Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

Luận văn thạc sĩ công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1004.85 KB, 95 trang )

VIỆN HÀN
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ

ĐỖ THỊ

CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM VI
PHẠM PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG

Chuyên ngành: Công tác xã
Mã số: 60 90 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA
HỌC TS. HÀ THỊ THƯ

HÀ NỘI,


LỜI CAM
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá
nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS.HÀ THỊ THƯ
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận
văn này trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 27 tháng 06 năm
2016 Học viên

Đỗ Thị



MỤC
MỞ
ĐẦU ...................................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM VI PHẠM PHÁP
LUẬT ............................................13 1.1 Trẻ em vi phạm pháp luật: khái niệm và
đặc điểm .................................................13 1.2 Lý luận về công tác xã hội nhóm đối
với trẻ em vi phạm pháp luật ..................19 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công
tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp
luật ...................................................................................................................................25 1.4
Cơ sở pháp lý về Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật .....28
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ
EM VI PHẠM PHÁP LUẬT TẠI TỈNH QUẢNG
NINH .....................................34 2.1.Khái quát đặc điểm địa bàn nghiên cứu và
khách thể nghiên cứu......................34 2.2. Thực trạng hoạt động công tác xã hội
nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp
luật .............................................................................................................................................
40 2.3 Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến công tác xã hội nhóm đối với trẻ
em
vi phạm pháp
luật ...................................................................................................................56 Chương 3:
BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI
VỚI TRẺ EM VI PHẠM PHÁP LUẬT ............................................65 3.1. Tiếp
tục hoàn thiện hành lang pháp lý, cơ chế chính sách pháp luật phát triển nghề
Công tác xã hội ...................................................................................................65 3.2.
Truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng .................................................66
3.3. Nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên môn Công tác xã hội cho đội ngũ
cán bộ làm việc với trẻ vi phạm pháp
luật .......................................................................67 3.4. Mở rộng mạng lưới trợ giúp

cho trẻ vi phạm pháp luật .......................................69 3.5. Chủ động bố trí kinh phí
địa phương hằng năm để đảm bảo thực hiện tốt các hoạt động công tác xã hội


DANH MỤC CÁC
Bảng

2.1:

Các

hành

động

sai

lệch



trẻ

đã

từng

thực

hiện........................... 38 Bảng 2.2: Các hoạt động giải trí nhóm mà trẻ nói

rằng đã được tham gia ..... 46 Bảng 2.3: Hoạt động hỗ trợ kết nối dạy nghề


tạo

việc

làm

cho

trẻ

vi

phạm

pháp

luật .......................................................................................................... 53
Bảng 2.4: Những việc các em thường làm trong thời gian rảnh rỗi


DANH MỤC CÁC
Biểu đồ 2.1: Khu vực sinh sống của trẻ em vi phạm pháp
luật ...................... 37 Biểu đồ 2.2: Nội dung giáo dục nhóm đối với trẻ em vi
phạm

pháp


luật

...... 41

Biểu

đồ

2.3:

Hình

thức

truyền

thông............................................................... 43 Biểu đồ 2.4: Các kỹ năng
xã hội trang bị cho trẻ vi phạm pháp luật.............. 48 Biểu đồ 2.5: Các nghề
mà trẻ được hỗ trợ kết nối dạy và tạo việc làm .......... 54 Biểu đồ 2.6: Trình
độ chuyên môn của Nhân viên công tác xã hội................ 56 Biểu đồ 2.7:
Đánh giá năng lực làm việc của nhân viên công tác xã hội ....... 57 Biểu đồ
2.8: Tỷ lệ kinh phí hoạt động............................................................. 59 Biểu


MỞ
ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là những con người chưa trưởng thành về mặt thể chất, tâm
lý và xã hội, dễ bị tổn thương do những tác động của môi trường sống, cần
được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng
công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Để thúc đẩy việc thực hiện

quyền trẻ em, rất nhiều Chỉ thị đã được ban hành về việc tăng cường sự
lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em, trong đó khẳng định trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là
tương lai của dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, cần được ưu tiên bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. Trong phạm vi
khả năng, cần tạo điều kiện tối đa để mọi trẻ em được bảo vệ, chăm sóc và
được phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ. Đồng thời nhấn mạnh công
tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em là vấn đề có tính chiến lược, lâu
dài, góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây tình trạng vi phạm pháp luật ở
trẻ em có chiều hướng gia tăng, tính chất phạm tội ngày càng nguy hiểm
để lại nhiều hậu quả nặng nề. Quảng Ninh là một tỉnh giáp biên giới có
điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển. Cùng với sự biến đổi nhanh
chóng về tình hình kinh tế - xã hội, tình trạng trẻ em vi phạm pháp luật
tại đây có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp cả về tính chất và
mức độ nghiêm trọng, đặc biệt ở trẻ vị thành niên. Tính một cách tổng thể từ
năm 2000 đến nay, theo số liệu thống kê của Công an tỉnh Quảng Ninh,
toàn tỉnh đã xảy ra 1.966 vụ với 2.834 đối tượng trong lứa tuổi vị thành
niên vi phạm pháp luật [52, tr.3]. Số người chưa thành niên vi phạm pháp
luật và bị khởi tố hình sự chiếm tỷ lệ cao so với toàn quốc (đứng thứ 5 sau


chủ yếu là các tội xâm phạm trật tự an toàn xã hội; xâm phạm sở hữu tài
sản như: trộm cắp, cướp giật, cưỡng đoạt tài sản; gây rối trật tự công cộng,
chống người thi hành công vụ, cố ý gây thương tích, hiếp dâm.Những năm
gần đây, tỉnh Quảng Ninh nổi lên tình trạng một bộ phận thanh thiếu niên
bỏ nhà sống lang thang, tụ tập và sử dụng hung khí nguy hiểm thực hiện
những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Một số loại tội phạm trước

đây không có hoặc ít thấy trong độ tuổi chưa thành niên thì nay có xu
hướng gia tăng như: buôn bán, tàng trữ, sử dụng ma túy; xâm phạm sức
khỏe và tính mạng con người.
Công tác xã hội là một ngành khoa học, một nghề mới ở Việt Nam
mặc dù nó có nguồn gốc và lịch sử phát triển hơn một thế kỷ qua trên thế
giới. Với bản chất là hướng đến sự trợ giúp con người trong cuộc sống,
nhất là những đối tượng thuộc nhóm bất lợi hoặc dễ bị tổn thương bằng
các hình thức can thiệp dựa trên góc độ tâm lý hay các mô hình can thiệp
từ cá nhân, đến nhóm và cộng đồng, công tác xã hội thể hiện được vai trò
quan trọng trong đời sống xã hội, nhất là trong xã hội hiện đại, xã hội
công nghiệp, cũng như trong xã hội lấy vấn đề phúc lợi, công bằng làm
định hướng phát triển. Tuy nhiên, hiện nay những nghiên cứu về hoạt động
công tác xã hội còn khá mới mẻ, đặc biệt chưa có nhiều công trình nghiên
cứu đến hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Công tác xã hội nhóm đối với trẻ
em vi phạm pháp luật từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm nghiên cứu
cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1.Tình hình nghiên cứu ở nước
ngoài
Tình trạng vi phạm pháp luật là một dạng đặc biệt của các hiện tượng
sai trái trong xã hội, có tính nguy hiểm cho xã hội cao nhất. Nó không chỉ


Hiện tượng trẻ em vi phạm pháp luật là một thực tế tồn tại trong tất
cả các quốc gia. Nhiều nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu vấn đề người
chưa thành niên vi phạm pháp luật và giáo dục lại đối tượng này. Từ
những năm đầu thế kỷ XX, nhà giáo dục vĩ đại Nga A.X.Macarenco đã
có những cống hiến rất lớn về vấn đề giáo dục trẻ em hư, phạm pháp trên
cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Trong quá trình làm việc với những

trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ em vô gia cư, vô thừa nhận..., tác giả đã xây
dựng hệ thống lý luận giáo dục và cải tạo trẻ em vi phạm pháp luật với
những quan điểm nhân đạo và tiến bộ. Với nguyên tăc “vàng” là “tôn trọng
và yêu cầu cao đối với trẻ”. Lý luận đó của ông đã được đúc kết thành công
trong việc cải tạo, giáo dục hàng nghìn trẻ em hư hỏng, lưu manh, vi phạm
pháp luật..., biến chúng từ những “cặn bã” của xã hội trở thành những công
dân tích cực và có ích cho xã hội.
Tác giả A.I.Cochetop trong công trình nghiên cứu “Những vấn đề
lý luận giáo dục” đã nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề giáo dục lại.
Theo ông, công tác giáo dục lại bao gồm việc giáo dục những trẻ em vô
kỷ luật, tăng cường chăm sóc những trẻ em lêu lổng và việc cải tạo
những trẻ em phạm pháp. Ông đã chỉ ra những nguyên nhân của trẻ có
biểu hiện tính chất khó dạy, đó là nguyên nhân xã hội, nguyên nhân tâm
lý, nguyên nhân giáo dục. Đặc biệt trong đó là nguyên nhân giáo dục. Từ
đó, tác giả đi sâu phân tích khái niệm, nội dung và những yêu cầu của
hệ thống các phương pháp giáo giục lại [3].
Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, có nhiều công trình nghiên
cứu của các tác giả ở nhiều nước đề cập đến vấn đề trẻ em, đặc biệt ở lứa
tuổi vị thành niên phạm tội. Trong đó, có một số công trình tiêu biểu như
sau:
(1) Trong cuốn sách “Tư pháp vị thành niên - Chính sách, thực tiễn
và Pháp luật” tác giả H.Ted Rubin đã nghiên cứu về vấn để tư pháp vị thành


tượng này, quá trình giáo dưỡng và phi xét xử, cơ quan công tố trong tư
pháp vị thành niên, tổ chức tòa án vị thành niên, cơ cấu lại hệ thống tư
pháp vị thành niên [25].
(2) Tác giả A.I.Dongova đã nghiên cứu về khía cạnh tâm lý - xã hội
về tình trạng phạm tội của người chưa thành niên ở Liên xô cũ [9].
(3) Zhang Wenbang, Chen Banglins, Zhou Zuyong đã nghiên cứu

thực trạng tình hình tội phạm thanh thiếu niên Trung Quốc trong những
năm 90 và đưa ra các biện pháp ngăn ngừa tệ nạn này [30].
(4) Trong cuốn “Phạm nhân vị thành niên: luật, chính sách và
thực hành”, các tác giả đã đề cập đến vấn đề phạm nhân và cảnh sát, chuyển
đổi từ quá trình phạm tội, tòa án vị thành niên và quá trình kết án ở Anh
[21].
(5) LA.Dvojmennyj, V.A.Lelekov đã nghiên cứu sự ảnh hưởng của
gia đình đến tình trạng phạm tội của lứa tuổi vị thành niên ở Nga [10].
(6) Tác giả Rita Reddy đã nghiên cứu về chiến lược và kinh
nghiệm phòng ngừa trẻ em lang thang, phạm pháp trong khu vực Đông
Nam Á. Tác giả tập trung đề cập về vấn đề luật pháp, giới thiệu các kinh
nghiệm can thiệp của cộng đồng một số nước khu vực Đông Nam Á như:
Thái Lan, Philippine, Malaysia [24].
(7) Trong bài viết “Những nguyên nhân xã hội của tội phạm vị
thành niên ở Hồng Koong” tác giả đã trình bày nghiên cứu của mình
về những nguyên nhân xã hội dẫn đến tình trạng phạm tội của vị thành niên
[20]...
Như vậy, ở rất nhiều nước trên thế giới vấn đề trẻ em vi phạm
pháp luật, đặc biệt là trẻ vị thành niên được quan tâm nghiên cứu dưới nhiều
góc độ khác nhau. Hệ thống hóa các công trình nghiên cứu kể trên, tôi thấy
các hướng nghiên cứu tập trung vào các vấn đề như: Nghiên cứu tình hình
vi phạm pháp luật nói chung và tình hình trẻ vị thành niên vi phạm


lý vị thành niên phạm tội và nghiên cứu hệ thống các biện pháp phòng
ngừa, hạn chế tình trạng phạm tội của trẻ em, đặc biệt là trẻ vị thành niên.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, từ sau khi nước ta dành được độc lập (1945), Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề: “phải giáo dục lại nhân dân chúng ta...”.
Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục lại trẻ em hư, người

chưa thành niên vi phạm luật trong toàn bộ công tác giáo dục trẻ. Từ đó,
các Bộ, Ngành, Cơ quan chức năng luôn đặc biệt quan tâm và chú trọng
về vấn đề này. Qua đó, một số công trình và dự án nghiên cứu tình hình,
nguyên nhân và các giải pháp ngăn chặn, giáo dục lại trẻ em phạm pháp
của các Viện nghiên cứu, Tổng cục Cảnh sát, Công an các tỉnh, thành...
thực hiện. Bên cạnh đó, ở các địa phương một số đề tài nghiên cứu về
vấn đề trẻ em hư và vi phạm pháp luật cũng được thực hiện. Có thể điểm
qua một số công trình, nghiên cứu cụ thể như sau:
Năm 1991, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý thực hiện đề tài
“Tình hình, nguyên nhân và các giải pháp đấu tranh phòng ngừa người
chưa thành niên phạm tội”. Đề tài đã nghiên cứu tình hình người chưa thành
niên vi phạm pháp luật trong thời gian từ năm 1987-1990, nêu lên những
nguyên nhân cơ bản, trực tiếp làm phát sinh, phát triển tình hình người
chưa thành niên phạm tội ở các tầm vĩ mô, vi mô và dự báo xu hướng trong
những năm tới.
Năm 1991, Viện khoa học hình sự cũng nghiên cứu đề tài “Tình
hình thanh thiếu niên phạm pháp ở Việt Nam và xu hướng đến năm 2000”.
Đề tài tập trung phân tích, đánh giá và phác thảo bức tranh khái quát vê
thực trạng phạm tội của thanh thiếu niên Việt Nam trong 10 năm (19781988); Dự báo xu hướng phát triển của tội phạm thanh thiếu niên đến năm
2000; Nêu ra và phân tích các yếu tố tác động đến tình hình và xu hướng
phạm tội trong thanh thiếu niên, từ đó kiến nghị hệ thống các biện pháp


Năm 1994, Tổng cục Cảnh sát nhân dân thực hiện đề tài “Tội phạm
ở Việt Nam: thực trạng, nguyên nhân và giải pháp”. Trên cơ sở đánh giá
khái quát thực trạng tội phạm và nguyên nhân dẫn đến tội phạm, đề tài
cũng dự bào tình hình tội phạm đến năm 2000 và đưa ra phương hướng
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong giai đoạn mới.
Năm 1996, Viện nghiên cứu thanh niên trong “Tổng luận về tình
hình vi phạm pháp luật trong lứa tuổi thanh thiếu niên hiện nay” đã đưa ra

một bức tranh khái quát về tình hình thanh thiếu niên vi phạm pháp luật,
nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội của thanh thiếu niên và đề xuất
những biện pháp phòng ngừa hiện tượng này.
Năm 1985, Phân viện Khoa học giáo dục tại Thành phố Hồ Chí
Minh đã thực hiện “Dự án ngăn chặn và giáo dục lại trẻ chưa ngoan và
trẻ phạm pháp tại Thành phố Hồ Chí Minh” [19]. Các tác giả đã khái quát
về thực trạng trẻ phạm pháp và trẻ chưa ngoan ở Thành phố từ năm
1977-1985, nêu lên những nguyên nhân của thực trạng và các biện pháp
ngăn chặn và giáo dục lại chưa ngoan, phạm pháp.
Năm 2000, Tổng cục Cảnh sát tiếp tục “Nghiên cứu các giải
pháp phòng ngừa trẻ em làm trái pháp luật” nhằm đề ra các giải pháp đồng
bộ, có tính khả thi trong việc giảm tình trạng trẻ em vi phạm pháp luật,
góp phần thực hiện chiến lược bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thời kỳ
2000-2010.
Năm 2010, ông Đàm Hữu Đắc - Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cũng chủ trì một đề tài nghiên cứu về “Thực trạng
vấn đề tệ nạn xã hội và công tác phòng chống tệ nạn xã hội trong thời kỳ đổi
mới”. Mặc dù đề tài chỉ tập trung vào hai dạng tệ nạn xã hội là ma túy
và mại dâm, nhưng nhóm nghiên cứu đã phác họa được những nét khái
quát về nguyên nhân và thực trạng vấn đề thanh niên và trẻ vị thành niên


trong đề tài là những lời cảnh tỉnh thiết thực với các nhà quản lý, giáo
dục, phòng chống và ngăn chặn tình hình trẻ vi phạm pháp luật.
Năm 2012, tác giả Đặng Lệ Thu và một nhóm nghiên cứu thuộc
Học viện cảnh sát đã tiến hành một đề tài nghiên cứu can thiệp “Định
hướng nghề nghiệp cho học sinh trường giáo dưỡng số 2 - Yên Mô Ninh Bình - Thực trạng và giải pháp”. Nhằm tìm hiểu về thực trạng công
tác định hướng nghề nghiệp và đào tạo nghề cho học sinh trong các
trường giáo dưỡng thuộc Bộ Công an hiện nay. Tác giả đã tiến hành khảo
sát với phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi đối với 196 học sinh (trên
15 tuổi) đang học tập, tu dưỡng tại trường và tham gia trực tiếp vào hoạt

động tham vấn nghề nghiệp cho các học sinh, giúp các em chủ động lựa
chọn nghề nghiệp, căn cứ vào khả năng, sở trường, sở thích của các em.
Qua đó, tác giả cho rằng, vai trò định hướng của các đơn vị, cá nhân có
liên quan đến hướng nghiệp, dạy nghề cho học sinh giáo dưỡng còn chưa
được phát huy.
Ngoài ra, một số công trình, đề tài nghiên cứu về vấn đề này được
thể hiện trong các tác phẩm, bài báo khoa học: “Cơ sở lý luận và thực
tiễn của quá trình giáo dục lại học sinh hư, học sinh phạm pháp” [12];
“Bước đầu tìm hiểu quá trình biến đổi tâm lý của trẻ bình thường đến vị
thành niên phạm pháp [22]; Tìm hiểu nguyên nhân trẻ em phạm pháp và
việc nghiên cứu nhân cách” [15]; Vấn đề gia đình và trẻ em phạm pháp
[16]; Một số vấn đề tâm lý học về thiếu niên phạm pháp” [23]...
Nhìn chung, các công trình, đề tài nghiên cứu đều chú trọng đến
tình hình vi phạm pháp luật của trẻ em đặc biệt là lứa tuổi vị thành niên,
nguyên nhân của tình trạng này và những biện pháp ngăn chặn, giáo dục
lại. Qua đó, các nhà nghiên cứu đã góp phần làm nên hệ thống cơ sở lý
luận và thực tiễn sâu sắc về quá trình giáo dục lại trẻ em hư, phạm pháp.


tất cả các địa phương trong cả nước, trong đó có tỉnh Quảng Ninh, đòi hỏi
có sự quan tâm của các cấp, ban, ngành đoàn thể và cộng đồng.
Như đã đề cập ở trên, tình hình trẻ em vi phạm pháp luật trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh có những diễn biến phức tạp. Hiện nay, chưa có
công trình nào tập trung nghiên cứu sâu về thực trạng, các giải pháp, biện
pháp can thiệp hỗ trợ cho nhóm trẻ em vi phạm pháp luật với những diễn
biến phức tạp đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên
cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực trạng công tác xã hội nhóm đối với trẻ
em vi phạm pháp luật tại Quảng Ninh; các yếu tố ảnh hưởng đến công tác

xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật, từ đó đưa ra các biện pháp
thúc đẩy hiệu quả công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật.
Hệ thống hóa các khái niệm, lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu, từ
đó xây dựng cơ sở lý luận về công tác xã hội nhóm trong việc trợ giúp cho
trẻ em vi phạm pháp luật và các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề này.
Khảo sát và đánh giá thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật tại
tỉnh Quảng Ninh hiện nay; Các hoạt động của công tác xã hội tới nhóm trẻ
này và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động này.
Đề xuất biện pháp thúc đẩy hiệu quả công tác xã hội nhóm đối với
trẻ em vi phạm pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên
cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực trạng hoạt động công tác xã hội nhóm
đối với trẻ em vi phạm pháp luật từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.


4.2 Khách thể nghiên
Đề tài nghiên cứu khách thể chính đó là trẻ em. Ngoài ra, còn có
các cán bộ làm công tác Lao động - Thương binh và Xã hội, cộng tác viên
công tác xã hội.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về đối tượng: Nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác xã
hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh
qua 4 hoạt động: Hoạt động giải trí nhóm; Hoạt động giáo dục nhóm;
Hoạt động phát triển kỹ năng xã hội cho nhóm; Hoạt động hỗ trợ dạy
nghề và kết nối việc làm.
Phạm vi về khách thể: Nghiên cứu trên 100 trẻ em, có độ tuổi từ 14 18 tuổi; 30 cán bộ có liên quan tới trẻ đang làm việc tại các phường, xã.
Phạm vi về thời gian, địa bàn: Từ tháng 02/2016 - 6/2016 tại
Thành phố Hạ Long và Thị xã Đông Triều.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên

cứu 5.1 Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, trong đó:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng: Đề tài xem xét hoạt động
công tác xã hội đối với trẻ em vi phạm pháp luật trong mối quan hệ với các
yếu tố môi trường gia đình và xã hội, đặt vấn đề trong một tổng thể.
Những vấn đề liên quan đến trẻ vi phạm pháp luật và các phương pháp thực
hiện công tác xã hội chuyên nghiệp được phân tích theo các tương quan để
đưa ra một kết luận khách quan, toàn diện.
- Phương pháp luận duy vật lịch sử: Đối tượng nghiên cứu được
đánh giá, phân tích theo một trục thời gian, mang tính lịch sử rõ nét. Qua
đó, các vấn đề và yếu tố liên quan trong đề tài nghiên cứu có sự so sánh,


theo các thời kỳ lịch sử, đảm bảo tính xác thực và toàn vẹn trong trình bày
kết quả nghiên cứu.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
5.2.1 Phương pháp nghiên cứu phân tích tài
Là phương pháp thu thập thông tin từ các công trình nghiên cứu và
các tài liệu có sẵn của các tác giả trong và ngoài nước. Phương pháp này
được áp dụng phân tích các tài liệu như: Báo cáo về tình hình văn hóa, kinh
tế, xã hội của tỉnh Quảng Ninh, mẫu thu thập thông tin có sẵn của huyện
và thành phố cùng với các báo cáo chuyên ngành của Công an, Tư pháp,
Văn hóa Thông tin, các văn bản quy định…nhằm phục vụ cho quá trình
nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát: Quan sát là phương pháp thu thập thông tin
thực nghiệm mà thông qua các tri giác như nghe, nhìn để thu thập thông
tin về các quá trình, các hiện tượng xã hội trên cơ sở nghiên cứu của đề tài
và mục đích của cuộc nghiên cứu nhằm đánh giá mức độ tin cậy của thông
tin đã thu thập. Do đó, trong quá trình thực hiện đề tài, tôi chú trọng quan sát

thái độ và cách ứng xử của trẻ để có cái nhìn khách quan, sinh động về vấn
đề nghiên cứu.
- Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi: Là phương pháp điều tra
xã hội học nhằm thu thập thông tin bằng cách lập một bảng hỏi cho
nhóm đối tượng trong một khu vực nhất định ở một không gian, thời gian
nhất định. Sử dụng phương pháp này, có thể thu thập được một lượng
thông tin lớn mang tính đại chúng trong quá trình điều tra và thu thập thông
tin.
Trong khuôn khổ luận văn và thực hiện đề tài, tôi có xây dựng
một bảng hỏi là tổ hợp các câu hỏi với các chỉ báo, con số định lượng để
thu thập thông tin từ trẻ về hành vi và mức độ vi phạm pháp luật; Thực
trạng các hoạt động xã hội liên quan đến việc trợ giúp cho trẻ vi phạm pháp


từ phương pháp này sẽ đem lại kết quả chính cho nghiên cứu.Cơ cấu bảng
hỏi gồm 4 phần:
+ Phần 1: Phần thông tin cá
nhân + Phần 2: Thông tin về
nhu cầu
+ Phần 4: Phần trả lời câu hỏi (Trong đó, số lượng câu hỏi là 28 câu)
Số lượng phiếu phát ra: 130 phiếu; Số lượng phiếu thu về: 130
phiếu
Phương pháp phỏng vấn sâu: Là phương pháp thu thập thông tin cụ
thể của xã hội học, thông qua những cuộc đối thoại được lặp đi lặp lại
giữa nhà nghiên cứu và người cung cấp thông tin nhằm tìm hiểu cuộc
sống, kinh nghiệm và nhận thức của người cung cấp thông tin thông qua
chính ngôn ngữ của người ấy.
Phỏng vấn sâu được tiến hành với cán bộ huyện/thành phố bao
gồm: Cán bộ lãnh đạo chính quyền, các ban ngành đoàn thể như: Chủ
tịch/phó Ủy ban nhân dân, Tư pháp, Công an,… nhằm tìm hiểu sâu những

vấn đề mà nội dung nghiên cứu mong muốn thực hiện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận
văn 6.1 Ý nghĩa lý luận của luận văn
Đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ một số lý luận liên quan tới vấn
đề nghiên cứu như: Vi phạm pháp luật là gì? Trẻ em vi phạm pháp luật
là gì? Các hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em vi phạm pháp luật và
các yếu tố ảnh hưởng. Bên cạnh đó, đề tài thể hiện được vai trò của công tác
xã hội trong việc trợ giúp trẻ em vi phạm pháp luật, từ đó mọi người
nhận rõ được tầm quan trọng của nhân viên công tác xã hội hiện nay.


6.2 Ý nghĩa thực tiễn của luận
Đề tài xây dựng nhằm nghiên cứu thực trạng trẻ em vi phạm pháp
luật từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh và Công tác xã hội nhóm đối với vấn đề
này tại địa bàn nghiên cứu. Trên cơ sở đó, phát hiện các vấn đề trong
thực trạng nhằm đưa ra các giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả của
hoạt động công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp luật trên địa
bàn tỉnh. Đồng thời, đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
người làm công tác xã hội; Tiếp tục bổ sung hệ thống lý thuyết, thực
hành chuyên biệt cho hoạt động công tác xã hội với trẻ em nói chung và trẻ
em vi phạm pháp luật nói riêng.
Ngoài phần Mở đầu; Kết Luận; Danh mục tài liệu; Phụ lục kèm
theo, luận văn còn có 3 chương sau đây:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công tác xã hội nhóm với trẻ em
vi phạm pháp luật.
Chương 2: Thực trạng công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi
phạm pháp luật tại tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Biện pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội nhóm đối
với trẻ em vi phạm pháp luật từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.



Chương
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NHÓM ĐỐI VỚI TRẺ EM VI PHẠM PHÁP LUẬT
1.1 Trẻ em vi phạm pháp luật: khái niệm và đặc
1.1.1. Một số khái
niệm - Khái niệm trẻ
em
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em số 25/2004/QH11
của Việt Nam “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam
dưới 16 tuổi”. Theo Luật trẻ em số 102/2016/QH13 ngày 05/4/2016 quy
định: “Trẻ em là những người dưới 16 tuổi”. Nhưng theo Điều 1 trong
Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em quy định: “Trẻ em có nghĩa
là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật áp dụng với trẻ em đó quy định
tuổi thành niên sớm hơn” [2].
Từ điển xã hội họ - G.Endruweit và G. Trommsdorff - Nhà xuất bản
thế giới: Trẻ em vi phạm pháp luật là những hành động, hành vi làm
trái với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Những hành vi hành động này có
tác động có hại cho xã hội và con người [5].
Một khái niệm khác: Trẻ em vi phạm pháp luật là những người có
hành vi vi phạm các quy định của pháp luật ở các mức độ khác nhau.
Trẻ vi phạm pháp luật có thể bị xử lý theo Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính hoặc theo Bộ luật Hình sự phù hợp với Bộ luật Tố tụng
hình sự.
Theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính: Trẻ em trong độ tuổi từ 14
-18 (gọi là người chưa thành niên) sẽ bị xử phạt hành chính về các vi
phạm hành chính có chủ ý và người chưa thành niên từ 16 tuổi trở lên sẽ bị


lệnh xử lý vi phạm hành chính, số 44/2002/PL-UBTVQH10, ngày

02/7/2002 của Ủy ban thường vụ Quốc hội) [3].
Theo Bộ luật Hình sự: Người chưa thành niên từ 14-16 chỉ phải
chịu trách nhiệm hình sự cho các tội hình sự rất nặng gây ra có chủ ý hoặc
các tội đặc biệt nghiêm trọng. Người chưa thành niên từ 16 tuổi trở lên
phải chịu trách nhiệm với mọi vụ án mà họ gây ra. Mục đích chính của
việc xử phạt hình sự người chưa thành niên vi phạm pháp luật là để giáo
dục và giúp đỡ những người này sửa chữa lỗi lầm và phát triển lành
mạnh, trở thành những người công dân có ích (Bộ luật Hình sự Việt Nam
sửa đổi, bổ sung 2009, số 37/2009/QH12, ngày 19/6/2009 của Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [3].
Tóm lại, trẻ em vi phạm pháp luật là những trẻ có độ tuổi từ 0 đến
dưới 18 tuổi có các hành vi vi phạm các quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm tâm lý và nhu cầu của trẻ em vi phạm pháp
luật * Đặc điểm tâm lý của trẻ em vi phạm pháp luật
Trẻ em, đặc biệt là trẻ ở độ tuổi vị thành niên, đây là giai đoạn
hình thành và phát triển nhân cách, trí tuệ, thể lực nên tâm lý khá phức
tạp, thiếu ổn định. Lứa tuổi này các em luôn có xu hướng muốn vươn lên
để trở thành người lớn. Đặc điểm này luôn thôi thúc các em có khuynh
hướng tự lập, bứt phá sự ràng buộc, sự kiểm tra, áp đặt của những người
lớn trong gia đình, của thầy cô giáo. Sự bức phá này có nguy cơ dễ bị sa
ngã, bị dụ dỗ, lôi kéo rủ rê của kẻ xấu nếu như khuynh hướng tự lập không
theo chiều hướng tốt.
Tính hiếu động, hiếu thắng, nông nổi và liều lĩnh. Đặc điểm này
hình thành trong các em thường có những hành động bộc phát, thiếu
suy nghĩ, không phân biệt được đúng, sai, do đó trong hành động
thường liều lĩnh, không sợ nguy hiểm, không sợ vi phạm pháp luật,
hoạt động không theo khuôn mẫu, không có quy luật nhất định mà


dễ bị kích động nhưng cũng dễ chán nản.Nhu cầu giao tiếp bạn bè phát

triển nên hình thành nhóm bạn để chơi bời, học tập.
Ngoài các đặc điểm chung nói trên, trẻ em vi phạm pháp luật còn
có thêm một số đặc điểm tâm lý như: Tính ích kỷ, tính thiếu kiên định, tính
phủ định, tính dối trá, tính ưa tâng bốc, tính thô lỗ, tính vô kỷ luật.
* Nhu cầu của trẻ em vi phạm pháp luật.
Trước hết là nhu cầu về mặt vật chất phục vụ cho việc ăn uống, vệ
sinh, đảm bảo cho sự phát triển về mặt thể chất của trẻ;
Thứ hai, nhu cầu về mái ấm gia đình, là chỗ dựa về mặt thể chất và
tinh thần của trẻ;
Nhu cầu được giải trí vui chơi (nhu cầu phát triển), học tập, thông
qua những hoạt động này đưa trẻ được hòa mình vào xã hội tự khẳng định
mình;
Nhu cầu được tôn trọng, trẻ luôn đòi hỏi nhu cầu này từ người lớn,
ở bạn bè và ở cha mẹ. Sự tôn trọng này sẽ làm tăng sự tự tin, nghị lực của
trẻ;
Nhu cầu cao nhất của trẻ là tự khẳng định mình, chứng minh rằng
mình có năng lực, mình có thể làm được mọi việc.
Tuy nhiên, đối với trẻ vi phạm pháp luật thì cần thêm một số nhu
cầu như sau:
Nhu cầu được tham vấn, tư vấn: Thực tế khi tiếp xúc với nhóm trẻ
em vi phạm pháp luật cho thấy, phần lớn các em bị tổn thương về nhiều
mặt. Các em thiếu tình yêu thương và sự chăm sóc của cha mẹ, gia đình, dẫn
tới sự lệch lạc trong cấu trúc nhân cách, rối nhiễu tâm trí, rối loạn hành vi…
Hầu hết các em đều có nhu cầu được chia sẻ tâm tư nguyện vọng và vượt
qua những trở ngại tâm lý. Do đó, hoạt động tư vấn, tham vấn kịp thời có
thể giúp các em vượt qua khủng hoảng tâm lý, giúp các em nhìn nhận rõ


ngăn chặn, phòng ngừa những rối loạn hành vi trong các em như: giận
dữ, đánh nhau, bỏ ăn hay tự sát…

Nhu cầu được trang bị kiến thức về Pháp luật: Một trong những yếu
tố ảnh hưởng đến hành vi vi phạm pháp luật của trẻ là sự hạn chế trong
nhận thức pháp luật. Nhiều em không biết những hành vi mà các em định
làm là vi phạm pháp luật, không biết rằng các em phải chịu trách nhiệm đối
với hành vi của mình như thế nào. Vì vậy, việc trang bị các kiến thức về
pháp luật cho các em là hoạt động rất cần thiết. Từ đó trẻ có thể nhận
thức được hành vi nào đúng, hành vi nào sai nhằm kịp thời ngăn chặn các
hành vi sai lệch của trẻ.
Nhu cầu được trang bị kỹ năng sống: Trẻ vi phạm pháp luật rất
cần được trang bị các kỹ năng sống. Vì phần lớn kinh nghiệm sống của
các em còn non nớt, tư duy bồng bột, chưa sâu sắc, thiếu bao quát… các
em rất dễ chịu ảnh hưởng từ bạn bè. Đặc biệt, khi các em chơi với bạn
xấu thì ảnh hưởng tiêu cực là khó tránh khỏi. Chính vì vậy, các em rất cần
được cung cấp các kỹ năng sống cho bản thân để có thể làm chủ được bản
thân, sống tích cực và hướng đến những điều lành mạnh cho chính mình
cũng như cho xã hội.
Nhu cầu được tiếp tục học văn hóa: Đa số trẻ vi phạm pháp luật
đều chưa học xong văn hóa, trước khi thực hiện các hành vi vi phạm pháp
luật các em đã có thời gian dài thường xuyên bỏ học, vi phạm nội quy,
quy chế của nhà trường. Có em chủ động bỏ học, có những em bị nhà
trường đuổi học. Tuy nhiên, sau khi thực hiện các hành vi vi phạm pháp
luật hoặc sau một thời gian lang thang, tụ tập, trẻ rất muốn được quay lại
tiếp tục học văn hóa. Do đó, để trẻ có thể tái hòa nhập cộng đồng tốt, cần
kết nối để có thể đáp ứng được nhu cầu này của trẻ.
Nhu cầu được học nghề gắn với tạo việc làm: Từ những đặc điểm
đã phân tích ở trên cho thấy, nhóm trẻ vi phạm pháp luật thường lông


cảnh khó khăn. Do vậy, vấn đề tìm việc làm với các em là rất khó khăn.
Vì thế các em rất cần được hỗ trợ kết nối dạy nghề và tạo việc làm cho bản

thân.
* Nguyên nhân dẫn đến trẻ em vi phạm pháp luật: Có rất nhiều
nguyên nhân dẫn đến trẻ em vi phạm pháp luật, tuy nhiên ở đây tác giả chỉ
nêu ra ba nhóm nguyên nhân chính như sau:
- Nguyên nhân từ phía gia đình
Theo khảo sát cho thấy, những tác động từ gia đình khiến trẻ em hư,
vi phạm pháp luật là rất lớn. Có thể là do bố mẹ không thực sự gương
mẫu, thường xuyên vi phạm pháp luật, sống trái với những chuẩn mực xã
hội; hoặc một số khác thì quá mải mê làm ăn, quá đề cao lợi ích kinh tế
nên hướng trẻ em tới lối sống thực dụng, vì tiền v.v... Chưa thành công
trong việc giáo dục con cái là nỗi khổ tâm lớn nhất của các bậc cha mẹ.
Thực tế thì những trẻ lang thang và vi phạm pháp luật xuất phát nhiều từ
các gia đình quá chiều chuộng con cái. Trong các nguyên nhân của yếu tố
gia đình tác động khiến cho trẻ vi phạm pháp luật được biểu hiện ở các
mặt như: Cha mẹ không quan tâm đến việc giáo dục con cái; Cha mẹ, gia
đình là những gương xấu cho con cái noi theo; Không khí đạo đức trong
gia đình không thuận lợi; Cha mẹ không thống nhất được phương pháp
giáo dục con cái; Cha mẹ chưa nắm được phương pháp giáo dục con cái;
Cha mẹ chưa hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ…
Như vậy, gia đình là nơi gần gũi nhất với trẻ. Tuy nhiên, đây cũng
là nơi phát sinh ra các yếu tố tạo cho trẻ cơ hội tham gia vào các tệ nạn xã
hội. Vì vậy, các bậc cha mẹ cần phải có thái độ ứng xử hợp lý trong gia đình
để trẻ noi theo.
Nhà trường là nơi góp phần quan trọng trong việc giáo dục và rèn
luyện con người. Tuy nhiên, giáo dục trong nhà trường hiện nay còn đặt ra
nhiều bất cập: Chỉ chú trọng tới việc dạy chữ, chạy theo thành tích với


mà chưa thật sự chú ý đến việc giáo dục pháp luật, đạo đức nhân cách cho
học sinh, đặc biệt là việc trang bị những kiến thức, kỹ năng sống cho

học sinh chưa được đầy đủ. Đặc biệt, trong giáo dục thì còn nhiều vấn đề
tác động vào trẻ làm chúng không thống nhất được về tư duy như: Sự
tác động không thống nhất giữa những người giáo dục; Một số giáo viên
chưa quan tâm nhiều đến việc giáo dục học sinh cá biệt; Một số giáo viên
không hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ; Thiếu nghiêm túc trong học
hành, thi cử…
Ngoài vòng tay gia đình thì nhà trường là nơi dạy dỗ con người
thành người, là môi trường có tác dụng to lớn đến sự hình thành nhân cách
của các em. Đây là một tổ chức có tính chất chiến lược nhất trong việc
phòng ngừa các em vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, nhà trường cũng có
những yếu kém, sai lầm có thể tạo ra cho trẻ hư hỏng, đặc biệt là nếu nhà
trường không quản lý tốt thì trẻ sẽ rất dễ sa vào các tệ nạn xã hội.
Trẻ sống trong môi trường xã hội có rất nhiều biến đổi như hiện nay
thì việc ảnh hưởng của môi trường xã hội đối với con trẻ là rất lớn. Điển
hình như: Thiếu sót về tổ chức Đoàn, Đội ở địa phương, không tạo cho
trẻ được những sân chơi lành mạnh, bổ ích; Thiếu sót trong việc sử dụng
các phương tiện thông tin đại chúng. Việc đưa lên phim ảnh, báo những
chuyện bạo lực chém giết tàn nhẫn, thủ đoạn lừa gạt tinh vi, những thủ thuật
trộm xe… Chính những bài học ấy đã vận dụng vào thực tế và đã thành
công làm cho tính chất tội phạm trẻ em ngày càng trầm trọng, việc trốn
tránh pháp luật ngày càng khéo léo, bởi trẻ chưa được trang bị kỹ năng
tiếp thu có chọn lọc, thiếu khả năng khái quát, đánh giá; Ảnh hưởng của
các luồng văn hóa phẩm đồi trụy; Ảnh hưởng của môi trường sống không
lành mạnh, trẻ bị rủ rê, lôi kéo và những ảnh hưởng tiêu cực của nên kinh
tế thị trường cũng tác động mạnh mẽ đến việc đưa trẻ đến con đường phạm
pháp.


Các nghiên cứu cho thấy, trẻ có những thay đổi mạnh mẽ về tâm
lý hàng ngày, với sự đa dạng và phức tạp trong tình cảm, tâm tư, có em

khép mình vào thế giới nội tâm, có em lại muốn tự khẳng định mình,
không muốn phụ thuộc và rất dễ dàng bị tác động, rủ rê, lôi kéo của các đối
tượng xấu. Các em thường dễ dàng hành động mà không có sự cân nhắc,
tính toán. Chính sự vận động tâm lý đó đã chiếm một phần lớn các yếu tố
khác nhau dẫn đến con đường vi phạm pháp luật.
* Hậu quả của trẻ em vi phạm pháp luật
Việc trẻ vi phạm pháp luật để lại hậu quả nghiêm trọng không chỉ
cho bản thân các em mà còn cho cả gia đình, nhà trường và xã hội. Trước
hết, đối với bản thân trẻ phạm tội, sau khi có hành vi vi phạm sẽ phải
chịu nhiều hình thức xử phạt và ảnh hưởng lớn đến đạo đức, nhân cách
của trẻ, kìm hãm sự phát triển của trẻ, gây cho trẻ bị khủng hoảng tâm
lý, tự ti, xa lánh bạn bè và xã hội. Mặt khác, khi đã vi phạm pháp luật
thì tương lai của trẻ sau này cũng bị ảnh hưởng do những tiền án và tiền
sự mà trẻ đã có. Còn đối với gia đình của trẻ có hành vi vi phạm pháp
luật cũng bị ảnh hưởng đến đời sống kinh tế và chịu nhiều tác động của
dư luận xã hội… Đối với xã hội, trẻ em là tương lai của đất nước nhưng
nếu trẻ vi phạm pháp luật thì đồng nghĩa với đất nước sẽ mất đi một phần
nguồn lực, ảnh hưởng đến trật tự xã hội, nếp sống văn minh.
1.2. Lý luận về công tác xã hội nhóm đối với trẻ em vi phạm pháp
luật 1.2.1. Một số khái niệm
* Khái niệm công tác xã hội nhóm
Theo các tác giả Toseland và Rivas (1998) có nhiều cách tiếp cận
với Công tác xã hội nhóm và mỗi cách tiếp cận có những điểm mạnh và
những ứng dụng thực hành cụ thể. Vì vậy, các tác giả này đưa ra một định
nghĩa bao quát được bản chất của Công tác xã hội nhóm và tổng hợp
những điểm riêng biệt của các cách tiếp cận với Công tác xã hội nhóm


hội nhóm là hoạt động có mục đích với các nhóm nhiệm vụ và trị liệu
nhỏ nhằm đáp ứng nhu cầu về tình cảm xã hội và hoàn thành nhiệm vụ.

Hoạt động này hướng trực tiếp tới cá nhân các thành viên trong nhóm và
tới toàn thể nhóm trong một hệ thống cung cấp dịch vụ” [25, tr.12]. Hoạt
động có mục đích được các tác giả này nhấn mạnh là hoạt động có kế
hoạch đúng trật tự, hướng tới nhiều mục đích khác nhau, ví dụ như để hỗ
trợ hay giáo dục nhóm giúp các thành viên trong nhóm giao tiếp và phát
triển cá nhân. Định nghĩa này cũng nhấn mạnh hoạt động có định hướng
không chỉ với cá nhân thành viên trong nhóm mà với cả toàn thể nhóm.
Trong từ điển CTXH của Barker (1995), CTXH nhóm được định
nghĩa là: “Một định hướng và phương pháp can thiệp CTXH, trong đó
các thành viên chia sẻ những mối quan tâm và những vấn đề chung họp
mặt thường xuyên và tham gia vào các hoạt động đưa ra nhằm đạt được
những mục tiêu cụ thể. Đối lập với trị liệu tâm lý nhóm, mục tiêu CTXH
nhóm không chỉ là trị liệu những vấn đề về tâm lý, tình cảm mà còn là
trao đổi thông tin, phát triển kỹ năng xã hội và lao động, thay đổi các
định hướng giá trị và làm chuyển biến các hành vi chống lại xã hội thành
các nguồn lực hiệu quả. Các kỹ thuật can thiệp đều được đưa vào quá trình
CTXH nhóm nhưng không hạn chế kiểm soát những trao đổi về trị liệu” [25,
tr.85].
Tác giả Nguyễn Thị Oanh (1998) đưa ra khái niệm trị liệu nhóm mô
tả rõ nét hơn thân chủ và yêu cầu của cán bộ chuyên môn trong trị liệu
nhóm. Theo tác giả, trị liệu nhóm nhằm trị liệu cá nhân các bệnh tâm
thần, những người bị rối loạn, ức chế tâm lý khá sâu. Mối tương tác giữa
bệnh nhân được dùng để hỗ trợ quá trình trị liệu, nhưng công tác này đòi
hỏi kiến thức chuyên sâu về tâm lý, tâm lý trị liệu và tâm thần học.
Theo tác giả Nguyễn Thị Thái Lan (2008), Công tác xã hội nhóm
tập trung vào một nhóm thân chủ không chỉ là cá nhân thân chủ. Phương


×