viên cao cấp.
Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự
trung ương có các ngạch Thẩm tra viên quy định tại khoản 1 Điều này.
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án quân sự
quân khu và tương đương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và tương đương, Tòa án quân sự khu vực có các ngạch Thẩm tra
viên quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm vào các ngạch Thẩm tra
viên tại Tòa án nhân dân tối cao và bổ nhiệm vào ngạch Thẩm tra viên cao
cấp tại Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương.
Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án quân sự trung
ương bổ nhiệm vào các ngạch Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính tại Tòa án
nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương.
Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bổ
nhiệm vào các ngạch Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính tại Tòa án nhân dân
cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện và tương đương.
Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương đương bổ nhiệm vào các
ngạch Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính tại Tòa án quân sự quân khu và


14


tương đương, Tòa án quân sự khu vực.
Mối quan hệ giữa Thẩm tra viên với Chánh án, Thư ký, Thẩm phán tòa
án là mối quan hệ giữa Thẩm tra viên với những người tiến hành tố tụng. Đó
là mối quan hệ được thiết lập trên cơ sở pháp luật tố tụng đồng thời là mối
quan hệ phối hợp để đảm bảo việc tuân thủ các quy định của pháp luật.
Chánh án Tòa án căn cứ vào khả năng, trình độ, năng lực của Thẩm tra
viên để phân công, giao nhiệm vụ cho Thẩm tra viên thực hiện các công việc
của Tòa án. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ của đơn vị mà Thẩm tra viên được
giao nhiệm vụ cụ thể. Thẩm tra viên giúp lãnh đạo thực hiện việc ra quyết
định thi hành án hình sự, các báo cáo tổng kết, thống kê, tổng hợp các công
việc được Chánh án phân công. Bên cạnh đó, Thẩm tra viên giúp các Thẩm
phán trong việc giải quyết, xét xử các loại án.
Thẩm tra viên, Thư ký và Thẩm phán tòa án đều là những người tiến
hành tố tụng nên mối quan hệ giữa Thẩm phán, Thư ký và Thẩm tra viên là
mối quan hệ được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng và nó chỉ phát sinh trong
quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án là
người giúp việc cho Thẩm phán để thực hiện những tác nghiệp trong quá trình
giải quyết vụ án, vì thế Thư ký và Thẩm tra viên Tòa án phải chịu sự giám sát,
kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn của Thẩm phán nhằm thực hiện đúng quy định
của pháp luật.
Thẩm tra viên Tòa án được phân công làm công tác thi hành án hình sự
còn thực hiện giúp Chánh án những vấn đề về ban hành các quyết định hoãn
thi hành án, xóa án tích, giảm thời hạn thử thách của án treo, giảm án, tha tù
trước thời hạn, đặc xá, đại xá.
Thẩm tra viên Tòa án còn giúp Chánh án trong việc phối hợp với chính
quyền, địa phương, cơ quan, tổ chức nơi bị kết án tù nhưng cho hưởng án treo
hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ thực hiện việc giám sát, giáo dục, thông


15


qua việc ban hành, quản lý, theo dõi sổ theo dõi người bị kết án phạt tù nhưng
cho hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ do Tòa án ban hành.
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì việc giải quyết xét xử các loại
án không giống nhau và đương nhiên chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Thẩm tra viên Tòa án trong mỗi lĩnh vực khác nhau. Vì thế, ở lĩnh vực giải
quyết, xét xử các loại án thì chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Thẩm tra viên
Tòa án được điều chỉnh theo pháp luật tố tụng về giải quyết, xét xử các loại án
đó, còn trong lĩnh vực giải quyết, xét xử các loại án khác thì chức năng,
nhiệm vụ của Thẩm tra viên Tòa án lại được điều chỉnh theo pháp luật tố tụng
khác. Chính vì vậy, mối quan hệ giữa Thẩm tra viên với Chánh án, Thẩm
phán và Thư ký Tòa án cũng khác nhau, có thể là quan hệ điều hành trực tiếp
(như trường hợp Chánh án phân công cho Thẩm tra viên Toà án làm công tác
thi hành án hình sự, làm công tác báo cáo, thống kê v.v…) hoặc Thẩm tra
viên Toà án giúp việc trực tiếp cho Thẩm phán. Cũng có thể đó là mối quan
hệ gián tiếp giữa Chánh án với Thẩm tra viên Toà án thông qua Thẩm phán
hoặc Thư ký.
Ngoài ra, Thẩm tra viên Toà án là người phải trực tiếp thực hiện việc
vào sổ theo dõi việc thụ lý, giải quyết, xét xử các loại vụ án và làm công tác
báo cáo thống kê theo các biểu mẫu thống kê, sổ nghiệp vụ hoặc thực hiện các
phần mềm quản lý, thống kê các loại vụ án.
Thẩm tra viên có nhiệm vụ, quyền hạn: Thẩm tra hồ sơ các vụ việc mà
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo sự phân công của
Chánh án Tòa án; Kết luận việc thẩm tra và báo cáo kết quả thẩm tra với
Chánh án Tòa án; Thẩm tra viên về thi hành án giúp Chánh án Tòa án thực
hiện các nhiệm vụ về công tác thi hành án thuộc thẩm quyền của Tòa án và
thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án.

Thẩm tra viên theo sự phân công của lãnh đạo hoặc phòng giám đốc

16


kiểm tra, thẩm tra viên có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ các vụ án dân sự, hình
sự, kinh doanh thương mại, hành chính và lao động khi có kháng nghị theo
trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của người có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật. Trong trường hợp đương sự có đơn khiếu nại theo thủ tục này,
nếu cần thiết, thẩm tra viên đề xuất lãnh đạo mượn hồ sơ để nghiên cứu và để
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, thẩm tra viên tham mưu đề
xuất cho lãnh đạo ban hành công văn hoãn thi hành án trong thời gian 03
tháng, sau khi nghiên cứu xong, thẩm tra viên cần lập phiếu nghiên cứu đề
xuất hướng giải quyết vụ án với lãnh đạo, kháng nghị hoặc không kháng nghị
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Nếu kháng nghị thị thẩm tra viên cần dự thảo
quyết định kháng nghị trình Chánh án hoặc Phó chánh án ( nếu được ủy
nhiệm hoặc phân công phụ trách) ký ban hành, nếu không có căn cứ kháng
nghị thì thẩm tra viên dự thảo thông báo trả lời đơn hoặc Công văn trả lời cho
đương sự biết và nêu rõ lý do của việc không kháng nghị.
Trong thực tiễn xét xử, giải quyết các vụ án theo luật định, do vướng
mắc về nghiệp vụ, có Tòa án cấp huyện có văn bản hoặc trực tiếp mang hồ sơ
lên Tòa án nhân dân tỉnh để trao đổi nghiệp vụ, gặp trường hợp nàu thẩm tra
viên cũng cần nghiên cứu kỹ hồ sơ để tham mưu cho Ủy ban Thẩm phán Tòa
án nhân dân tỉnh có văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất.
Thông thường báo cáo tổng kết lãnh đạo giao cho bộ phận văn phòng
dự thảo, tuy nhiên có một số Tòa án thì giao cho phòng Giám đốc kiểm tra
soạn thảo, còn viết bào cáo chuyên để nghiệp vụ đa số lãnh đạo giao cho
phòng Giám đốc kiểm tra phân công cho thẩm tra viên lập dự thảo. Để viết tốt
các loại báo cáo, chuyên đề nghiệp vụ đòi hỏi thẩm ra viên phải có kỹ năng
viết, kiến thức tổng hợp, nhất là phải có chuyên sâu về nghiệp vụ, phải có tư

duy nhạy bén, biết phân tích, tổng hợp.
Thẩm tra viên cần lên kế hoạch công tác, sắp xếp thời gian, chủ động

17


liên hệ, phối hợp với cơ quan chuyên môn trong quá trình thẩm tra các vụ án
do lãnh đạo phân công nhất là những vụ án liên quan đến đất đai cần phải đo
đạc, định vị, thẩm định tại chỗ hay các vụ án có liên quan đến giám định dấu
vân tay, chữ viết…
Thống kê, tổng hợp số liệu, lưu giữ hồ sơ theo quy định. Việc thống kê,
tổng hợp số liệu phải được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, bảo đảm tính
khách quan, trung thực về số liệu báo cáo.
Thực hiện thẩm tra lại các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ các loại án do
các bên đương sự cung cấp hoặc cơ quan điều tra chuyển sang, đảm bảo đúng
quy trình, đúng luật và chịu trách nhiệm cá nhân về tính pháp lý của toàn bộ
hồ sơ vụ án thẩm tra laị.
Thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác xét xử.
Thẩm tra viên tổ chức được việc phối hợp với các ngành chuyên môn
liên quan để phục vụ cho công tác thẩm tra vụ án được phân công đảm bảo
chính xác, đúng luật.
1.3. Các yếu tố tác động đến địa vị pháp lý của Thẩm tra viên
1.3.1. Yếu tố pháp luật
Trong đời sống thực tiễn quản lý xã hội, pháp luật vốn có một vị trí, vai
trò hệ trọng và mang ý nghĩa rất lớn. Pháp luật là một trong những công cụ,
phương tiện có hiệu lực và hiệu quả nhất để quản lý quá trình kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, pháp luật chỉ thực sự phát huy vai trò to lớn của nó khi nó được áp
dụng vào đời sống và được cụ thể hóa bằng những hành động của con người,
đó chính là áp dụng pháp luật.

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính ràng buộc chung do
nhà nước quy định để định hướng điều chỉnh những mối quan hệ xã hội theo
mục tiêu cụ thể. Pháp luật quy định về các quyền và nghĩa vụ, chức năng và

18


nhiệm vụ, vị trí và vai trò của Thẩm tra viên, nên pháp luật là yếu tố hạt nhân
chi phối trực tiếp đối với địa vị pháp lý của Thẩm tra viên. Do đó, việc hoàn
thiện thể chế và các quy định của pháp luật sẽ quyết định đến sự hoàn thiện
việc xác định rõ về địa vị, tư cách, vị trí, vai trò, quyền hạn và nghĩa vụ, trách
nhiệm của Thẩm tra viên. Đây chính là cơ sở pháp lý, xác lập cơ chế thuận
tiện cho Thẩm tra viên trong quá trình thực thi công vụ. Ở trường hợp ngược
lại, nếu các quy định của pháp luật về nội dung không rõ ràng, có bất cập
không phản ánh nhu cầu chính đáng trong đời sống thực tiễn thì nó sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng hiệu quả hoạt động tổ chức của Tòa án; cũng
như ảnh hưởng đến vai trò, quyền và nghĩa vụ của Thẩm tra viên.
1.3.2. Yếu tố nhận thức và ý thức pháp luật
Yếu tố nhận thức và ý thức pháp luật là bộ phận, một mặt hoạt động rất
cơ bản cần thiết, không thể thiếu được của hoạt động tư pháp nói chung và
hoạt động xét xử nói riêng. Bất kỳ một chủ thể nào của hoạt động tư pháp khi
tiến hành nhiệm vụ của mình đều phải sử dụng yếu tố nhận thức và ý thức
pháp luật. Trong hoạt động xét xử, yếu tố nhận thức và ý thức pháp luật nhằm
thực hiện các mục đích sau: Phân tích, đánh giá các chứng cứ để làm sáng tỏ
sự thật khách quan của vụ án; tìm hiểu động cơ, mục đích của người tham gia
tố tụng; nắm bắt được đặc điểm tâm lý của những người tham gia tố tụng; đưa
ra cách thức, phương pháp tác động tâm lý đến những người tham gia tố tụng.
Trong hoạt động xét xử, yếu tố nhận thức và ý thức pháp luật trong giai
đoạn tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng nhận được một khối lượng thông
tin lớn từ nhiều nguồn khác nhau, nguồn thông tin này có thể bị thiếu hụt và

khó xác định. Điều quan trọng là từ khối lượng lớn thông tin này, cơ quan tiến
hành tố tụng phải tiến hành sàng lọc, chắp nối các thông tin lại cùng với việc
phân tích, đánh giá để rồi rút ra mối quan hệ biện chứng giữa các nguồn thông
tin. Như vậy, yêu cầu Thẩm tra viên phải có khả năng tư duy, lập luận pháp

19


lý, kinh nghiệm làm việc, có những phẩm chất tâm lý vững vàng, ổn định.
Ngoài ra, yếu tố nhận thức tư tưởng trong hoạt động tư pháp không phải là
một yếu tố nhận thức tư tưởng đơn thuần một sự việc khách quan nào đó, mà
nó liên quan chặt chẽ với các thủ tục tố tụng, đảm bảo phải tuân theo những
quy định của pháp luật một cách triệt để, xác định sự thật khách quan của vụ
án hình sự một cách nhanh chóng. Theo đó, yếu tố nhận thức và ý thức pháp
luật trong hoạt động tư pháp yêu cầu đòi hỏi Thẩm tra viên:
Họ cần có chuyên môn cao, tư duy pháp lý, kinh nghiệm làm việc và
những phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cần thiết khi tiến hành tố tụng nói
chung và các yếu tố nhận thức tư tưởng trong hoạt động tư pháp của mình nói
riêng. Để đảm bảo xác định sự thật của các vụ án một cách chính xác, khách
quan, nhanh chóng. Tòa án có thể đưa ra những phán quyết khách quan, toàn
diện và đúng pháp luật, xét xử đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và
không xét xử làm oan sai người vô tội thì Hội đồng xét xử nói chung cũng
như Thẩm phán làm nhiệm vụ Chủ tọa phiên tòa cũng cần có những nhận
thức đúng đắn về vụ án thông qua quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án của cơ
quan điều tra, thẩm vấn công khai tại phiên tòa. Như vậy, bản án, quyết định
của Tòa án có “thấu tình, đạt lý” hay không, sẽ phụ thuộc rất cao vào quá
trình nhận thức khách quan, toàn diện về vụ án của các cơ quan tư pháp.
Bản thân Thẩm tra viên phải luôn nêu cao nhận thức sâu sắc, ý thức
pháp luật bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa bằng cách tuân thủ và chấp hành
triệt để những quy định của pháp luật tố tụng khi tiến hành các hoạt động tố

tụng và nhận thức không nằm ngoài những quy định đó. Những người tiến
hành tố tụng phải có một nhận thức tư tưởng đúng đắn, khách quan trên cơ sở
những quy định của pháp luật, tránh những nhận thức chủ quan của mình dẫn
tới việc giải quyết vụ án hình sự có nhiều sai sót, không đúng pháp luật. Có
như vậy, Thẩm tra viên mới có thể thực hiện tốt vai trò giúp việc thủ trưởng

20


đơn vị trong việc thẩm tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong đó,
thường xuyên tiếp xúc, làm việc với các bên đương sự, làm việc với người
bức xúc, khiếu nại, tố cáo, phản ánh, đề nghị.
1.3.3. Trình độ và năng lực của Thẩm tra viên
Vị thế, vai trò, tầm quan trọng của Thẩm tra viên có được khẳng định
trong công tác hay không, nó phụ thuộc một cách trực tiếp vào trình độ và
năng lực của Thẩm tra viên. Trình độ và năng lực của Thẩm tra viên được thể
hiện ra ở khả năng tư duy, trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ của
Thẩm tra viên. Đây chính là yếu tố trực tiếp quyết định chất lượng công việc
của thẩm tra viên; cũng như mức độ hoàn thành công vụ.
Các tình huống thực tiễn thường gặp trong xử lý vụ việc cho thấy, nếu
Thẩm tra viên tham mưu chậm và không chính xác, thiếu thông tin bằng
chứng xác thực hoặc thiếu sót, vi phạm nhất định sẽ thường dẫn đến ảnh
hưởng làm suy giảm hiệu quả của hoạt động thẩm tra, kiểm tra; và qua đó sẽ
làm suy giảm uy tín, vị thế, vai trò của Thẩm tra viên.
1.3.4. Yếu tố kinh tế, xã hội
Hiện nay, mọi hoạt động xét xử của Toà án đều cần được xem xét ở bối
cảnh của xu hướng khách quan toàn cầu hoá và hội nhập đang diễn ra mạnh
mẽ. Nên việc cải cách tư pháp và Toà án là vấn đề tất yếu phải đặt ra và cũng
là nhiệm vụ trọng tâm. Như vậy, các hoạt động xét xử Toà án cần dựa trên
nhu cầu và phương hướng dưới đây:

Thứ nhất, yêu cầu của cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay là điểm xuất
phát. Trọng tâm của cải cách tư pháp đã được Đảng đề cập ở nhiều văn kiện
và Nghị quyết, đó là hoàn thiện thể chế pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Toà án. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình có hiệu
quả thì vai trò của Toà án là trung tâm. Ở khía cạnh tổ chức, Toà án các cấp
nếu càng ít phụ thuộc vào các cơ quan hành chính thì nó sẽ càng đảm bảo sự

21


×