Tải bản đầy đủ (.docx) (90 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần Viglacera Hữu Hưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.21 KB, 90 trang )

1

1

TÓM LƯỢC

Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một điều kiện và là một yếu
tố kích thích kinh doanh. Quy luật cạnh tranh là động lực thúc đẩy hát triển sản xuất,
sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, hàng hoá sản xuất ra nhiều, số lượng người
cung ứng ngày càng đông thì cạnh tranh ngày càng khốc liệt, kết quả cạnh tranh là loại
bỏ những Công ty làm ăn kém hiệu quả, năng suất chất lượng thấp và ngược lại nó
thúc đẩy những Công ty làm ăn tốt, năng suất chất lượng cao. Do vậy, muốn tồn tại và
phát triển thì doanh nghiệp cần phải cạnh tranh, tìm mọi cách nâng cao khả năng cạnh
tranh của mình nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng.
Để đạt được các mục tiêu doanh nghiệp cần phải cạnh tranh, chỉ có cạnh tranh thì
doanh nghiệp mới bằng mọi giá tìm ra phương cách, biện pháp tối ưu để sáng tạo, tạo
ra những sản phẩm đạt chất lượng cao hơn, cung ứng những dịch vụ tốt hơn đối thủ
cạnh tranh, thỏa mãn nhu cầu khách hàng ngày càng tăng. Chỉ có cạnh tranh thì doanh
nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển. Nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế thế
giới ngày càng sâu rộng và Việt Nam đã gia nhập tổ chức WTO , đối diện với thực tế
về trình độ công nghệ mới , kỹ năng quản lý trong hoạt động SXKD , năng lực tài
chính ,đội ngũ nguồn nhân lực phải có kiến thức về công nghệ và áp dụng các tiêu
chuẩn quốc tế ISO …
Luận văn: “ Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần
Viglacera Hữu Hưng” nghiên cứu tổng thể về năng lực cạnh tranh cũng như đề xuất
một số giải pháp khả thi giúp ban lãnh đạo công ty có được những quyết định đúng
đắn trong chiến lược kinh doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.


2


2

LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian làm khóa luận tốt nghiệp đề tài “ giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh tại công ty cổ phần Viglacera Hữu Hưng” vận dụng những kiến thức đã học
ở trường và kết hợp với tình hình thực tế ở công ty trong thời gian thực tập một tháng,
em đã hiểu biết được những kiến thức cơ bản trong lĩnh vực quản lý kinh tế, và với sự
giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa cũng như nhà trường và các cô chú bác anh
chị trong công ty CP viglacera Hữu Hưng cùng với sự góp ý nhiệt tình của các bạn,
đặc biệt là giáo viên hướng dẫn Th.s Vũ Thị Thùy Linh đã đi sâu sát cùng em để vận
dụng và đưa ra các vấn đề , giải pháp trong bài nghiên cứu của em, giúp em hoàn
thành khóa luận .. Nhưng do những hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm tìm hiểu thực
tế chưa có nhiều nên bài luận còn nhiều điểm hạn chế Em rất mong nhận được sự chỉ
bảo, giúp đỡ của các thầy cô giáo và những ý kiến đóng góp của các bạn để khóa luận
của em được hoàn thiện hơn. Điều quan trọng là những ý kiến của các thầy cô giáo sẽ
giúp em có thể tiếp cận thực tế trong hoạt đọng sản xuất kinh doanh ngày càng tốt hơn
và những kinh nghiệm phục vụ cho quá trình đi làm sau này.
Cuối cùng em xin cảm ơn các thầy cô giáo trong trường , trong khoa, cô giáo
hướng dẫn Th.s Vũ Thị Thùy Linh cũng xin cảm ơn các anh, chị, các cô chú trong
công ty cổ phẩn Viglacera Hữu Hưng đã giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu khóa
luận và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Hà Nội, ngày 25 tháng 04 năm 2017
Sinh viên thực hiện
Cao Thị Huyền


3

3


MỤC LỤC


4

4

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

BẢNG, BIỂU

HÌNH VẼ


5

5

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Kí hiệu viết tắt

Tên đầy đủ

CTCP

Công ty cổ phần

NLCT


Năng lực cạnh tranh

LTCT

Lợi thế cạnh tranh

BĐS

Bất động sản

DN

Doanh nghiệp

VLXD

Vật liệu xây dựng

CP

Cổ phẩn


6

6

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Chúng ta tham gia vào thị trường chung thế giới tức là phải chấp nhận luật chơi
chung và chịu sức ép cạnh tranh lớn từ các công ty và tập đoàn nước ngoài đã, đang và
sẽ thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Các đối thủ nước ngoài thì có tiềm lực rất
mạnh về mọi mặt, trong khi đó khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam là năng lực
còn hạn chế, quy mô sản xuất, tài chính còn khiêm tốn, năng lực quản lý và hiệu quả
sử dụng vốn chưa cao, mối liên kết giữa các doanh nghiệp còn yếu mang tính hình
thức. Do vậy nếu mỗi doanh nghiệp trong nước không tự nâng cao năng lực cạnh tranh
của mình thì trong trận đấu vốn không cân sức với đối thủ nước ngoài sẽ dễ bị loại
khỏi cuộc đua. WTO sẽ là cơ hội tốt cho doanh nghiệp nào biết tận dụng nó một cách
hợp lý song cũng chính là rào cản lớn cho doanh nghiệp nếu không tự nâng cao được
năng lực cạnh tranh cần thiết cho mình. Nâng cao năng lực cạnh tranh chính là đáp
ứng yêu cầu tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật cạnh tranh của thương trường và
cũng là phục vụ lợi ích của chính doanh nghiệp. Bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động
trong nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với cạnh tranh, với quy luât "mạnh được
yếu thua", nếu né tránh thì sớm muộn gì doanh nghiệp cũng bị cạnh tranh đào thải. Do
vậy để có thể tồn tại, đứng vững trên thương trường và thắng được đối thủ thì tất yếu
doanh nghiệp phải tự nâng cao năng lực cạnh tranh của mình bằng cách không ngừng
nâng cao chất lượng hạ giá thành, áp dụng thành tựu công nghệ tiên tiến vào trong sản
xuất, sử dụng kiến thức quản lý hiện đại vào hoạt động quản trị một cách khoa học,
sáng tạo.
Mặt khác nâng cao năng lực cạnh tranh cũng chính là nhằm đáp ứng yêu cầu đòi
hỏi của thực tế. Sở dĩ như vậy là vì:
- Do yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về hàng hoá, dịch vụ không chỉ
về mặt chất lượng, giá cả, kiểu cách thiết kế, tính mỹ thuật sản phẩm, các dịch vụ sau
bán mà sự ưa chuộng của khách hàng còn được thểhiện qua uy tín, kinh nghiệm,
thương hiệu của chính doanh nghiệp. Vì thế đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có những
cải tiến đổi mới nhất định để nâng cao năng lực của mình mới có khả năng đáp ứng
những yêu cầu này của khách hàng.
- Do cuộc bùng nổ cách mạng công nghệ toàn cầu, với những tiến bộ của khoa

học đã tạo ra những dây truyền máy móc thiết bị vô cùng hiện đại, tự động hoá, làm


7

7

giảm rất nhiều chi phí cho sản xuất, tăng tiến độ hoàn thành sản phẩm, và giúp doanh
nghiệp có thể thực hiện được những dự án có quy mô lớn và tính phức tạp cao về kỹ
thuật. Trong cuộc chạy đua này nếu doanh nghiệp nào tận dụng được sức mạnh kỹ
thuật thì chắc chắn sẽ về đích nhanh hơn. Mà để tiếp cận được với những công
nghệ cao này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tự tích luỹ, nâng cao năng lực của
mình. Vì vậy , nâng cao năng lực cạnh tranh là cần thiết cho sự phát triển kinh tế,
xã hội. Mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, do vậy mỗi tế bào "khoẻ"
thì cả nền kinh tế đó cũng có năng lực cạnh tranh cao hơn. Ngược lại khi nền kinh
tế đó "khoẻ" thì nó lại tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát
huy được lợi thế của mình .
Công ty cổ phần viglacera Hữu Hưng được thành lập trên cơ sở chuyển đổi từ
doanh nghiệp nhà nước sang, trực thuộc tổng công ty Thủy tinh và gốm xây dựng – Bộ
xây dựng.Sản phẩm chủ yếu của công ty là các loại gạch ngói xây dựng phục vụ chủ
yếu cho thị trường trong nước. Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, Năm
1992 công ty đã mạnh dạn đầu tư đổi mới dây chuyền máy móc công nghệ, thay thế hệ
thống sản xuất gạch của Italia và lò nung tuynen với trị giá 12 tỷ VNĐ. Những thành
tựu công ty thu được : giải thưởng ‘quả cầu vàng” năm 2002 , giải thưởng “ hàng Việt
Nam chất lượng cao” do người tiêu dùng bình chọn năm 2003. .. Hiện nay các sản
phẩm của công ty đã có mặt trên toàn quốc và đã xuất khẩu sang nhưng thị trường
quốc tế như : Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Quốc, Singapo,...
Tuy nhiên ,trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng và Việt
Nam đã gia nhập tổ chức WTO , đối diện với thực tế về trình độ công nghệ mới , kỹ
năng quản lý trong hoạt động SXKD , năng lực tài chính ,đội ngũ nguồn nhân lực phải

có kiến thức về công nghệ và áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế ISO …Công ty cổ phần
Viglacera Hữu Hưng đã bộc lộ rất nhiều hạn chế trong công tác quản lý , khả năng
cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trong và ngoài tỉnh.
Để Công ty cổ phần Viglacera Hữu Hưng ngày càng vươn lên và phát triển trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì việc phân tích đánh giá thực trạng môi trường
hoạt động SXKD ,môi trường cạnh tranh và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của công ty là hết sức cần thiết . Từ mong muốn đó, trong thời gian
thực tập tại Công ty cổ phần Viglacera Hữu Hưng em chọn đề tài nghiên cứu : “ Giải
pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần Viglacera Hữu Hưng” với hy
vọng đóng góp một phần công sức nhỏ bé vào sự nghiệp phát triển của công ty .


8

8
2. Xác định vấn đề nghiên cứu

+ Làm rõ các khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung.
+ Sản phẩm kinh doanh và thị trường kinh doanh của Công ty Cổ phần
Viglacera Hữu Hưng là gì? Mức độ cạnh tranh trong ngành của Công ty và năng lực
cạnh tranh của công ty như thế nào?
Thực trạng xác định và đánh giá năng lực cạnh tranh tại Công ty như thế nào?
+ Đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty
+Công ty có những điểm mạnh điểm yếu nào ?
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu chung khi nghiên cứu đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
tại Công ty cổ phần Viglacera Hữu Hưng” là nhằm phân tích thực trạng năng lực cạnh
tranh của công ty và từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực năng lực

cạnh tranh trong thời gian
Để thực hiện được mục tiêu chung này cần thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất: Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Thứ hai: Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh tại
Công ty Cổ phần Cổ phần Viglacera Hữu Hưng
Thứ ba: Đưa ra kết luận và đề xuất một số giải pháp cho các hạn chế còn tồn tại
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần Viglacera Hữu Hưng
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:

các nhân tố ảnh hưởng và các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty
Công ty Cổ phần Viglacera Hữu Hưng từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của Công ty
-

Phạm vi nghiên cứu:
Nhận thức được rằng để phân tích hay đánh giá một cách triệt để và toàn diện
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là vấn đề rất phức tạp, liên quan đến nhiều vấn
đề, nhiều khía cạnh, nhiều cấp độ tổ clhức và quản trị. Bên cạnh đó, do giới hạn về
thời gian và kiến thức còn nhiều hạn chế, do đó để kết quả nghiên cứu thực sự ứng
dụng trong hoạt động kinh doanh của Công ty Công ty Cổ phần Viglacera Hữu Hưng ,
em xin giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:


9

9

+ Sản phẩm: Công ty kinh doanh nhiều mặt hàng, chủng loại, nhưng bài khóa

luận này tôi xin tập trung vào sản phẩm “gạch tuynel và gạch ốp lát”
+ Không gian: địa bàn Hà Nội
+ Về thời gian: Các dữ liệu, thông tin phục vụ cho nghiên cứu đề tài khóa luận
được thu thập trong khoảng thời gian từ năm 2013-2015 và đề xuất giải pháp nâng cao
năng lực cạnh tranh của công ty giai đoạn 2017 - 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu

5.1 Phương pháp thu thập dữ liệu
5.1.1 Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp:
- Phương pháp khảo sát điều tra trắc nghiệm:
Tôi tập trung vào các vấn đề như xây dựng phiếu điều tra trắc nghiệm chuyên sâu
dành cho khách hàng và cho nhân viên.
• Mẫu phiếu điều tra nhân viên (phụ lục 1)
+ Số phiếu điều tra phát ra 20 phiếu, số phiếu thu về 20 phiếu.
+ Đối tượng điều tra: là những người trong bộ phận hành chính, trong các phòng
ban như phòng Marketing, phòng hành chính nhân sự.
+ Phiếu điều tra nhân viên tìm hiểu về mức độ quan trọng của các yếu tố quyết
định đến sự thành công của sản phẩm, so sánh với các đối thủ cạnh tranh. Các yếu tố
đó là: vị thế tài chính, nguồn nhân, lực, năng lực quản trị, quy mô sản xuất.
• Mẫu phiếu điều tra khách hàng (phụ lục 1)
+ Số phiếu phát ra 20 phiếu, số phiếu thu về 20 phiếu.
+Đối tượng điều tra: Phát trực tiếp cho khách hàng tới tại Công ty .
+ Việc điều tra nhằm tìm hiểu những yếu tố quyết định tới quyết định mua
của khách hàng, đánh giá của khách hàng về sản phẩm của Công ty so với đối thủ
cạnh tranh.
• Mục đích của phiếu điều tra: Nhằm điều tra và thu thập thông tin về những
điểm mạnh, điểm yếu của công ty, cần phải xem xét và đánh giá trên nhiều phương
diện để làm cơ sở đánh giá thành công và hạn chế trong chương 2.
• Nội dung phiếu điều tra: Chủ yếu liên quan đến các thông tin về thực trạng
năng lực cạnh tranh của công ty, các điểm mạnh, điểm yếu của công ty

- Phương pháp phỏng vấn:
Xây dựng bảng câu hỏi phỏng vấn trực tiếp lãnh đạo liên quan đến năng lực cạnh
tranh của công ty, những vấn đề mà công ty tồn tại.


10

10

+ Bảng câu hỏi phỏng vấn: (phụ lục 2)
Gồm có 01 bảng câu hỏi phỏng vấn ông Nguyễn Huy Thuật -giám đốc Công ty
CP Viglecera Hữu Hưng. Phiếu phỏng vấn chuyên sâu với 10 câu hỏi được tiến hành
phỏng vấn.
+ Mục tiêu của cuộc điều tra phỏng vấn: là thu thập thông tin có liên quan đến
định hướng của ban lãnh đạo đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty, từ
đó rút ra những kết luận để giải quyết phát huy và nâng cao năng lực cạnh tranh của
công ty với các đối thủ cạnh tranh
5.1.2 Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp:
- Dữ liệu thứ cấp được thu thập qua các nguồn sau: Kết quả báo cáo hoạt động
kinh doanh, tình hình lao động, của công ty giai đoạn 2013-2015 tại Phòng Kế toàn tài chính, phòng hành chính - nhân sự , các dữ liệu thông tin trên Internet: trang chủ
Website của công ty.
5.2 Phương pháp xử lý dữ liệu
- Định tính: Tổng hợp lý thuyết, tổng hợp dữ liệu thứ cấp, từ đó phân tích các kết
quả thu thập phần khác
- Định lượng: Thu thập và xử lý các kết quả dữ liệu thứ cấp bằng phần mềm
Excel, tổng hợp và minh họa bằng các biểu đồ.
6. Kết cấu đề tài

Bao gồm các phần: tóm lược, lời cảm ơn, danh mục bảng biểu, sơ đồ, hình vẽ,
danh mục từ ngữ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục

Và Nội dung chính gồm:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
nói chung
Chương 2: Phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần
Viglacera Hữu Hưng
chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần
Viglacera Hữu Hưng


11

11

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP NÓI CHUNG

1.1 Các khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm về thị trường

Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ. Nó
phản ảnh các mối quan hệ kinh tế trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa như
mối quan hệ giữa người mua và người bán hay giữa các người bán với nhau, giữa các
người mua với nhau. Thị trường ra đời đồng thời với sự ra đời và phát triển của nền
sản xuất hàng hóa và hình thành trong quá trình lưu thông.
Theo Paul A. Samuelson, thị trường là một quá trình, trong đó người mua và
người bán cùng một thứ hàng hóa tác động qua lại lẫn nhau để định ra số lượng và giá
cả của hàng hóa đó. Còn theo quan điểm của Pinkdyck, thị trường là tập hợp những
người mua và người bán, tác động qua lại lẫn nhau, dẫn đến khả năng trao đổi. Dù
quan niệm hay diễn đạt như thế nào, cuối cùng thị trường cũng chính là mối quan hệ
giữa tổng cung và tổng cầu với cơ cấu cung, cầu về một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó

1.1.2

Khái niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, cấp độ khác
nhau nhưng vẫn chưa có một định nghĩa rõ ràng và cụ thể. Ở cấp độ doanh nghiệp,
cạnh tranh có thể được hiểu là sự tranh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành
một nhân tố sản xuất hay khách hàng bằng nổ lực nâng cao năng lực, tạo ra lợi thế
cạnh tranh vượt trội cho bản thân doanh nghiệp nhằm mang lại cho khách hàng những
giá trị gia tăng cao hơn hoặc mới lạ hơn để khách hàng lựa chọn mình chứ không phải
đối thủ, từ đó doanh nghiệp tồn tại và nâng cao vị thế của mình trên thị trường để thu
lợi nhuận cao hơn. Do vậy, Paul A. Samuelson đã nói: “Cạnh tranh là sự kình địch
giữa các doanh nghiệp để giành khách hàng hoặc thị trường”.
Các giá trị gia tăng vượt trội dưới cái nhìn khách hàng có thể được tạo ra thông
qua một hoặc một số các yếu tố như: chất lượng sản phẩm, chất lượng thời gian, chất
lượng không gian, chất lượng dịch vụ, chất lượng thương hiệu, chất lượng giá cả,…
Cạnh tranh là một đặc tính tất yếu của nền kinh tế thị trường, là một cuộc đua không
dứt. Cạnh tranh có thể đưa lại lợi ích cho người này và thiệt hại cho người khác nhưng
xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động tích cực như sản phẩm tốt
hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ tốt hơn,…


12

12

Cạnh tranh còn giúp thị trường hoạt động có hiệu quả nhờ việc phân bổ hợp lý
các nguồn lực có hạn. Đây cũng chính là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế.
Tuy nhiên cạnh tranh cũng có những biểu hiện tiêu cực như cạnh tranh thiếu sự kiểm
soát, cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến sự phát triển sản xuất tràn lan, lộn xộn, tình
trạng “cá lớn nuốt cá bé”, gây khủng hoảng thừa, thất nghiệp và làm thiệt hại quyền lợi

người tiêu dùng.
Khoa học kỹ thuật phát triển đã đẩy mạnh nền sản xuất, sản phẩm ngày càng
nhiều trên thị trường, cung càng vượt cầu thì cạnh tranh càng gay gắt. Khi tính cạnh
tranh của thị trường kinh doanh ngày càng cao thì không một doanh nghiệp nào có thể
tự chủ được, thậm thí sống còn được nếu như họ không tìm mọi cách khai thác lợi thế
riêng của mình, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Ngoài ra, một khái niệm mới đầu thế kỷ 21 đã được W. Chan Kim và Renée
Mauborgne, hai Giáo sư tại Viện INSEAD của Pháp, đưa ra là “Chiến lược Đại dương
xanh”. Có thể tóm tắt như sau: “Đại dương đỏ tượng trưng cho tất cả các ngành hiện
đang tồn tại. Đây là khoảng thị trường đã được xác lập. Đại dương xanh bao gồm tất
cả những ngành hiện chưa tồn tại. Đó là khoảng trống thị trường chưa được biết đến”,
và “…hầu hết được tạo ra từ bên trong những thị trường đỏ bằng cách mở rộng ranh
giới của ngành. Trong đại dương xanh, sự cạnh tranh là không cần thiết bởi vì luật chơi
còn chưa được thiết lập”.
1.1.3

Khái niệm năng lực cạnh tranh
Theo lý thuyết thương mại truyền thống thì năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp được xem xét qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất. Hiệu quả
của các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh được đánh giá dựa trên mức chi phí
thấp. Chi phí sản xuất thấp không chỉ là điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh mà còn
đóng góp tích cực cho nền kinh tế.
Theo quan điểm tổng hợp của Van Duren, Martin và Westgren thì năng lực cạnh
tranh là khả năng tạo ra và duy trì lợi nhuận và thị phần trên các thị trường trong và
ngoài nước, các chỉ số đánh giá năng suất lao động, công nghệ, tổng năng suất các yếu
tố sản xuất, chi phí cho nghiên cứu và phát triển, chất lượng và tính khác biệt của sản
phẩm, chi phí đầu vào,…
Lý thuyết tổ chức công nghiệp xem xét năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
dựa trên khả năng sản xuất ra sản phẩm ở một mức giá ngang bằng hay thấp hơn giá
phổ biến mà không có trợ cấp; đảm bảo cho ngành, doanh nghiệp đứng vững trước các

đối thủ khác hay sản phẩm thay thế.


13

13

Michael Porter cho rằng năng lực cạnh tranh là khả năng sáng tạo ra những sản
phẩm có qui trình công nghệ độc đáo để tạo ra giá trị gia tăng cao, phù hợp với nhu
cầu khách hàng, có chi phí thấp, năng suất cao nhằm tăng lợi nhuận.
Như vậy, thuật ngữ “năng lực cạnh tranh” dù đã được sử dụng rộng rãi nhưng
vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về nó, dẫn đến cách thức đo lường năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp vẫn chưa được xác định một cách thống nhất và phổ biến.
Tuy thế, từ các quan điểm trên, chúng ta có thể đúc kết lại như sau: Năng lực cạnh
tranh là khả năng khai thác, huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
giới hạn như nhân lực, vật lực, tài lực,…để tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn so
với đối thủ cạnh tranh; đồng thời, biết lợi dụng các điều kiện khách quan một cách có
hiệu quả để tạo ra lợi thế cạnh tranh trước các đối thủ, xác lập vị thế cạnh tranh của
mình trên thị trường; từ đó, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập và lợi nhuận cao,
đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại, tăng trưởng và phát triển bền vững.
Năng lực cạnh tranh được phân biệt thành 4 cấp độ như sau:
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa: là khả năng sản phẩm đó bán
được nhanh với giá tốt khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên thị trường.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, tốc độ cung cấp,
dịch vụ đi kèm, thương hiệu, quảng cáo, uy tín của người bán, chính sách hậu mãi,…
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: là khả năng doanh nghiệp tạo ra được
lợi thế cạnh tranh, có năng suất và chất lượng sản phẩm cao hơn của đối thủ, chiếm
lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập và lợi nhuận cao để tồn tại và phát triển bền vững.
- Năng lực cạnh tranh của ngành: là khả năng ngành phát huy được những lợi thế
cạnh tranh và có năng suất so sánh cao hơn giữa các ngành cùng loại.

- Năng lực cạnh tranh của quốc gia: là năng lực của nền kinh tế quốc dân nhằm
đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế và các đặc
trưng kinh tế, xã hội khác. Năng lực cạnh tranh quốc gia có thể hiểu là việc xây dựng
một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo có hiệu quả phân bố nguồn lực, để
đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Năng lực cạnh tranh ở bốn cấp độ trên có mối tương quan mật thiết với nhau, phụ
thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá và đề ra các giải pháp nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, cần thiết phải đặt nó trong mối tương quan
chung giữa các cấp độ cạnh tranh nêu trên. Ngoài ra, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp cũng cần phải được tiếp cận đồng thời trên 2 góc độ:


14

14

- Các chỉ tiêu đo lường năng lực cạnh tranh như: thị phần, năng suất lao động, tỉ
suất lợi nhuận, chất lượng và tính khác biệt của sản phẩm…
- Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh: đội ngũ nhân lực, bí quyết công
nghệ, năng lực quản trị,… Đây là các yếu tố nền tảng để nhà quản trị đưa ra các chiến
lược nhằm xây dựng và duy trì năng lực cạnh tranh lâu dài cho doanh nghiệp.
1.1.4

Khái niệm lợi thế cạnh tranh
Lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp là những gì làm cho doanh nghiệp ấy
khác biệt và chiếm ưu thế hơn so với đối thủ cạnh tranh. Đó là những thế mạnh mà
doanh nghiệp có hay khai thác tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Việc tạo dựng và duy trì lợi
thế cạnh tranh đóng một vai trò rất lớn trong sự thành công của doanh nghiệp.
Theo quan điểm truyền thống cổ điển, các nhân tố sản xuất như: đất đai, vốn, lao
động là những yếu tố thuộc về tài sản hữu hình được coi là những nhân tố để tạo ra lợi

thế cạnh tranh.
Theo Michael Porter, chi phí và sự sẵn có của các yếu tố sản xuất chỉ là một trong
nhiều nguồn lực tại chỗ quyết định lợi thế cạnh tranh, không phải là yếu tố quan trọng,
nếu xét trên phạm vi tương đối so với các yếu tố khác. Ông cho rằng lợi thế cạnh tranh
của một doanh nghiệp, về dài hạn, tùy thuộc nhiều vào khả năng cải tiến liên tục và nhấn
mạnh đến sự tác động của môi trường đối với việc thực hiện cải tiến đó.
Một cách chung nhất, có thể chia lợi thế cạnh tranh thành hai nhóm cơ bản:
- Lợi thế về chi phí: khi tính ưu việt của nó thể hiện trong việc tạo ra sản phẩm
có chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh này mang lại cho doanh
nghiệp hiệu quả cao hơn và khả năng tốt hơn để chống lại việc giảm giá bán sản phẩm.
- Lợi thế về sự khác biệt hóa: khi tính ưu việt của nó dựa vào sự khác biệt của sản
phẩm, làm tăng giá trị cho người tiêu dùng hoặc giảm chi phí sử dụng sản phẩm hoặc
nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng sản phẩm. Lợi thế này cho phép doanh nghiệp có
khả năng buộc thị trường chấp nhận mức giá cao hơn mức giá của đối thủ.
1.1.5 Khái niệm chiến lược cạnh tranh
Theo Michael E. Porter, chiến lược cạnh tranh là “sự kết hợp của các kết quả cuối
cùng (mục tiêu) mà doanh nghiệp đang tìm kiếm với các phương tiện (chính sách)
thích ứng, nhờ đó doanh nghiệp đạt được các mục tiêu của mình”. Như vậy, chiến lược
cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ gồm 2 yếu tố: mục tiêu và phương tiện. Giống như
một bánh xe mà trục là mục tiêu, các chính sách chức năng phải tỏa ra từ trục và
hướng về các trục


15

15

1.2 Các nội dung lý luận về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

1.2.1 Lý luận về lợi thế cạnh tranh của M.Porter

Một sản phẩm được coi là có sức cạnh tranh và có thể đứng vững khi có mức giá
thấp hơn hoặc khi cung cấp các sản phẩm tương tự với chất lượng hay dịch vụ ngang
bằng. Theo lý thuyết thương mại truyền thống, năng lực cạnh tranh được xem xét qua
lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất lao động.
Theo M.Porter, NLCT phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng lực độc đáo
của mình để tạo sản phẩm có giá phí thấp và sự dị biệt của sản phẩm. Muốn nâng cao
năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải xác định lợi thế của mình để đạt thắng lợi
trong cạnh tranh. Có hai nhóm lợi thế cạnh tranh:
- Lợi thế về chi phí: Tạo ra sản phẩm có chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh. Các
nhân tố sản xuất như đất đai, vốn, lao động thường được xem là nguồn lực để tạo lợi
thế cạnh tranh.
- Lợi thế về sự khác biệt: Dựa vào sự khác biệt của sản phẩm làm tăng giá trị cho
khách hàng, giảm chi phí sử dụng sản phẩm hoặc nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng
sản phẩm. Lợi thế này cho phép thị trường chấp nhận mức giá thậm chí cao hơn đối
thủ cạnh tranh.
1.2.2. Lý thuyết đánh giá năng lực cạnh tranh tổng thể của DN.
Theo GS. TS Nguyễn Bách Khoa trình bày trong bài viết: “Phương pháp xác
định NLCT và hội nhập kinh tế quốc tế của DN” được đăng trên tạp chí khoa học
thương mại của trường đại học Thương Mại thì NLCT của DN được hiểu là: tích hợp
các khả năng và nguồn nội lực để duy trì và phát triển thị phần, lợi nhuận và định vị
những ưu thế cạnh tranh của sản phẩm của DN trong mối quan hệ với đối thủ cạnh
tranh trực tiếp và tiềm tàng trên một thị trường mục tiêu xác định. Để đánh giá NLCT
của một DN người ta thường sử dụng các tiêu chí có thể được lượng hóa trong tương
quan so sánh với các đối thủ cạnh tranh. Cụ thể gồm các tiêu chuẩn chính sau:
Bảng 1.1: Các tiêu chuẩn cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh phi marketing
Năng lực tài chính
Năng lực quản trị và lãnh đạo
Nguồn nhân lực
Quy mô sản xuất, kinh doanh

Cơ sở vật chất kỹ thuật
Hiệu suất R&D

Năng lực cạnh tranh phi marketing
Thị phần thị trường
Chính sách sản phẩm
Chính sách định giá
Mạng lưới phân phối
Công cụ xúc tiến thương mại
Uy tín và thương hiệu
(Nguồn: GS.TS Nguyễn Bách Khoa)

1.2.2.1 Năng lực cạnh tranh phi marketing


16

16

- Nguồn nhân lực: Bên cạnh nguồn tài chính, nguồn nhân lực cũng là vấn đề
không thể thiếu khi nói về hoạt động kinh doanh của bất kỳ DN nào. Trong DN thương
mại và dịch vụ con người lại là yếu tố không thể thiếu khi đánh giá NLCT của DN đó.
Đánh giá nguồn nhân lực thường qua các tiêu chí như : trình độ lực lượng lao động, số
lượng lao động, năng suất công việc, khả năng hiện tại và tương lai của đội ngũ nhân
sự.
- Quy mô kinh doanh: Một DN có quy mô lớn có thể thu được các khoản lợi tức
tăng thêm nhờ sự tiết kiệm do việc sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn. Nói cách
khác, lợi thế kinh tế theo quy mô bao gồm hiệu quả giảm chi phí do sản xuất đại trà
các sản phẩm đã được tiêu chuẩn hoá, do giá chiết khấu với khối lượng lớn vật tư,
nguyên phụ liệu ở đầu

vào sản xuất hoặc do quảng cáo đại trà giúp hạ thấp chi phí quảng cáo trên từng
sản phẩm. Do đó, qui mô sản xuất là một tiêu chí rất quan trọng giúp DN nâng cao
NLCT của mình.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật: Trình độ máy móc, thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng
mạnh mẽ tới khả năng cạnh tranh của DN. Một DN có hệ thống trang thiết bị máy
móc, công nghệ hiện đại thì các sản phẩm của DN nhất định sẽ được bảo toàn về chất
lượng , thúc đẩy nhanh qua trình tiêu thụ hàng hoá, tăng nhanh vòng quay về vốn,
giảm bớt được khâu kiểm tra về chất lượng hàng hoá.
- Hiệu suất R&D : Hiệu suất R&D là một chỉ số đáng tin cậy và chính xác nhất
thể hiện năng lực R&D của DN. Hiệu suất R&D của DN càng cao càng chứng tỏ hoạt
động R&D của DN càng hiệu quả và ngược lại. Hiệu suất R&D bao gồm những thành
tựu trong việc triển khai các sản phẩm mới, công tác tổ chức nghiên cứu và phát triển
sản phẩm mới, ngân quỹ dành cho R&D. Hiệu suất R&D cao cho phép sản phẩm có
được sức mạnh trong đổi mới công nghệ, có ưu thế vượt trội trong giới thiệu sản phẩm
mới thành công, cải tiến và cập nhật liên tục các sản phẩm hữu hiệu. Hiệu suất R&D
của sản phẩm gồm tiềm lực nghiên cứu và triển khai sản phẩm mới.
1.2.2.2 Năng lực cạnh tranh phi marketing
- Thị phần thị trường: Thị phần được hiểu là phần thị trường mà DN chiếm giữ
trong tổng dung lượng thị trường. Chỉ tiêu này càng lớn nói lên sự chiếm lĩnh thị
trường của DN càng rộng.Thông qua sự biến động của chỉ tiêu này ta có thể đánh giá
mức động hoạt động của DN có hiệu quả hay không bởi nếu DN có một mảng thị


17

17

trường lớn thì chỉ số trên đạt mức cao nhất và ấn định cho DN một vị trí ưu thế trên thị
trường. Nếu DN có một phạm vi thị trường nhỏ hẹp thì chỉ số trên ở mức thấp, phản
ánh tình trạng DN đang bị chèn ép bởi các đối thủ cạnh tranh. Bằng chỉ tiêu thị phần,

DN có thể đánh giá sơ bộ khả năng chiếm lĩnh thị trường so với toàn ngành.
- Chính sách sản phẩm: Là một trong bốn nhân tố quan trọng của Marketing –
mix, mục tiêu chính sách sản phẩm chỉ là nâng cao khả năng bán sản phẩm và tạo điều
kiện sinh lời khi tham gia bán. Do vậy, chính sách sản phẩm bao gồm các yếu tố về
chất lượng sản phẩm, cơ cấu chủng loại sản phẩm, kiểu dáng mẫu mã,…Yếu tố phải
nói đến đầu tiên đó là chất lượng sản phẩm, chất lượng là yếu tố cốt lõi và là linh hồn
của sản phẩm, là thước đo biểu giá trị sử dụng của sản phẩm và là vũ khí cạnh tranh
sắc bén trên thị trường. Do vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm cần phải xem xét cả hai
khía cạnh trên theo một quy trình nhất định, đòi hỏi về thời gian, ngân sách và phụ
thuộc vào nhiều yếu tố nội lực của công ty.
- Chính sách định giá: Giá sản phẩm là thước đo tiêu chuẩn giá trị sản phẩm. Giá
bán sản phẩm là một vũ khí sắc bén trong cạnh tranh. Vì vậy, việc nâng cao năng lực
cạnh tranh không thể bỏ qua giá bán sản phẩm. Có nhiều chiến lược cạnh tranh về giá
mà công ty có thể áp dụng như chính sách giá thấp, chính sách ngang giá thị trường,
chính sách giá cao, chính sách giá phân biệt. DN phải căn cứ và tình hình thực tế hoạt
động kinh doanh, chính sách giá của đối thủ cạnh tranh, nhu cầu thị trường, mục tiêu
của công ty …. Việc quyết định mức giá có ảnh hưởng rất lớn đến vị thế của doanh
nghiệp và góp phần tạo nên năng lực cạnh tranh cho sản phẩm.
- Mạng lưới phân phối: Mạng lưới phân phối của sản phẩm là vô cùng quan
trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của DN, nó ảnh hưởng
đến các chính sách Marketing của sản phẩm và giúp DN tạo ra lợi thế cạnh tranh. Một
mạng lưới phân phối tốt có thể giúp tăng thị phần sản phẩm cho DN đồng thời cũng
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ Marketing của mình như cung cấp thông tin đến khách
hàng và phản hổi lại thông tin từ phía khách hàng.
- Công cụ xúc tiến thương mại: Các hình thức xúc tiến rất đa dạng và phong phú
với nhiều hình thức như : quảng cáo, khuyến mại, bán hàng cá nhân, bán hàng trực
tuyến, PR, …Khi sử dụng nhiều phương tiện xúc tiến cần quan tâm đến sự nhất quán
trong thông điệp, cách thể hiện và cùng hướng mục tiêu doanh nghiệp đề ra. Một chính
sách xúc tiến đúng thời điểm là một cú híc quan trọng, góp phần không nhỏ vào sự



18

18

thành công của sản phẩm đó trên thị trường. Nhiều doanh nghiệp coi đẩy mạnh các
chương trình xúc tiến là biện pháp tối ưu để nâng cao NLCT của mình.
- Uy tín, thương hiệu: Uy tín của DN là một trong những chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá NLCT của DN. DN nào có uy tín sẽ có nhiều bạn hàng, nhiều đối tác làm ăn
và nhất là có một lượng khách hàng lớn. Mục tiêu của các DN là doanh thu, thị phần
và lợi nhuận .v.v. Nhưng để đạt được các mục tiêu đó DN phải tạo được uy tín của
mình trên thị trường, phải tạo được vị thế của mình trong con mắt của khách hàng. Cơ
sở, tiền đề để tạo được uy tín của DN đó là: nguồn vốn, con người trong DN.
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.3.1. Môi trường vĩ mô:
- Môi trường kinh tế: Các nhân tố kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến DN. Tính ổn
định hay bất ổn định về kinh tế có tác động trực tiếp đến kinh doanh và hiệu quả kinh
doanh của DN. Mức độ ổn định về kinh tế trước hết và chủ yếu là ổn định nền tài
chính quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát. Sự tăng trưởng hay suy thoái của
nền kinh tế sẽ kéo theo sự tăng, giảm số lượng các DN tham gia thị trường, các DN
tìm mọi cách để giữ chân khách hàng vì vậy mà cạnh tranh trên thị trường trở nên
khốc liệt hơn.
- Môi trường chính trị - pháp luật: Các yếu tố chính trị - pháp luật có ảnh hưởng
ngày càng lớn đến hoạt động của DN. DN phải tuân thủ các quy định về thuế, cho vay,
thuê mướn, quảng cáo, nơi đặt nhà máy, bảo vệ môi trường…Luật pháp rõ ràng, chính
trị ổn định là môi trường thuận lợi đảm bảo sự bình đẳng cho các DN tham gia cạnh
tranh và cạnh tranh có hiệu quả, ổn định về chính trị đem lại sự lành mạnh hóa cho xã
hội, tạo hành lang thông thoáng cho sự cạnh tranh giữa các DN. Nhà nước đưa ra các
quy định mang tính pháp lý có thể tạo ra cơ hội và nguy cơ.
- Môi trường tự nhiên văn hóa – xã hội: Tất cả các doanh nghiệp cần phân tích

rộng rãi các yếu tố xã hội nhằm nhận biết các cơ hội và nguy cơ có thể xảy đến. Khi
một hay nhiều yếu tố thay đổi chúng có thể tác động đến doanh nghiệp như sở thích thị
hiếu, chuẩn mực đạo đức, quan điểm về mức sống, cộng đồng kinh doanh và lao động
nữ…các nhân tố trên tác động gián tiếp đến NLCT của DN thông qua khách hàng và
cơ cấu nhu cầu của thị trường.


19

19

- Môi trường khoa học – công nghệ: Ít có ngành hay DN nào mà lại không phụ
thuộc vào điều kiện khoa học công nghệ trong nước và trên thế giới, việc phát triển
khoa học công nghệ với nhiều yếu tố mới tạo ra các cơ hội cũng như nguy cơ đối với
tất cả các ngành và các DN. Công nghệ sản xuất sẽ quyết định đến hai yếu tố cơ bản
nhất tạo nên NLCT của sản phẩm trên thị trường đó là chất lượng và giá bán. Công
nghệ tác động đến chất lượng sản phẩm cũng như tác động đến chi phí cá biệt của từng
DN từ đó tạo ra NLCT của DN. Ngoài ra, khoa học công nghệ có tác động mạnh mẽ
và sâu sắc đến quá trình thu thập, lưu trữ và truyền đạt thông tin.
- Môi trường tự nhiên: Điều kiện tự nhiên của từng vùng từng quốc gia, từng lãnh
thổ là nhân tố quan trọng tạo thuận lợi cũng như khó khăn cho doanh nghiệp trong
cạnh tranh. Các yếu tố tự nhiên tác động đến môi trường kinh doanh như vấn đề ô
nhiễm môi trường, sự thiếu hụt về năng lượng, sự lãng phí hay mất đi của các nguồn
năng lượng tự nhiên. Tài nguyên thiên nhiên phong phú sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
DN phát triển sản xuất. Ngược lại, khi nguồn tài nguyên khan hiếm DN sẽ gặp khó
khăn trong việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất. Ngoài ra,
còn các trường hợp bất khả kháng trong thiên nhiên như thiên tai, bão lụt… cũng ảnh
hưởng đến quá trình phát triển doanh nghiệp.
1.2.3.2. Môi trường ngành:
- Đối thủ cạnh tranh

+ Đối thủ cạnh tranh hiện tại: Sự hiểu biết về các ĐTCT có ý nghĩa quan trọng vì
các ĐTCT sẽ quyết định tính chất và mức độ tranh đua. Nếu các đối thủ này yếu DN có
cơ hội để tăng giá bán và kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Ngược lại, khi các ĐTCT hiện
tại mạnh thì DN sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc chạy đua để khẳng đinh mình.
+ Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn: Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các DN hiện tại
chưa cạnh tranh trong cùng một ngành sản xuất, nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ
lựa chọn và quyết định gia nhập ngành. Đây là đe dọa cho các DN hiện tại. Các DN
hiện tại cố gắng ngăn cản các đối thủ tiềm ẩn muốn ra nhập ngành vì càng nhiều DN
có trong một ngành sản xuất thì cạnh tranh càng khốc liệt hơn.
- Nhà cung cấp: Các DN kinh doanh cần phải quan hệ với các tổ chức cung cấp
những nguồn hàng khác nhau như: vật tư thiết bị, lao động, tài chính… Không DN nào
có thể tồn tại một mình do vậy mối quan hệ giữa các DN là điều tất yếu phải có. Và
khi họ thiết lập quan hệ với nhau thì nguyên tắc chung được áp dụng là nguyên tắc


20

20

bình đẳng, cùng có lợi trên cơ sở thỏa thuận. Với các DN sản xuất kinh doanh, bất cứ
sự biến đổi nào từ phía nhà cung cấp, các đại lý sớm hay muộn cũng ảnh hưởng nhiều
hoặc ít đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Ngoài ra DN cần quan tâm đến các
tổ chức tài chính, cơ quan nhà nước có liên quan, cơ sở lao động đào tạo nghề… Việc
quan tâm tốt đến các quan hệ này sẽ giúp DN thuận lợi trong quá trình hoạt động kinh
doanh, nâng cao khả năng kinh doanh của DN mình.
- Khách hàng: Khách hàng là một bộ phận không tách rời trong môi trường cạnh
tranh. Sự tín nhiệm của khách hàng có thể là tài sản có giá trị lớn nhất của DN. Một
vấn đề khác liên quan đến khách hàng là khả năng trả giá của họ. Khách hàng là nhân
vật trung tâm, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của DN đều hướng tới khách hàng
nhằm đáp ứng nhu cầu của họ một cách tốt nhất. Khách hàng là người tạo ra thu nhập

cho DN, có vai trò quan trọng trong việc hình thành các chiến lược kinh doanh của
DN.
- Sản phẩm thay thế: Là sản phẩm của đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành hoặc
các ngành hoạt động kinh doanh có cùng chức năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng giống
nhau của khách hang. Những sản phẩm thay thế cũng là một trong những tác nhân tạo
nên sức ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trong ngành. Sự sẵn có của các sản
phẩm thay thế trên thị trường là mối đe dọa trực tiếp đến khả năng phát triển, khả năng
cạnh tranh cũng như mức lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp.
1.2.4 Sự cần thiết phải nâng cao khả năng cạnh tranh.
Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. ở đâu có nền kinh
tế thị trường thì ở đó có nền kinh tế cạnh tranh. Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng
vậy, khi tham gia vào kinh doanh trên thị trường muốn doanh nghiệp mình tồn tại và
đứng vững thì phải chấp nhận cạnh tranh. Trong giai đoạn hiện nay do tác động của
khoa học kỹ thuật và công nghệ, nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển, nhu
cầu cuộc sống của con người được nâng lên ở mức cao hơn rất nhiều.Con người không
chỉ cần có nhu cầu “ăn chắc mặc bền” như trước kia mà còn cần “ăn ngon mặc đẹp”.
Để đáp ứng kịp thời nhu cầu đó, doanh nghiệp phải không ngừng điều tra nghiên cứu
thị trường, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp nào bắt kịp và đáp ứng đầy
đủ nhu cầu đó thì sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Chính vì vậy cạnh tranh là rất cần
thiết, nó giúp cho doanh nghiệp:


21

21

- Tồn tại và đứng vững trên thị trường: Cạnh tranh sẽ tạo ra môi trường kinh
doanh và những điều kiện thuận lợi để đáp ứng nhu cầu khách hàng, làm cho khách
hàng tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp mình là tốt nhất, phù hợp với thị hiếu nhu
cầu của người tiêu dùng nhất. Doanh nghiệp nào càng đáp ứng tốt nhu cầu của khách

hàng thì doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn tại trong nền kinh tế thị trường hiện
nay.
- Doanh nghiệp cần phải cạnh tranh để phát triển
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một điều kiện và là một yếu
tố kích thích kinh doanh. Quy luật cạnh tranh là động lực thúc đẩy hát triển sản xuất,
sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, hàng hoá sản xuất ra nhiều, số lượng người
cung ứng ngày càng đông thì cạnh tranh ngày càng khốc liệt, kết quả cạnh tranh là loại
bỏ những Công ty làm ăn kém hiệu quả, năng suất chất lượng thấp và ngược lại nó
thúc đẩy những Công ty làm ăn tốt, năng suất chất lượng cao. Do vậy, muốn tồn tại và
phát triển thì doanh nghiệp cần phải cạnh tranh, tìm mọi cách nâng cao khả năng cạnh
tranh của mình nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng. Các doanh nghiệp cần phải
tìm mọi biện pháp để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng như sản xuất ra
nhiều loại hàng hoá có chất lượng cao, giá cả phù hợp với chất lượng sản phẩm, phù
hợp với mức thu nhập của từng đối tượng khách hàng. Có như vậy hàng hoá của doanh
nghiệp bán ra mới ngày một nhiều, tạo được lòng tin đối với khách hàng. Muốn tồn tại
và phát triển được thì doanh nghiệp cần phải phát huy hết ưu thế của mình, tạo ra
những điểm khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh từ đó doanh nghiệp mới có khả
năng tồn tại, phát triển và thu được lợi nhuận cao.
Trong nền kinh tế thị trường muốn tồn tại và phát triển thì cạnh tranh luôn là mục
tiêu của mỗi doanh nghiệp. Cũng trong nền kinh tế đó khách hàng là người tự do lựa
chọn nhà cung ứng và cũng chính là những người quyết định cho doanh nghiệp có tồn
tại hay không. Họ không phải tìm đến doanh nghiệp như trước đây nữa và họ cũng
không phải mất thời gian chờ đợi để mua hàng hoá dịch vụ, mà đối ngược lại trong
nền kinh tế thị trường khách hàng được coi là thượng đế, các doanh nghiệp muốn tồn
tại và phát triển thì phải tìm đến khách hàng và khai thác nhu cầu nơi họ. Điều này đòi
hỏi doanh nghiệp phải có những chương trình giới thiệu truyền bá và quảng cáo sản
phẩm của mình để người tiêu dùng biết đến, để họ có sự xem xét, đánh giá và quyết
định có nên tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp hay không?. Ngày nay việc chào



22

22

mời để khách hàng tiêu thụ sản phẩm của mình đã là vấn đề khó khăn nhưng việc giữ
lại được khách hàng còn khó khăn hơn rất nhiều. Bởi vậy mà doanh nghiệp nên có
những dịch vụ cả trước khi bán, trong khi bán và dịch vụ sau khi bán hàng hoá cho
khách hàng để những khách hàng đó là những khách hàng truyền thống của doanh
nghiệp, chính họ là những nhân tố quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp phải cạnh tranh để thực hiện các mục tiêu
Bất kỳ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ khi thực hiện hoạt động kinh doanh
đều có những mục tiêu nhất định. Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của doanh
nghiệp mà doanh nghiệp đặt ra cho mình những mục tiêu khác nhau. Trong giai đoạn
đầu khi mới thực hiện hoạt động kinh doanh thì mục tiêu của doanh nghiệp là muốn
khai thác thị trường nhằm tăng lượng khách hàng truyền thống và tiềm năng, giai đoạn
này doanh nghiệp thu hút được càng nhiều khách hàng càng tốt. Còn ở giai đoạn
trưởng thành và phát triển thì mục tiêu của doanh nghiệp là tăng doanh thu, tăng lợi
nhuận và giảm chi phí, giảm bớt những chi phí được coi là không cần thiết, để lợi
nhuận thu được là tối đa, uy tín của doanh nghiệp và niềm tin của khách hàng đối với
doanh nghiệp là cao nhất. Đến giai đoạn gần như bão hoà thì mục tiêu chủ yếu của
doanh nghiệp là gây dựng lại hình ảnh đối với khách hàng bằng cách thực hiện trách
nhiệm đối với Nhà nước, đối với cộng đồng, củng cố lại thêm niềm tin cho của khách
hàng đối với doanh nghiệp. Để đạt được các mục tiêu doanh nghiệp cần phải cạnh
tranh, chỉ có cạnh tranh thì doanh nghiệp mới bằng mọi giá tìm ra phương cách, biện
pháp tối ưu để sáng tạo, tạo ra những sản phẩm đạt chất lượng cao hơn, cung ứng
những dịch vụ tốt hơn đối thủ cạnh tranh, thỏa mãn nhu cầu khách hàng ngày càng
tăng. Chỉ có cạnh tranh thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển.
1.2.5 Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh
Để đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ta có thể dựa vào một

số chỉ tiêu sau:
Thị phần
Doanh thu là số tiền mà doanh nghiệp thu được khi bán hàng hoá hoặc dịch vụ.
Bởi vậy mà doanh thu có thể được coi là một chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh.
Hơn khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và tăng thêm lợi nhuận.
Căn cứ vào chỉ tiêu doanh thu qua từng thời kỳ hoặc qua các năm ta có thể đánh giá


23

23

được kết quả hoạt động kinh doanh là tăng hay giảm, theo chiều hướng tốt hay xấu.
Nhưng để đánh giá được hoạt động kinh doanh đó có mang lại được hiệu quả hay
không ta phải xét đến những chi phí đã hình thành nên doanh thu đó. Nếu doanh thu và
chi phí của doanh nghiệp đều tăng lên qua các năm nhưng tốc độ tăng của doanh thu
lớn hơn tốc độ tăng của chi phí thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được đánh
giá là tốt, doanh nghiệp đã biết phân bổ và sử dụng hợp lý yếu tố chi phí, bởi một phần
chi phí tăng thêm đó được doanh nghiệp mở rộng quy mô kinh doanh, đầu tư mua sắm
trang thiết bị và xây dựng cơ sở hạ tầng. v.v.
Trên thực tế có rất nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác, trong đó thị phần là một chỉ tiêu
thường hay được sử dụng. Thị phần được hiểu là phần thị trường mà doanh nghiệp
chiếm giữ trong tổng dung lượng thị trường. Do đó thị phần của doanh nghiệp được
xác định:
Chỉ tiêu này càng lớn nói lên sự chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp càng
rộng. Thông qua sự biến động của chỉ tiêu này ta có thể đánh giá mức động hoạt động
của doanh nghiệp có hiệu quả hay không bởi nếu doanh nghiệp có một mảng thị
trường lớn thì chỉ số trên đạt mức cao nhất và ấn định cho doanh nghiệp một vị trí ưu
thế trên thị trường. Nếu doanh nghiệp có một phạm vi thị trường nhỏ hẹp thì chỉ số

trên ở mức thấp, phản ánh tình trạng doanh nghiệp đang bị chèn ép bởi các đối thủ
cạnh tranh. Bằng chỉ tiêu thị phần, doanh nghiệp có thể đánh giá sơ bộ khả năng chiếm
lĩnh thị trường so với toàn ngành.
Để đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với các đối thủ ta
dùng chỉ tiêu thị phần tương đối: đó là tỷ lệ so sánh về doanh thu của công ty so với
đối thủ cạnh tranh mạnh nhất để từ đó có thể biết được những mặt mạnh hay những
điểm còn hạn chế so với đối thủ. Ưu điểm của chỉ tiêu này là đơn giản, dễ hiểu
nhưng nhược điểm của nó là khó nắm bắt được chính xác số liệu cụ thể và sát thực
của đôí thủ.
Năng suất lao động
Năng suất lao động là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh và
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi thông qua năng suất lao động ta có thể đánh
giá được trình độ quản lý, trình độ lao động và trình độ công nghệ của doanh nghiệp.
Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận


24

24

Lợi nhuận là một phần dôi ra của doanh thu sau khi đã trừ đi các chi phí dùng
vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận được coi là một chỉ tiêu tổng hợp đánh
giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận
cao chắc chắn doanh nghiệp có doanh thu cao và chi phí thấp. Căn cứ vào chỉ tiêu lợi
nhuận các doanh nghiệp có thể đánh giá được khả năng cạnh tranh của mình so với đối
thủ. Nếu lợi nhuận cao thì khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cao và được đánh giá
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp rất khả quan.
Nếu xét về tỷ suất lợi nhuận:
Chỉ tiêu ny cho thấy nếu có 100 đồng doanh thu thì sẽ thu được bao nhiêu đồng
lợi nhuận. Nếu chỉ tiêu này thấp tức là tốc độ tăng của lợi nhuận nhỏ hơn tốc độ tăng

của doanh thu, chứng tỏ sức cạnh tranh của doanh nghiệp thấp. Hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả cao. Đã có quá nhiều đối thủ thâm nhập vào thị
trường của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp phải không ngừng mở rộng thị trường
để nâng cao khả năng cạnh tranh. Nhằm mục đích nâng cao lợi nhuận. Nếu chỉ tiêu
này cao tức là tốc độ tăng lợi nhuận lớn hơn tốc độ tăng của doanh thu. Hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp được đánh giá là có hiệu quả. Điều này chứng tỏ khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp cao. Doanh nghiệp cần phát huy lợi thế cảu mình
một cách tối đa và không ngừng đề phòng đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn thâm nhập vào
thị trường của doanh nghiệp bất cứ lúc nào do sức hút lợi nhuận cao.
Ngoại trừ các chỉ tiêu có thể đo lường được, khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp còn được biểu hiện qua một số các chỉ tiêu định tính như
Uy tín của doanh nghiệp
Uy tín của doanh nghiệp là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có uy tín sẽ có nhiều bạn hàng,
nhiều đối tác làm ăn và nhất là có một lượng khách hàng rất lớn. Mục tiêu của các
doanh nghiệp là doanh thu, thị phần và lợi nhuận .v.v. Nhưng để đạt được các mục tiêu
đó doanh nghiệp phải tạo được uy tín của mình trên thị trường, phải tạo được vị thế
của mình trong con mắt của khách hàng. Cơ sở, tiền đề để tạo được uy tín của doanh
nghiệp đó là doanh nghiệp phải có một nguồn vốn đảm bảo để duy trì và phát triển
hoạt động kinh doanh, có một hệ thống máy móc, cơ sở hạ tầng đáp ứng đầy đủ yêu
cầu của hoạt động kinh doanh. Yếu tố quan trọng nhất để tạo nên uy tín của doanh
nghiệp đó là “ con người trong doanh nghiệp” tức doanh nghiệp đó phải có một đội


25

25

ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, đội ngũ nhân viên giỏi về tay nghề
và kỹ năng làm việc, họ là những con người có trách nhiệm và nhiệt tình trong công

việc, biết khơi dậy nhu cầu của khách hàng.
Trong nền kinh tế thị trường yếu tố nổi bật nhất để đánh giá khả năng cạnh tranh,
uy tín của doanh nghiệp đó là nhãn hiệu sản phẩm
- Thiết kế nhãn hiệu sản phẩm: Khi xây dựng một sản phẩm, các nhà quản trị sẽ
lưu tâm đến rất nhiều đến nhãn hiệu sản phẩm, một nhãn hiệu sản phẩm hay và ấn
tượng góp phần không nhỏ vào sự thành công của sản phẩm, nó giúp phân biệt sản
phẩm của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh khác và là cộng cụ để doanh nghiệp
định vị sản phẩm trên thị trường mục tiêu. Khi thiết kế nhãn hiệu doanh nghiệp phải
xem xét đến các thành phần gồm: đặt tên sản phẩm, xây dựng biểu tượng(logo), khẩu
hiệu và hình ảnh cho nhãn. Đồng thời phải có chiến lược về nhãn hiệu đối với sản
phẩm của doanh nghiệp.
- Các giá trị tài sản nhãn hiệu: Tài sản nhãn hiệu là giá trị của một nhãn hiệu của
sản phẩm do uy tín của nhãn hiệu sản phẩm đó đem lại. Quản trị giá trị nhãn là một
trong các công việc mang tính chiến lược quan trọng nhất, nó được xem là một trong
những dạng tầm tiềm năng có giá trị cao. Trong những năm gần đây, khi các nhãn hiệu
sản phẩm của các doanh nghiệp cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường, hình thức khuyến
mại định hướng vào gía là hình thức phổ biến được nhiều doanh nghiệp áp dụng, điều
này làm tổn thương nhiều doanh nghiệp.
Năng lực quản trị
Năng lực của nhà quản trị được thể hiện ở việc đưa ra các chiến lược, hoạch định
hướng đi cho doanh nghiệp. Nhà quản trị giỏi phải là người giỏi về trình độ, giỏi về
chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng giao tiếp, biết nhìn nhận và giải quyết các công
việc mộ cách linh hoạt và nhạy bén, có khả năng thuyết phục để người khác phục tùng
mệnh lệnh của mình một cách tự nguyện và nhiệt tình.Biết quan tâm, động viên,
khuyến khích cấp dưới làm việc có tinh thần trách nhiệm. Điều đó sẽ tạo nên sự đoàn
kết giữa các thành viên trong doanh nghiệp. Ngoài ra nhà quản trị còn phải là người
biết nhìn xa trông rộng, vạch ra những chiến lược kinh doanh trong tương lai với cách
nhìn vĩ mô,hợp với xu hướng phát triển chung trong nền kinh tế thị trường. Nhà quản
trị chính là người cầm lái con tầu doanh nghiệp, họ là nhứng người đứng mũi chịu sào
trong mỗi bước đi của doanh nghiệp.Họ là những người có quyền lực cao nhất và trách



×