Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Chủ thể đặc biệt trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.96 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HIÊN

CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HIÊN

CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Văn Hùng

HÀ NỘI - 2015



Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học
của luận văn cha từng đợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hiên



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỦ THỂ ĐẶC

8


BIỆT CỦA TỘI PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM

1.1.

Chủ thể của tội phạm

8

1.1.1

Khái niệm chủ thể của tội phạm

8

Các dấu hiệu của chủ thể của tội phạm

11

1.2.

Chủ thể đặc biệt của tội phạm

20

1.2.1

Khái niệm chủ thể đặc biệt của tội phạm

20


Những đặc điểm của chủ thể đặc biệt

21

Chương 2:

25

.
1.1.2
.

.
1.2.2
.
CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT CỦA TỘI PHẠM TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM 1999. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC
QUY ĐỊNH VỀ CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT TỪ NĂM 2010 ĐÉN
NAY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH NÀY.

2.1.

Các dấu hiệu của chủ thể đặc biệt của tội phạm trong luật hình

25

sự Việt Nam 1999
2.1.1


Những đặc điểm về chức vụ, quyền hạn

25


.
2.1.2

Những đặc điểm về tuổi, giới tính, quan hệ giữa tội phạm và

34

.

nạn nhân

2.1.3

Những đặc điểm về nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân

40

Các trường hợp liên quan đến vấn đề chủ thể đặc biệt của tội

42

.
2.2.


phạm
2.2.1

Trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự của chủ thể

42

Trường hợp thay đổi tội danh của chủ thể

43

2.2.3

Trường hợp dấu hiệu riêng là dấu hiệu định tội trong cấu thành

44

.

tội phạm

2.2.4

Nhân thân người phạm tội

44

Thực tiễn áp dụng các quy định của Luật hình sự về chủ thể

47


.
2.2.2
.

.
2.3

đặc biệt của tội phạm từ năm 2010 đến nay
2.3.1

Thực trạng các quy định của luật hình sự về chủ thể đặc biệt

47

2.3.2

Thực tiễn áp dụng các quy định của luật hình sự về chủ thể

52

.

đặc biệt của tội phạm từ năm 2010 đến nay.

2.4

Nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của luật hình sự về

.


62

chủ thể đặc biệt của tội phạm
2.4.1

Sự cần thiết nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của luật

.

hình sự về chủ thể đặc biệt của tội phạm

2.4.2

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của

.

luật hình sự về chủ thể đặc biệt của tội phạm
KẾT LUẬN

62
64
77


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

80



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban
hành từ năm 1985, là công cụ sắc bén của Nhà nước trong quản lý xã hội,
phòng ngừa và đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức và công
dân, góp phần có hiệu quả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trải qua 30 năm thi hành, Bộ luật hình sự có nhiều lần sửa đổi, bổ
sung (vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997, 1999 và 2009). Việc liên tục sửa
đổi, bổ sung nhằm giúp Bộ luật hình sự ngày càng hoàn thiện đáp ứng nhu
cầu thực tiễn, nhiều quan hệ xã hội mới nảy sinh trong đời sống xã hội cần
được các quy phạm pháp luật của Bộ luật hình sự điều chỉnh, nhiều quan hệ
xã hội có sự biến đổi đòi hỏi luật phải điều chỉnh cho phù hợp.
Một trong những nội dung quan trọng của luật hình sự đó là vấn đề
cấu thành tội phạm, việc xem xét cấu thành tội phạm giúp xác định một hành
vi do một chủ thể nào đó thực hiện có xâm hại khách thể được luật hình sự
bảo vệ hay không, quan hệ xã hội đó có chịu sự điều chỉnh của các quy phạm
pháp luật hình sự hay không, chủ thể thực hiện hành vi có phải chịu trách
nhiệm hình sự hay không… Việc xác định chính xác các yếu tố cấu thành tội
phạm giúp cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người đúng tội, không
bỏ lọt tội phạm cũng như không làm oan người vô tội. Trong các yếu tố cấu
thành tội phạm, chủ thể của tội phạm là yếu tố có vai trò quan trọng, tuy
không phải là yếu tố đầu tiên được xem xét trong cấu thành tội phạm nhưng
lại là yếu tố có tính chất xuất phát điểm của các yếu tố khác. Không có con
người với tư cách là chủ thể của hành vi, chủ thể của hoạt động thì không có

0



hành vi nguy hiểm cho xã hội, không phải xem xét đến các yếu tố của mặt chủ
quan, không có khách thể nào bị hành vi nguy hiểm cho xã hội tác động đến.
Không có chủ thể của tội phạm thì cũng không diễn ra các hoạt động tố tụng
có liên quan. Chủ thể của tội phạm có những đặc điểm, dấu hiệu chung trên
cơ sở những quy định có tính bắt buộc của luật hình sự. Luật hình sự quy định
cụ thể những đặc điểm, dấu hiệu này mà chỉ khi thỏa mãn các dấu hiệu đó thì
một người mới phải chịu trách nhiệm hình sự, những chủ thể tội phạm thỏa
mãn những dấu hiệu chung này được gọi là chủ thể thường. Trong yếu tố chủ
thể của tội phạm, một nội dung quan trọng được Bộ luật hình sự quy định đó
là chủ thể đặc biệt của tội phạm.
Xã hội ngày càng phát triển, các mối quan hệ xã hội ngày càng trở nên
đa dạng, phức tạp, nhiều quan hệ xã hội mới nảy sinh chưa có quy phạm pháp
luật điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa sâu, nhiều quan hệ xã hội cũ ngày một
biến đổi không ngừng. Theo đó, các quan hệ xã hội do ngành luật hình sự
điều chỉnh cũng liên tục thay đổi, tính chất các loại quan hệ được điều chỉnh
cũng theo chiều hướng đa dạng, có nhiều quan hệ xã hội có tính chất đặc biệt
mà chỉ có một số chủ thể nhất định có dấu hiệu riêng, dấu hiệu đặc biệt mới
có thể xâm hại được các loại quan hệ xã hội này, loại chủ thể đó được gọi là
chủ thể đặc biệt. Như vậy, chủ thể đặc biệt ngoài việc thỏa mãn những dấu
hiệu của chủ thể thường thì còn phải có các dấu hiệu riêng, đặc biệt khác.
Bộ luật hình sự hiện hành đã thể hiện có nhiều quy định về chủ thể
đặc biệt của tội phạm, phần lớn các quy định nằm trong các điều luật ở phần
các tội phạm, các quy định có thể trực tiếp đưa ra các dấu hiệu riêng trong cấu
thành cơ bản của tội phạm, hoặc có thể gián tiếp thể hiện qua việc mô tả tính
chất của loại tội phạm. Tuy nhiên, những quy định của Bộ luật hình sự về vấn
đề chủ thể đặc biệt còn chưa thống nhất, chưa cụ thể và rõ ràng, chặt chẽ,
nhiều quy định còn tạo ra cách hiểu khác nhau hoặc có những hướng dẫn

1



mang tính suy diễn. Điều này gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét
xử hoặc dẫn đến việc giải thích, áp dụng pháp luật không thống nhất, đồng bộ.
Khó khăn trong việc xác định chủ thể tội phạm gây ảnh hưởng đến việc giải
quyết vụ án, xử lý đúng người, đúng tội.
Thực tiễn cho thấy, những vụ án có liên quan đến chủ thể đặc biệt của
tội phạm diễn ra ngày càng nhiều, tính chất của hành vi phạm tội ngày càng
phức tạp và nguy hiểm, mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng như các tội
phạm về chức vụ, tội phạm hiếp dâm… Những quy định của Bộ luật hình sự
về vấn đề chủ thể đặc biệt là căn cứ để giải quyết các vụ án có liên quan, điều
này đòi hỏi những quy định về vấn đề chủ thể đặc biệt của tội phạm phải ngày
càng đầy đủ, thống nhất, cụ thể, rõ ràng, việc nắm vững các quy định này giúp
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tránh được những vi phạm đáng tiếc xảy
ra, giải quyết vụ án nhanh gọn, chính xác, xử lý đúng người, đúng tội, đảm
bảo sự nghiêm minh của pháp luật.
Xuất phát từ những lý do trên, việc tác giả chọn đề tài "Chủ thể đặc
biệt trong Luật hình sự Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ là vấn đề mang
tính cấp bách, thiết thực không những về mặt lý luận mà cả về mặt thực tiễn
trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chủ thể đặc biệt của tội phạm là một nội dung trong vấn đề chủ thể
của tội phạm trong luật hình sự, đây cũng là nội dung có chiều hướng ngày
càng phát triển theo sự phát triển của các quan hệ xã hội được Luật hình sự
điều chỉnh. Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào trực tiếp
nghiên cứu nội dung này mà nó chỉ được đề cập đến là một phần trong những
nghiên cứu về vấn đề chủ thể của tội phạm, một số nghiên cứu lại đề cập đến
những nội dung có liên quan đến vấn đề chủ thể đặc biệt. Ở cấp độ chung có
Giáo trình Luật hình sự do PGS.TSKH.Lê Cảm chủ biên, Ở cấp độ luận văn


2


có luận văn thạc sĩ "Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam" của Lê
Đăng Doanh; các công trình nghiên cứu ở phạm vi nhỏ xem xét từng mặt, khía
cạnh của vấn đề như: "Bàn về vấn đề quy định pháp nhân là chủ thể của tội
phạm trong Bộ luật hình sự Việt Nam" của Phạm Xuân Khoa, "Bàn về chủ thể
của tội tham ô tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1999" của Trương Thị Hằng.
Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí Công an nhân
dân, Trật tự an toàn xã hội, Tòa án nhân dân, Dân chủ và pháp luật, Kiểm sát
như: "Nghiên cứu phạm vi chủ thể của tội phạm rửa tiền trong Luật hình sự
Việt Nam" của Nguyễn Ngọc Minh, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, năm 2011,
tr. 9-14; "Chủ thể của tội phạm qua so sánh pháp luật hình sự nước ta với
pháp luật hình sự một số nước thuộc hệ thống châu Âu lục địa" của Hồ Sĩ
Sơn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2, năm 2008, tr. 68-72; "Pháp nhân
có là chủ thể của tội phạm hay không" của Phạm Hồng Hải, Tạp chí Luật học,
năm 1999, tr. 14-19; "Phạm vi chủ thể của tội phạm Bộ luật hình sự 1999 và
một số vấn đề trong công tác điều tra hình sự" của Bùi Kiên Điện, Tạp chí
Luật học, số 4, năm 2000, tr. 7-11; "Bàn về vấn đề quy định pháp nhân là chủ
thể trong Bộ luật hình sự Việt Nam" của Phạm Xuân Khoa, Tạp chí Kiểm sát,
số 4, năm 2013, tr. 13-15,23 cũng đề cập đến vấn đề này.
Các công trình nghiên cứu mới chỉ đề cập đến góc độ lý luận chung về
yếu tố chủ thể của tội phạm, nội dung chủ thể đặc biệt của tội phạm mới chỉ
được đề cập đến là một phần, một nội dung nhỏ, ở nhiều bài viết, nhiều công
trình phần chủ thể đặc biệt còn mang tính tham khảo, phần nghiên cứu cũng
chưa giải quyết được những hạn chế của Luật về vấn đề chủ thể đặc biệt của
tội phạm, các quy định về vấn đề chủ thể đặc biệt của tội phạm còn nằm rải
rác ở các quy định của luật, nhiều chỗ còn thể hiện gián tiếp, chưa có công
trình nghiên cứu nào mang tính chuyên sâu, tổng hợp, có tính hệ thống về chủ
thể đặc biệt của tội phạm.


3


Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, vấn đề "Chủ thể đặc biệt trong
luật hình sự Việt Nam" cần tiếp tục được nghiên cứu, để có những giải pháp
nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật
trên thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của luật hình sự về
tội chủ thể đặc biệt của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam 1999 và việc áp
dụng trên thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các
quy định của luật hình sự về chủ thể đặc biệt của tội phạm, cũng như đề xuất
các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định này trên thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề: Khái niệm, đặc điểm của chủ thể
đặc biệt của tội phạm, các dấu hiệu của chủ thể đặc biệt của tội phạm, các
nhóm chủ thể đặc biệt của tội phạm, các tội và nhóm tội có chủ thể đặc biệt,
những vấn đề có liên quan đến chủ thể đặc biệt của tội phạm;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của luật hình sự
về chủ thể đặc biệt của tội phạm, phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung
quanh việc áp dụng và những nguyên nhân cơ bản của nó;
- Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định
pháp luật hình sự về chủ thể đặc biệt của tội phạm cũng như nâng cao khả
năng áp dụng trên thực tế.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề liên quan về chủ thể đặc
biệt của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở quy định của Bộ luật hình

sự Việt Nam 1999, nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng trong thực tiễn xét xử

4


của Tòa án và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những
giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của
Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Đồng thời, quá trình nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh,
phương pháp tổng hợp, phương pháp thực tiễn, phương pháp thống kê.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ
một luận văn thạc sĩ luật học về chủ thể đặc biệt của tội phạm trong luật hình
sự Việt Nam hiện hành, giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực
tiễn thể hiện ở các nội dung cơ bản sau:
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm của chủ thể đặc biệt của tội phạm; các
dấu hiệu của chủ thể đặc biệt và các nhóm chủ thể đặc biệt trong Luật hình sự,
các vấn đề có liên quan đến dấu hiệu đặc biệt của chủ thể của tội phạm, xem
xét mối quan hệ với chủ thể của tội phạm nói chung;
- Xem xét có hệ thống các quy định của luật hình sự về vấn đề chủ thể
đặc biệt của tội phạm;
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng các quy định của luật hình sự về
vấn đề chủ thể đặc biệt của tội phạm; những tồn tại, hạn chế về lý luận và
thực tiễn áp dụng.
- Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của luật hình
sự về vấn đề chủ thể đặc biệt của tội phạm, cũng như nâng cao hiệu quả áp
dụng trong thực tiễn.

6. Kết cấu của luận văn

5


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chủ thể đặc biệt của tội
phạm trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Chủ thể đặc biệt của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam 1999.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của luật hình sự về chủ thể
đặc biệt của tội phạm và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định này trên thực tiễn.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỦ THỂ ĐẶC BIỆT
CỦA TỘI PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM

1.1.1. Khái niệm chủ thể của tội phạm
Tội phạm là hành vi của con người có tính nguy hiểm cho xã hội, chủ
thể của tội phạm là người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội bị luật hình sự cấm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự theo luật định (ngoài ra, trong một số trường hợp cụ thể
chủ thể của tội phạm còn có một số dấu hiệu đặc biệt do quy phạm pháp luật
hình sự tương ứng quy định)
Xuất phát từ nguyên tắc trách nhiệm hình sự là trách nhiệm cá nhân,

mục đích của các biện pháp trách nhiệm hình sự là giáo dục, cải tạo những cá
nhân cụ thể đã thực hiện tội phạm, Luật hình sự Việt Nam không thừa nhận
pháp nhân là chủ thể của tội phạm. Trường hợp người có chức vụ, quyền hạn
trong pháp nhân đã điều hành hoặc lợi dụng địa vị pháp lý của pháp nhân gây
thiệt hại cho xã hội thì trách nhiệm hình sự đặt ra với những cá nhân đó chứ
không phải cho pháp nhân. Hiện nay, một số nước phát triển trên thế giới đều
đã công nhận pháp nhân là chủ thể của tội phạm và quy định những vấn đề
pháp lý đối với vấn đề chủ thể của tội phạm là pháp nhân, ví dụ như Hoa Kỳ,
Điều 2.07 Bộ luật hình sự mẫu 1962 xác định:
Các tập đoàn (công ty), các hiệp hội đều có thể là những chủ
thể của tội phạm (trừ các tập đoàn và các hiệp hội được sáng lập với
tính chất là các cơ quan nhà nước hay được nhà nước sáng lập để
thực hiện những chương trình của nhà nước). Các tập đoàn và các
hiệp hội đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu không thực

7


hiện các nghĩa vụ mà pháp luật quy định họ phải thực hiện. Trách
nhiệm hình sự mà các tập đoàn và hiệp hội phải gánh chịu là vì ban
lãnh đạo hoặc người đại diện của tập đoàn và hiệp hội do sơ suất
trong hành vi của mình (thay mặt cho tập đoàn hoặc hiệp hội) mà đi
đến chỗ phạm tội [61].
Bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp 1994 tại Điều 121.2 có quy định trừ
Nhà nước, các pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự trong các trường hợp
quy định trong luật về các tội phạm được thực hiện vì lợi ích của họ bởi các
cơ quan, đại diện của họ. Ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trước đây, pháp
luật hình sự cũng không quy định pháp nhân là chủ thể của tội phạm. Tuy
nhiên, trong Bộ luật hình sự mới nhất được thông qua tháng 3 năm 1997 đã có
các quy định pháp nhân cũng là chủ thể của tội phạm.

So với một số quốc gia khác mà ở đó pháp luật hình sự coi pháp nhân
là chủ thể của tội phạm thì nhịp độ phát triển kinh tế của nước ta chưa cao.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, trong số các tội phạm kinh tế có không
ít các tội phạm do pháp nhân thực hiện. Báo cáo của ngành thuế hàng năm
cho thấy, mỗi năm Nhà nước thất thu hàng nghìn tỉ đồng tiền thuế mà nguyên
nhân của tình trạng này là do các cơ sở sản xuất kinh doanh cả của quốc
doanh và ngoài quốc doanh trốn thuế. Báo cáo của ngành quản lí thị trường
cũng chỉ ra tình trạng kinh doanh trái phép, làm và buôn bán hàng giả, lưu
hành sản phẩm kém phẩm chất, vi phạm các quy định về quảng cáo v.v... đang
ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Mặc dù vậy, việc xử lí về hình sự các hành
vi vi phạm kể trên rất khó vì luật hình sự nước ta không coi pháp nhân là chủ
thể của tội phạm.
Qua nghiên cứu tình hình tội phạm và thực tiễn hoạt động tố tụng hình
sự ở nước ta, cho thấy rằng đã đến lúc trong pháp luật hình sự của nước ta
phải có các quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Trước đây, chúng

8


ta không quy định pháp nhân là chủ thể của tội phạm bởi khi ấy chưa cần thiết
vì số các vi phạm pháp luật của pháp nhân đạt tới mức nguy hiểm như tội
phạm còn ít, chưa đáng kể, nhưng trong xu hướng phát triển gần đây, việc quy
định pháp nhân là chủ thể của tội phạm là cần thiết.
Động vật được con người sử dụng để gây thiệt hại cho xã hội thì
người quản lý hoặc sử dụng chúng phải chịu trách nhiệm, chủ thể của tội
phạm không thể là con vật.
Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể, đang sống. Người đã chết
không thể là chủ thể của tội phạm. Nhà nước không truy cứu trách nhiệm hình
sự với người đã chết mặc dù trước đó người này đã thực hiện hành vi gây
thiệt hại cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm. Một người sẽ trở

thành chủ thể của tội phạm nếu họ có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ
tuổi mà luật hình sự quy định. Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện để
chủ thể có lỗi. Năng lực trách nhiệm hình sự thể hiện ở năng lực nhận thức ý
nghĩa xã hội của hành vi mà người đó thực hiện và năng lực điều khiển hành
vi của mình theo những đòi hỏi và chuẩn mực xã hội. Một người nhận thức và
điều khiển được hành vi của mình thì mới có khả năng tiếp thu được những
biện pháp tác động mang tính giáo dục của xã hội, và nhà nước mới đặt vấn
đề giáo dục, cải tạo họ.
Năng lực nhận thức điều khiển hành vi của con người không thể có
ngay từ khi họ mới sinh ra, nó được hình thành từng bước theo thời gian trong
quá trình sống và hoạt động của chủ thể, khi chủ thể đạt tới độ tuổi nhất định.
Như vậy, năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là
hai điều kiện của chủ thể tội phạm, hai dấu hiệu bắt buộc của chủ thể tội
phạm. Tuy nhiên, ngoài hai dấu hiệu bắt buộc và phổ biến này của chủ thể,
một số tội phạm đòi hỏi chủ thể phải có những dấu hiệu bắt buộc khác, trường
hợp này được gọi là chủ thể đặc biệt.

9


Trong luật hình sự, cùng với khái niệm chủ thể của tội phạm còn có
khái niệm nhân thân người phạm tội. Đây là hai khái niệm gần gũi nhau
nhưng nội dung không đồng nhất. Chủ thể của tội phạm là tổng hợp những
dấu hiệu bắt buộc phải có thuộc về nhân thân người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội mà thiếu chúng thì không cấu thành tội phạm. Nhân thân
người phạm tội là tổng hợp tất cả những khía cạnh xã hội đặc trưng tạo thành
cá nhân, có ý nghĩa giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự. Từ
những phân tích trên đây có thể rút ra khái niệm về chủ thể tội phạm như sau:
Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội, là tội phạm khi đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực

trách nhiệm hình sự.
1.1.2. Các dấu hiệu của chủ thể của tội phạm
1.1.2.1. Năng lực trách nhiệm hình sự
a) Năng lực trách nhiệm hình sự
Năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng của một người ở thời điểm
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được tính nguy hiểm cho
xã hội của hành vi mà mình thực hiện và điều khiển được hành vi đó. Cùng
với sự phát triển thể chất, trí tuệ, sự giáo dục và tích lũy kinh nghiệm sống,
khi đạt đến độ tuổi nhất định, người ta mới nhận thức được đầy đủ các đòi hỏi
của chuẩn mực xã hội và điều khiển được hành vi của mình theo các chuẩn
mực đó. Quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhà nước chính thức thừa
nhận một người khi đạt đến độ tuổi ấy mới có năng lực trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của một người có
thể bị giảm sút hoặc bị loại trừ hoàn toàn nếu hoạt động của cơ quan thần kinh
trung ương bị rối loạn do nguyên nhân bệnh tật.
Luật hình sự Việt Nam không trực tiếp quy định thế nào là có năng lực
trách nhiệm hình sự mà quy định tình trạng đối lập là không có năng lực trách

10


nhiệm hình sự. Một người coi là có năng lực trách nhiệm hình sự nếu khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đạt tới độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
theo quy định của luật hình sự và không thuộc những trường hợp không có
năng lực trách nhiệm hình sự. Quy định độ tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình
sự tạo ra cơ sở pháp lý thống nhất để xác định trách nhiệm hình sự, là sự xác
nhận của nhà nước về phẩm chất tâm lý phổ biến ấy ở mỗi người. Trong quá
trình áp dụng luật hình sự, chỉ khi nào xuất hiện những căn cứ nghi ngờ về
năng lực trách nhiệm hình sự, các cơ quan có trách nhiệm mới cần kiểm tra.
Việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự không đòi hỏi bắt buộc với từng

trường hợp cụ thể.
b) Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Một người ở thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ở
trong trạng thái không nhận thức hoặc không điều khiển được hành vi của
mình do mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần
là người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự là tình tiết loại trừ khả năng thừa nhận
một người là chủ thể của tội phạm mặc dù họ đã thực hiện hành vi về khách
quan gây thiệt hại cho xã hội, do đó hành vi mà người đó thực hiện không cấu
thành tội phạm.
Khoản 1 Điều 13 Bộ luật hình sự quy định:
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi
đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không
phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này phải áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh [31].
Nguyên nhân trực tiếp của tình trạng không có năng lực trách nhiệm
hình sự là do bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần.

11


Do hoạt động thần kinh đã bị rối loạn, người thực hiện hành vi gây thiệt hại
cho xã hội mất khả năng nhận thức một cách đúng đắn về thế giới xung
quanh, không kiểm soát được các xử sự của mình để hướng các xử sự diễn ra
phù hợp với yêu cầu xã hội. Xử sự của người mắc bệnh tâm thần là kết quả
của tình trạng bệnh tật và tri giác sai lệch, hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
người mắc bệnh tâm thần thực hiện là kết quả của sự tổn thương về lý trí và ý
chí cho nên gây thiệt hại cho xã hội trong tình trạng đó không bị coi là có lỗi
và không có cơ sở để lên án cũng như áp dụng hình phạt đối với họ.

Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự được xác định dựa
trên hai dấu hiệu: dấu hiệu về y học và dấu hiệu về tâm lý.
1) Dấu hiệu y học
Dấu hiệu y học của người trong tình trạng không có năng lực trách
nhiệm hình sự là sự mắc bệnh tâm thần kinh niên hoặc rối loạn tâm thần tạm
thời hoặc một bênh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần.
Bệnh tâm thần kinh niên có các dạng cụ thể khác nhau dẫn đến tình
trạng bệnh tật lâu dài, bệnh trạng liên tục. Rối loạn tâm thần tạm thời thể hiện
ở sự rối loạn xuất hiện đột ngột, diễn ra trong khoảng thời gian ngắn làm rối
loạn nhận thức, quên hoàn toàn hoặc từng phần các sự kiện đã diễn ra trong
thời gian xuất hiện bệnh. Tình trạng bệnh khác là tình trạng không liên quan
đến rối loạn tâm thần kinh niên hoặc tạm thời nhưng được coi là tương đương
như các tình trạng đó.
2) Dấu hiệu tâm lý
Dấu hiệu tâm lý của người trong tình trạng không có năng lực trách
nhiệm hình sự thể hiện: về lý trí, người đó không đánh giá được ý nghĩa xã
hội của hành vi của mình, không nhận thức được các yêu cầu xã hội liên quan
đến hành vi đã thực hiện trong khoảng thời gian thực hiện hành vi. Về ý chí,
người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự không có khả

12


năng điều chỉnh hành vi của mình. Năng lực điều khiển hành vi thể hiện hướng
dẫn hành vi diễn ra phù hợp với các chuẩn mực, yêu cầu của xã hội hoặc
ngược lại, hướng hành vi diễn ra trái với yêu cầu và lợi ích chung của xã hội.
Dấu hiệu y học và dấu hiệu tâm lý là những điều kiện cần và đủ để xác
định một người ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Dấu hiệu y học (mắc bệnh) có vai trò như là nguyên nhân và dấu hiệu tâm lý
(mất năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi) là hậu quả. Tuy

nhiên, không phải mọi trường hợp mắc bệnh tâm thần đã làm mất đi hoàn
toàn năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi. Có trường hợp
mắc bệnh tâm thần đã làm mất đi hoàn toàn năng lực nhận thức hoặc năng lực
điều khiển hành vi, cũng có trường hợp năng lực này chỉ mất đi từng giai
đoạn, không mang tính liên tục, và cũng có trường hợp mắc bệnh tâm thần
nhưng không làm mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi.
Khi xuất hiện căn cứ nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự ở một
người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội, các cơ quan tiến hành tố
tụng phải xác định với sự giúp đỡ của giám định tâm thần tư pháp. Hoạt động
giám định tâm thần tư pháp đưa ra kết luận người thực hiện hành vi đó có mắc
bệnh không, tính chất, mức độ và ảnh hưởng của bệnh (trong trường hợp mắc
bệnh) đối với năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của họ như thế
nào, cũng như tình trạng bệnh tật khi thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội.
Thông thường một người mất năng lực nhận thức ý nghĩa xã hội của
hành vi thì cũng mất năng lực điều khiển hành vi. Song cũng có khi năng lực
nhận thức còn tồn tại nhưng không có năng lực điều khiển hành vi, không có
khả năng kiềm chế không thực hiện những hành vi trái với chuẩn mực xã hội
do bị mắc bệnh. Cả hai tình trạng này đều thuộc nội dung của tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự.

13


Trường hợp do mắc bệnh tâm thần, năng lực nhận thức hoặc năng lực
hành vi bị giảm sút nhưng không mất hoàn toàn, một người đã thực hiện tội
phạm trong tình trạng ấy thì được xác định là có năng lực trách nhiệm hình sự
hạn chế, có ảnh hưởng đến mức độ của lỗi, vì vậy luật hình sự xác định là một
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
1.1.2.2. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Chủ thể của tội phạm phải là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự,

đủ tuổi do pháp luật hình sự quy định tại thời điểm thực hiện tội phạm để có
thể có khả năng nhận thức được đầy đủ tính chất thực tế và tính chất pháp lý
của hành vi do mình thực hiện, cũng như có khả năng điều khiển được hành
vi ấy.
Điều 12 Bộ luật hình sự quy định: "1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên,
nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng" [31].
Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở tổng kết thực tiễn đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm, những đặc điểm về tâm lý thể chất của người Việt
Nam và tham khảo luật hình sự các nước, đã quy định tuổi có năng lực trách
nhiệm hình sự đầy đủ. Một người khi thực hiện một tội phạm cố ý mà luật
hình sự quy định mức hình phạt cao nhất với tội đó đến 15 năm tù, nếu tròn
14 tuổi thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Chưa đủ 14 tuổi được cho là chưa có
năng lực trách nhiệm hình sự, vì không có điều kiện để có lỗi nên không phải
chịu trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Người
từ tròn 16 tuổi trở lên được coi là có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ cho
nên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Tuy nhiên dưới 18 tuổi là
người chưa thành niên nên luật hình sự Việt Nam có những quy định riêng về

14


trách nhiệm hình sự với những người thực hiện tội phạm ở độ tuổi này tại
chương X của Bộ luật hình sự.
Trước đây, theo Điều 58 Bộ luật hình sự 1985, quy định người từ đủ
16 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về
những tội phạm nghiêm trọng do cố ý. Điều đó cũng có nghĩa là những người
ở lứa tuổi trên không phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm ít
nghiêm trọng (cả cố ý và vô ý) và những tội phạm nghiêm trọng do vô ý.

Trong Bộ luật hình sự 1999, trách nhiệm hình sự của những người từ đủ 14
tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật
hình sự với nội dung họ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (không phụ thuộc nó được
thực hiện bởi lỗi cố ý hay vô ý). So sánh hai quy định này thì thấy luật hình sự
hiện hành đã mở rộng phạm vi áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội ở lứa tuổi từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16
tuổi. Sau khi Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực pháp luật, nếu một người từ đủ
14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi thực hiện một tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng mặc dù với lỗi vô ý vẫn không được loại trừ trách nhiệm hình sự và họ
vẫn bị áp dụng hình phạt cao nhất tới 15 năm (nếu là tổng hợp hình phạt thay
vì 12 năm như quy định của Bộ luật hình sự 1985).
Độ tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự được quy định trong luật ở
các nước không giống nhau. Điều này được giải thích bởi những đặc thù về
chính sách hình sự, về đặc điểm tâm lý, thể chất của các dân tộc ở các quốc
gia khác nhau và yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm ở mỗi
nước có những đòi hỏi khác nhau.
1.1.2.3. Chủ thể của tội phạm là người đã thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội

15


Chủ thể của tội phạm là người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, tức là đã thực hiện bằng hành động (hoặc không hành động) hành vi gây
nên (hoặc đe dọa thực tế) gây nên thiệt hại đáng kể nhất định cho các quan hệ
xã hội (các lợi ích của con người, của xã hội hay của nhà nước) được pháp
luật hình sự bảo vệ.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu khách quan bắt buộc của tất
cả các cấu thành tội phạm và là dấu hiệu trung tâm trong cấu thành tội phạm.

Một người nếu chỉ có ý định, tư tưởng phạm tội nhưng không biểu hiện ra thế
giới khách quan bằng những hành vi cụ thể gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại cho xã hội thì không thể bị coi là tội phạm. Tội phạm trước hết phải là
hành vi của con người, không có hành vi thì không có tội phạm. Việc thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và mức độ thực hiện nó quyết định sự xuất
hiện hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mức độ của hậu quả cũng như quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Chỉ khi hành vi được thực hiện mới xuất
hiện những biểu hiện khách quan đi liền với hành vi như công cụ, phương
tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội... Hành vi tác động
vào đối tượng tác động của tội phạm làm thay đổi trạng thái bình thường của
đối tượng tác động, qua đó gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm.
Con người là chủ thể có ý thức của xã hội, các hành vi hay xử sự của
con người, xét theo quan niệm của luật hình sự phải có sự tham gia của lý trí
và ý chí, tức là phải được chủ thể nhận thức và điều khiển. Những xử sự thể
hiện ra thế giới khách quan nhưng không được chủ thể nhận thức và điều
khiển hoặc tuy nhận thức nhưng không điều khiển được thì không có ý nghĩa
trong luật hình sự, không phải là hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm.
Vì vậy, những xử sự của con người thể hiện ra thế giới bên ngoài đã gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ
nhưng do cưỡng bức thân thể, không phải là hoạt động ý chí của chủ thể thì

16


không phải là hành vi phạm tội. Xử sự trong trường hợp này là hậu quả của sự
tác động trực tiếp của sức mạnh từ bên ngoài đưa lại, không được chủ thể
nhận thức và điều khiển. Hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội được chủ thể
nhận thức và điều khiển chỉ coi là hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm
nếu có đầy đủ những đặc điểm của một hành vi phạm tội nào đó được quy
định trọng luật hình sự, tức là trái với luật hình sự.

1.1.2.4. Hành vi mà chủ thể tội phạm thực hiện phải
bị luật hình sự cấm
Hành vi mà chủ thể tội phạm thực hiện phải bị luật hình sự cấm, bị
nhà làm luật coi là tội phạm, có nghĩa là hành vi ấy phải có đầy đủ các dấu
hiệu cấu thành tội phạm cụ thể được quy định tại điều luật tương ứng về tội
phạm hoàn thành trong phần riêng Bộ luật hình sự (nếu là tội phạm hoàn
thành) hoặc là hành vi chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng (hay tội đặc biệt
nghiêm trọng) hoặc là hành vi phạm tội chưa đạt được đề cập trong phần
chung nhưng tương ứng với tội phạm cụ thể nào đó được quy định trong Phần
riêng Bộ luật hình sự.
1.1.2.5. Chủ thể của tội phạm phải có lỗi trong việc
thực hiện hành vi
Chủ thể của tội phạm phải là người có lỗi trong việc thực hiện hành vi
đã nêu, có thái độ tâm lý được thực hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối
với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm và đối với hậu quả do
hành vi ấy gây nên.
Lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
và đối với hậu quả của hành vi ấy gây ra cho xã hội thể hiện dưới dạng cố ý
hoặc vô ý, thái độ tâm lý của chủ thể với hành vi nguy hiểm cho xã hội không
phải sau sự kiện thực hiện hành vi mà trong quá trình thực hiện nó, đồng thời

17


×