Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.66 KB, 58 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368

Lời nói đầu
Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm là một hiện tợng tiêu cực trong xã hội, đấu tranh phòng chống tội
phạm để bảo vệ lợi ích của mình và duy trì kỉ cơng xã hội luôn là một nhiệm vụ
quan trọng nhất của mỗi Nhà nớc. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này Nhà nớc đã sử
dụng một công cụ hữu hiệu nhất là pháp luật. Pháp luật do Nhà nớc ban hành ra để
điều chỉnh các quan hệ xã hội dới các góc độ khác nhau. Bằng việc xác định hành
vi nguy hiểm cho xã hội nào đợc coi là tội phạm và ngời thực hiện nó phải chịu
hình phạt pháp luật hình sự đợc coi là công cụ mạnh tay và có hiệu quả nhất. Hình
phạt là một chế tài nghiêm khắc nhất và ngời bị tuyên hình phạt phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi. Cũng chính vì điều này mà quyết định hình phạt là một
hoạt động vô cùng quan trọng của cơ quan xét xử vì nếu quyết định hình phạt
không đúng tức là làm oan ngời vô tội. Mặt khác, mục đích của hình phạt chủ yếu
là giáo dục, cải tạo ngời phạm tội trở thành ngời có ích cho xã hội do vậy nếu
quyết định hình phạt sai mục đích đó sẽ không đạt đợc trái lại nó còn mang tính
trừng trị nhiều hơn. Về nguyên tắc, mọi tội phạm đều phải bị xét xử và phải chịu
hình phạt. Tuy nhiên, thực tế có nhiều trờng hợp một ngời thực hiện nhiều tội
phạm nhng không bị phát hiện và đa ra xét xử cùng một lúc. Để đánh giá toàn diện
và đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tất cả các tội mà ngời phạm tội đã thực
hiện, Toà án phải tổng hợp hình phạt của các tội thành hình phạt chung buộc bị
cáo phải chấp hành. Tổng hợp hình phạt là trờng hợp Toà án không chỉ quyết định
hình phạt cho một tội mà phải quyết định hình phạt chung cho nhiều tội. Do vậy,
đây là một chế định đặc biệt quan trọng trong luật hình sự. Việc nghiên cứu để
hoàn thiện chế định này là một nhiệm vụ của khoa học luật hình sự. Bộ luật hình
sự hiện hành tuy đã có quy định về chế định này, tuy nhiên xét về nội dung cũng
nh kỹ thuật lập pháp các quy định đó còn cha hoàn thiện và điều đó đã dẫn đến
một số vớng mắc trong quá trình áp dụng. Với tình hình đó, Tác giả đã chọn chế
định Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam làm đề tài cho khoá luận
tốt nghiệp của mình.


Website: Email : Tel : 0918.775.368

Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, đánh giá những quy định của luật hình sự Việt nam
hiện hành về tổng hợp hình phạt và thực tiễn áp dụng những quy định này khoá
luận nhằm đa ra những ý kiến đề xuất để hoàn thiện những quy định về tổng hợp
hình phạt, góp phần nâng cao hiệu quả của hình phạt.
Nhiệm vụ của khoá luận
Với mục đích nghiên cứu trên, tác giả đặt ra cho mình những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của chế định tổng hợp hình
phạt.
- Làm rõ hơn những vấn đề lý luận chung về tổng hợp hình phạt.
- Nghiên cứu các trờng hợp tổng hợp hình phạt cụ thể, có xem xét đến thực
tiễn áp dụng và trên cơ sở đó đa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy
định về tổng hợp hình phạt.
Phạm vi nghiên cứu
Khoá luận nghiên cứu các vấn đề nêu trên của chế định tổng hợp hình phạt
dới góc độ luật hình sự, chủ yếu trên cơ sở các quy định trong BLHS năm 1999.
Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của khoá luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và t t-
ởng Hồ Chí Minh, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nớc ta.
Trong khoá kuận, tác giả sử dụng những phơng pháp nghiên cứu sau: Phơng
pháp phân tích, phơng pháp tổng hợp, phơng pháp so sánh và phơng pháp lịch sử.
Bố cục khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Khoá luận gồm
2 chơng:
Chơng I: Một số vấn đề chung về tổng hợp hình phạt
Chơng II: Tổng hợp hình phạt trong một số trờng hợp cụ thể
Chơng I
một số vấn đề chung về tổng hợp hình phạt

Website: Email : Tel : 0918.775.368

1. Khái niệm và ý nghĩa tổng hợp hình phạt
1.1. Khái niệm
Theo nguyên tắc của luật hình sự thì một ngời thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội và đợc BLHS quy định là tội phạm thì phải chịu hình phạt. Ngời phạm
nhiều tội sẽ bị tuyên nhiều hình phạt. Về mặt lý luận cũng nh thực tiễn xét xử cho
thấy, không phải ngời phạm nhiều tội nào cũng bị phát hiện và đem ra xét xử cùng
một lúc. Có trờng hợp một ngời thực hiện nhiều hành vi phạm tội bị phát hiện và
đa ra xét xử cùng một lần và bị Toà án tuyên nhiều hình phạt (trờng hợp phạm
nhiều tội). Tuy nhiên, cũng có trờng hợp bị cáo đang chấp hành một bản án lại bị
đem ra xét xử về một tội mà ngời đó đã phạm trớc hoặc sau khi có bản án đang
chấp hành (trờng hợp có nhiều bản án). Trong các trờng hợp trên, ngời bị kết án sẽ
phải chịu nhiều hình phạt tơng xứng với các hành vi phạm tội của họ. Hình phạt
ngời bị kết án phải chấp hành có thể cùng loại nhng cũng có thể khác loại. Có loại
hình phạt có thể quy về cùng loại nhng cũng có trờng hợp bị cáo phải chấp hành
đồng thời các hình phạt. Để đánh giá toàn diện về nhân thân ngời phạm tội cũng
nh thể hiện đầy đủ nhất thái độ của Nhà nớc đối với họ, khi xét xử Toà án phải
tổng hợp tất cả các hình phạt đã tuyên thành hình phạt chung. Mặt khác, việc tổng
hợp hình phạt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan thi hành án khi thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình.
Tóm lại, tổng hợp hình phạt là việc Toà án xác định hình phạt chung cho
ngời phạm tội bị kết án.
Trong BLHS Việt Nam năm 1999 có bốn trờng hợp khi xét xử Toà án phải
tổng hợp hình phạt. Đó là: tổng hợp hình phạt trong trờng hợp phạm nhiều tội
(Điều 50), tổng hợp hình phạt trong trờng hợp có nhiều bản án (Điều 51), tổng hợp
hình phạt đối với ngời cha thành niên phạm nhiều tội (Điều 75) và tổng hợp hình
phạt trong các trờng hợp liên quan đến án treo (khoản 5 Điều 60).
1.2. ý nghĩa của tổng hợp hình phạt
Tổng hợp hình phạt là một chế định pháp lý bảo đảm tính công bằng xã hội

trong chính sách hình sự của Nhà nớc đối với ngời phạm tội. Do vậy, việc xây
Website: Email : Tel : 0918.775.368

dựng và áp dụng đúng những quy định về tổng hợp hình phạt sẽ có ý nghĩa rất lớn
trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần giữ gìn trật tự xã hội. Cụ thể
là những ý nghĩa sau:
ý nghĩa thứ nhất, tổng hợp hình phạt đúng sẽ góp phần đạt đợc mục đích
và nâng cao hiệu quả của hình phạt. Khi tổng hợp hình phạt, Toà án sẽ tuyên một
hình phạt chung cho bị cáo. Hình phạt chung đợc tuyên trên cơ sở tổng hợp hình
phạt của từng tội và trong giới hạn luật cho phép đối với từng loại hình phạt. Nh
vậy, hình phạt chung là sự đánh giá đầy đủ và toàn diện nhất của Nhà nớc đối với
tất cả các tội mà bị cáo đã thực hiện, do đó phải tơng xứng với toàn bộ các tội mà
bị cáo đã phạm. Nếu hình phạt chung đợc tổng hợp không đúng sẽ làm mất tác
dụng của hoạt động quyết định hình phạt đối với từng tội và sẽ dẫn đến mục đích
của hình phạt không đạt đợc. Do vậy, tổng hợp hình phạt chính xác có vai trò rất
lớn trong việc nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt.
ý nghĩa thứ hai, tổng hợp hình phạt đúng là góp phần củng cố pháp chế
XHCN. Để tổng hợp hình phạt đúng Toà án trớc tiên phải quyết định hình phạt
đúng. Để quyết định hình phạt đúng Toà án phải nhận thức đúng và tuân thủ
nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Mặt khác, hình phạt tổng hợp có tơng
xứng với các hành vi phạm tội thì mới có tính thuyết phục, ngời bị kết án sẽ tự
giác chấp hành hình phạt, đồng thời một hình phạt tổng hợp thoả đáng sẽ có tác
dụng lớn trong mục đích phòng ngừa chung của luật hình sự.
ý nghĩa thứ ba, việc tổng hợp hình phạt đúng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
các cơ quan thi hành án thực thi nhiệm vụ, góp phần tăng cờng sự phối hợp giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong thực tế, nhiều khi ngời bị kết án phải chịu
nhiều hình phạt nhng các hình phạt lại không đợc tổng hợp do vậy có nhiều bản án
có hiệu lực nhng phần hình phạt lại cha đợc chấp hành. Điều này dễ dẫn đến tình
trạng coi thờng pháp luật ảnh hởng đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
ý nghĩa thứ t, việc tổng hợp hình phạt đúng còn là sự đảm bảo nguyên tắc

công bằng trong luật hình sự nói riêng và công bằng xã hội nói chung. Nguyên tắc
công bằng trong luật hình sự là một ngời thực hiện nhiều tội phạm thì phải chịu
Website: Email : Tel : 0918.775.368

nhiều hình phạt. Công bằng trong xã hội là ngời phạm tội phải trừng trị, ngời
phạm nhiều tội phải bị trừng trị nhiều hơn ngời phạm một tội.
2. Các nguyên tắc tổng hợp hình phạt
Theo nghĩa chung thì nguyên tắc đợc hiểu là điều cơ bản định ra nhất
thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm [10, Tr. 672]. Mỗi ngành khoa học,
mỗi lĩnh vực cụ thể đề cập tới vấn đề nguyên tắc theo góc độ riêng, đặc thù cho
ngành khoa học hay lĩnh vực hoạt động đó. Trong khoa học pháp lý, nguyên tắc
trong luật hình sự là những t tởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình xây dựng
cũng nh áp dụng các văn bản pháp luật hình sự. Tổng hợp hình phạt là một chế
định trong luật hình sự nên cũng chịu sự chỉ đạo của các nguyên tắc chung của
luật hình sự. Tuy nhiên, tổng hợp hình phạt cũng là một hoạt động cụ thể nên
ngoài việc tuân thủ theo t tởng chỉ đạo chung còn có những t tởng chỉ đạo riêng,
đặc thù của hoạt động này.
Các nguyên tắc tổng hợp hình phạt là những t tởng chỉ đạo trong quá
trình xây dựng và áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự để Toà án tổng hợp
hình phạt chính xác đối với ngời phạm tội.
Trong luật hình sự Việt Nam, các nguyên tắc tổng hợp hình phạt không đợc
ghi nhận trực tiếp trong BLHS mà đợc thể hiện thông qua nội dung các quy phạm
pháp luật hình sự. Cần phân biệt các nguyên tắc của luật hình sự với các nguyên
tắc tổng hợp hình phạt. Các nguyên tắc của luật hình sự là các nguyên tắc chung
cho toàn bộ các chế định của luật hình sự trong đó có tổng hợp hình phạt. Còn các
nguyên tắc tổng hợp hình phạt chỉ là các nguyên tắc đặc thù riêng cho hoạt động
tổng hợp hình phạt do đó nó có tính cụ thể hoá và tính đặc trng cao hơn. Đây là
mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Trong đó, các nguyên tắc của luật hình
sự là cái chung còn nguyên tắc trong tổng hợp hình phạt là cái riêng. Chúng vừa
có tính độc lập tơng đối vừa có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau nên có vai

trò định hớng cho Toà án tổng hợp hình phạt đúng đắn nhất.
Trên cơ sở nội dung các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về tổng hợp
hình phạt, tác giả nhận thấy các nguyên tắc tổng hợp hình phạt gồm các nguyên
tắc sau: nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN), nguyên tắc nhân đạo chủ
nghĩa, nguyên tắc cá thể hoá hình phạt và nguyên tắc công bằng.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

2.1. Nguyên tắc pháp chế XHCN
Pháp chế XHCN là sự tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm
chỉnh, triệt để và chính xác của tất cả các cơ quan Nhà nớc, các tổ chức và mọi
công dân trong hoạt động của mình. Trong luật hình sự nói chung và trong tổng
hợp hình phạt nói riêng việc tuân thủ nguyên tắc pháp chế XHCN có ý nghĩa hết
sức quan trọng. Bởi lẽ, chỉ khi nguyên tắc pháp chế đợc tuân thủ một cách triệt để
thì các nguyên tắc khác mới đợc bảo đảm. Tuy nhiên, nếu không hiểu đúng nội
dung nguyên tắc này dễ dẫn đến máy móc, cứng nhắc khi áp dụng các quy định
pháp luật vào việc giải quyết vụ án cụ thể.
Nội dung của nguyên tắc pháp chế XHCN trong tổng hợp hình phạt đợc thể
hiện cả trong luật hình sự và áp dụng luật hình sự.
Trong luật hình sự, nội dung nguyên tắc pháp chế XHCN trong tổng hợp
hình phạt thể hiện qua việc nhà làm luật đã quy định rõ giới hạn của hình phạt
chung đối với từng loại hình phạt. Cụ thể: tại điểm a, khoản 1, Điều 50 quy định
...hình phạt chung không đợc vợt qua ba năm đối với hình phạt cải tạo không
giam giữ, ba mơi năm đối với hình phạt tù có thời hạn; hay ở khoản 2 Điều 50,
Điều 74 cũng quy định tơng tự. Nội dung nguyên tắc pháp chế XHCN còn thể hiện
ở chỗ luật đã có quy định nhằm bảo đảm cho hiệu lực của bản án và bảo đảm tính
nghiêm túc của pháp luật. Đó là quy định tại khoản 3, Điều 51 trong trờng hợp
một ngời phải chấp hành nhiều bản án có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt
của các bản án cha đợc tổng hợp, thì Chánh án Toà án ra quyêt định tổng hợp
các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. Nguyên tắc pháp
chế XHCN trong tổng hợp hình phạt còn đợc thể hiện qua các quy định thể hiện

thái độ nghiêm khắc của Nhà nớc đối với những kẻ phạm tội không biết ăn năn,
hối cải, coi thờng pháp luật. Đó là quy định tại khoản 5, Điều 60 Đối với những
ngời đợc hởng ánh treo mà phạm tội mới trong thơì gian thử thách, thì Toà án
quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trớc và tổng hợp với hình
phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 bộ luật này. Hay trong quy định
về tổng hợp hình phạt tại khoản 2, Điều 51 đối với một ngời đang phải chấp hành
Website: Email : Tel : 0918.775.368

một bản án mà lại phạm tội mới thì hình phạt chung thực tế có thể rất nghiêm khắc
với họ.
Trong áp dụng luật hình sự, nội dung của nguyên tắc pháp chế XHCN đợc
thể hiện qua những việc cụ thể sau:
Thứ nhất, khi tổng hợp hình phạt Toà án phải áp dụng đúng các quy định về
tổng hợp hình phạt trong luật hình sự và các văn bản có liên quan. Các quy định về
tổng hợp hình phạt phải đợc hiểu và áp dụng thống nhất trong cả nớc.
Thứ hai, khi tổng hợp hình phạt Toà án phải nêu rõ căn cứ pháp lý đợc ghi
trong bản án, tức là Toà án phải ghi rõ điều, khoản, điểm đã vận dụng. Đây là
công việc hết sức quan trọng của Toà án khi tuyên án vì nó làm cho bản án mang
tính hợp pháp, có sức thuyết phục. Hơn nữa, nó còn là cơ sở để Toà án cấp trên
giám sát, kiểm tra việc xét xử của Toà án cấp dới, phát hiện và sửa chữa kịp thời
những sai sót của Toà án cấp dới.
Thứ ba, khi tổng hợp hình phạt Toà án phải tuân thủ cách thức tổng hợp
hình phạt nghĩa lã Toà án phải trên cơ sở các hình phạt riêng đối với từng tội, từng
bản án rồi mới tổng hợp thành hình phạt chung. Điều này cũng rất quan trọng, bởi
vì hình phạt chung là sự phản ánh đầy đủ và toàn diện những đánh giá của Toà án
đối với tất cả các tội mà bị cáo đã thực hiện do đó nó phải tơng xứng với tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tất cả các tội đó. Nếu hình phạt chung đợc
tổng hợp không đúng sẽ làm mất tác dụng của hoạt động quyết định hình phạt và
từ đó làm cho mục đích hình phạt không đạt đợc
2.2. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa

Nhân đạo là một truyền thống quý báu của dân tộc ta. T tởng nhân đạo luôn
thể hiện rõ nét trong đờng lối chính sách của Đảng và các văn bản pháp luật của
Nhà nớc. Trong quá trình hình thành và phát triển của pháp luật hình sự nớc ta
nguyên tắc nhân đạo là một trong những nguyên tắc xuyên suốt cả trong luật hình
sự nói chung và cả trong mỗi chế định nói riêng.
Nội dung nguyên tắc nhân đạo XHCN trong tổng hợp hình phạt đợc thể
hiện cả trong luật hình sự và áp dụng pháp luật hình sự.
Trong luật hình sự, nội dung nguyên tắc nhân đạo XHCN trong tổng hợp
hình phạt đợc thể hiện qua các quy định đối với ngời cha thành niên phạm tội, các
Website: Email : Tel : 0918.775.368

quy định về giới hạn mức cao nhất đối với từng loại hình phạt khi tổng hợp hình
phạt.
Điều 69, khoản 5 có quy định không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình
đối với ngời cha thành niên phạm tội. Khi xử phạt tù có thời hạn, Toà án cho ng-
ời cha thành niên phạm tội đợc hởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với
ngời đã thành niên phạm tội tơng ứng. Hay tại Điều 74 luật đã quy định rõ giới
hạn mức phạt tù có thời hạn đối với ngời cha thành niên. Đây đều là những quy
định có lợi cho ngời cha thành niên phạm tội. Nó thể hiện rõ chính sách hình sự
nhân đạo của Nhà nớc đối với loại chủ thể đặc biệt này. Hình phạt đối với ngời cha
thành niên chủ yếu mang tính giáo dục nhằm đa các em trở về làm ngời có ích cho
xã hội.
Điều 50 BLHS năm 1999 quy định giới hạn mức cao nhất của hình phạt
chung đối với từng loại hình phạt. Ví dụ: Khoản 1 quy định nếu các hình phạt
đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các
hình phạt đó đợc cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không đợc v-
ợt quá ba năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, ba mơi năm đối với
hình phạt tù có thời hạn. Việc quy định giới hạn mức cao nhất của hình phạt
chung suy đến cùng cũng là thể hiện tinh thần nhân đạo trong chính sách hình sự
của Nhà nớc bởi lẽ nếu không có quy định này thì ngời phạm tội có thể phải chịu

một mức hình phạt bất lợi hơn rất nhiều (có thể hình phạt chung sẽ lên tới 40 năm,
50 năm). Khi đó, hình phạt mang tính chất trừng trị nhiều hơn.
Trong áp dụng luật hình sự, nội dung nguyên tắc nhân đạo XHCN thể hiện
trớc hết ở việc Toà án khi xét xử phải chú ý đến đặc điểm tốt về nhân thân của ng-
ời phạm tội. Đó là các đặc điểm nh: phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, bị cáo
là thơng binh... Đây là những đặc điểm phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục cũng
nh hoàn cảnh đặc biệt của ngời phạm tội. Do vậy, Toà án phải xem xét đến những
đặc điểm nhân thân tốt của ngời phạm tội để tuyên một hình phạt nhẹ hơn cho bị
cáo. Hình phạt chung đợc quyết định trên cơ sở các hình phạt riêng của từng tội do
đó để thể hiện đợc tinh thần nhân đạo trong hình phạt chung thì nó phải đợc thể
hiện ngay trong khi quyết định hình phạt đối với từng tội. Một hình phạt chung đ-
ợc tuyên tơng xứng với các tội mà bị cáo đã thực hiện và nhân đạo với những đặc
Website: Email : Tel : 0918.775.368

điểm tốt của họ chắc chắn họ sẽ cải tạo tốt để trở về là ngời công dân có ích cho
xã hội.
Thứ hai, khi quyết định hình phạt cũng nh tổng hợp hình phạt, Toà án phải
đặt mục đích giáo dục, cải tạo ngời phạm tội trở thành công dân tốt là mục đích
quan trọng hàng đầu. Nếu qua nghiêng về mục đích trừng trị thì hình phạt đã
tuyên sẽ làm cho ngời phạm tội thấy quá nghiêm khắc không thoả đáng với hành
vi phạm tội của mình từ đó dễ nảy sinh tâm lý tiêu cực, chống đối pháp luật,
không chịu cải tạo. Do đó, nếu có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị
cáo, thì Toà án nên xem xét để đa ra mức hình phạt phù hợp nhất, thể hiện thái độ
khoan hồng của pháp luật đối với ngời phạm tội.
Thứ ba, đối với ngời cha thành niên phạm tội, khi xét xử Toà án phải xem
xét đến tâm sinh lý, nguyên nhân và điều kiện phạm tội của bị cáo vì ngời cha
thành niên là ngời cha hoàn thiện về thể chất và nhận thức dễ bị kích động, lôi kéo
dẫn đến hành vi phạm tội. Do vậy, việc Toà án xem xét đến các yếu tố tác động
dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo là ngời cha thành niên là rất cần thiết vì khi
đó Toà án sẽ có cái nhìn khoan dung hơn đối với chủ thể đặc biệt này và hình phạt

tuyên cho họ sẽ thực sự mang tính giáo dục.
Ngoài ra, nội dung nguyên tắc nhân đạo XHCN trong áp dụng luật hình sự
còn thể hiện qua việc các quy định mới có tính nghiêm khắc hơn của BLHS năm
1999 so với BLHS năm 1985 chỉ đợc áp dụng đối với các hành vi phạm tội xảy ra
kể từ ngày 1-7-2000, là ngày BLHS năm 1999 có hiệu lực.
2.3. Nguyên tắc cá thể hoá trong tổng hợp hình phạt
Cá thể hoá hình phạt là một nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam.
Nội dung của nguyên tắc này là hình phạt đợc tuyên phải phù hợp vói tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phù hợp với nhân thân ngời
phạm tội cũng nh hoàn cảnh phạm tội của họ.
Trong tổng hợp hình phạt, hình phạt chung đợc tuyên trên cơ sở từng hình
phạt riêng đối với từng tội do đó nội dung nguyên tắc cá thể hoá trong tổng hợp
hình phạt trớc hết phải tuân theo nguyên tắc cá thể hoá hình phạt trong hoạt động
quyết định hình phạt, sau đó là những nội dung riêng của tổng hợp hình phạt.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Trong luật hình sự Việt Nam, nội dung của nguyên tắc cá thể hoá trong
quyết định hình phạt cũng nh tổng hợp hình phạt đợc thể hiện trong luật hình sự
cũng nh trong áp dụng luật hình sự. Cá thể hoá trong luật hình sự quy định cho
mọi trờng hợp phạm tội, còn cá thể hoá trong áp dụng luật hình sự thì áp dụng đối
với từng trờng hợp cụ thể, từng vụ án cụ thể.
Trong luật hình sự, nguyên tắc cá thể hoá hình phạt trong quyết định hình
phạt đợc thể hiện trong cả các quy phạm ở phần chung và cả các quy phạm ở phần
các tội phạm.
ở phần chung của BLHS, nội dung nguyên tắc nhân đạo XHCN đợc thể
hiện ở các quy định về: nguyên tắc xử lý tội phạm (Điều 3); phân loại tội phạm
(Điều 8); căn cứ quyết định hình phạt (Điều45); nguyên tắc xử lý ngời cha thành
niên phạm tội (Điều 69); Điều 74; Điều 75.
ở phần các tội phạm, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong quyết định hình
phạt đợc thể hiện ở chỗ các chế tài quy định cho các tội phạm cụ thể chủ yếu là

chế tài lựa chọn. Hầu hết các tội phạm cụ thể đều có các khung hình phạt với mức
hình phạt nặng nhẹ khác nhau. Do vậy, tùy từng trờng hợp cụ thể Toà án quyết
định hình phạt phù hợp với tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Trong các quy định về vấn đề tổng hợp hình phạt trong BLHS năm 1999 nội
dung nguyên tắc cá thể hóa đợc thể hiện qua quy định về cách thức tổng hợp hình
phạt. Theo các quy định đó thì khi tổng hợp hình phạt trong trờng hợp phạm nhiều
tội, Tòa án phải quyết định hình phạt đối với từng tội sau đó mới tổng hợp thành
hình phạt chung. Trong trờng hợp tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, Tòa án
quyết định hình phạt cho tội đang bị xét xử, sau đó tổng hợp với bản án trớc thành
hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành. Cũng trong trờng hợp tổng hợp hình
phạt của nhiều bản án, ở mỗi trờng hợp luật lại quy định cách thức tổng hợp khác
nhau phù hợp với từng chính sách hình sự của Nhà nớc. Đối với tổng hợp hình
phạt trong trờng hợp có liên quan đến án treo, cũng đã có đờng lối xử lý riêng giữa
trờng hợp ngời đợc hởng án treo lại phạm tội mới trong thời gian thử thách và tr-
ờng hợp ngời đợc hởng án treo đang chấp hành thời gian thử thách lại bị xét xử về
tội đã thực hiện trớc khi có bản án cho hởng án treo. Đối với tổng hợp hình phạt
trong trờng hợp ngời cha thành niên phạm tội, luật đã có quy định riêng về cách
Website: Email : Tel : 0918.775.368

thức tổng hợp hình phạt đối với ngời phạm nhiều tội, có tội thực hiện trớc khi đủ
18 tuổi, có tội đợc thực hiện sau khi đủ 18 tuổi.
Trong áp dụng luật hình sự, vì để tổng hợp hình phạt đợc, Toà án phải dựa
trên cơ sở việc quyết định hình phạt đối với từng tội cụ thể, từng bản án nên
nguyên tắc cá thể hoá hình phạt trong tổng hợp hình phạt thể hiện trớc hết qua việc
quyết định hình phạt đối với từng tội. Theo đó, nội dung nguyên tắc này thể hiện ở
chỗ trong trờng hợp cụ thể, hình phạt đã tuyên phải tơng xứng với tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Khi quyết định hình phạt, Toà án
phải cân nhắc, xem xét tất cả các tình tiết có trong vụ án để đánh giá chính xác
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Mặt khác, Toà án
cũng cần xem xét đến các yếu tố khác nữa nh khách thể xâm phạm của tội phạm;

vai trò của ngời phạm tội (nếu trong vụ án có đồng phạm), các giai đoạn phạm tội;
công cụ, phơng tiện phạm tội; hoàn cảnh, mục đích phạm tội để từ đó quyết
định hình phạt phù hợp đối với ngời phạm tội.
Thứ hai, nội dung của nguyên tắc cá thể hoá hình phạt cần đợc thể hiện ở
chỗ khi quyết định hình phạt, Toà án phải xem xét những đặc điểm thuộc về nhân
thân ngời phạm tội nh: trình độ học vấn, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình và
phải chỉ rõ những điểm tốt, điểm xấu trong nhân thân ngời phạm tội và chú ý chỉ
xem xét những tình tiết có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt.
Thứ ba, nội dung nguyên tắc cá thể hoá hình phạt còn yêu cầu khi quyết
định hình phạt, Toà án phải xem xét đến các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị cáo vì đây là một trong những cơ sở để đánh giá mức độ, tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
2.4. Nguyên tắc công bằng trong tổng hợp hình phạt
Theo nghĩa chung công bằng đợc hiểu là: theo đúng lẽ phải, không thiên
vị. ở nớc ta, công bằng đã trở thành một đạo lý tốt đẹp trong đời sống của nhân
dân. T tởng công bằng luôn đợc thể hiện trong đờng lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nớc. Trong luật hình sự Việt Nam, công bằng là một trong các
t tởng xuyên suốt Bộ luật hình sự.
Trong tổng hợp hình phạt công bằng là một nguyên tắc đặc thù đợc thể hiện
trong cả luật hình sự và áp dụng luật hình sự.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Trong luật hình sự, nguyên tắc công bằng trong tổng hợp hình phạt đợc thể
hiện cụ thể ở chỗ: Trong trờng hợp phạm nhiều tội, ngời phạm nhiều tội phải chịu
hình phạt về tất cả các tội đã phạm. Còn trong trờng hợp có nhiều bản án, một ng-
ời đang phải chấp hành một bản án lại phạm tội mới thì thời gian đã chấp hành bản
án trớc của bị cáo không đợc trừ vào thời gian chấp hành hình phạt chung. Điều
này là công bằng với ý thức chấp hành pháp luật và đặc điểm về nhân thân của ng-
ời phạm tội. Tơng tự, tổng hợp hình phạt trong các trờng hợp có liên quan đến án
treo, nguyên tắc công bằng chính là việc buộc ngời đợc hởng án treo phải chấp

hành hình phạt của bản án cho hởng án treo nếu ngời này phạm tội mới trong thời
gian thử thách. Và trong trờng hợp ngời cha thành niên phạm nhiều tội, nếu tội
nặng nhất đợc thực hiện khi đã đủ 18 tuổi thì việc tổng hợp hình phạt đợc thực
hiện nh đối với ngời thành niên cũng đợc coi là đã thể hiện đợc nguyên tắc công
bằng.
Trong áp dụng luật hình sự, nguyên tắc công bằng thể hiện ở chỗ trong
từng trờng hợp cụ thể, Toà án phải tuyên hình phạt tổng hợp phù hợp với tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi phạm tội đã thực hiện, không phân
biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo
Thứ hai, trong phạm vi cả nớc, Toà án phải thống nhất trong việc hiểu và
vận dụng cách thức tổng hợp hình phạt, tránh tình trạng mỗi nơi hiểu theo một
cách.
Thứ ba, khi quyết định hình phạt riêng cho từng tội, Toà án phải xem xét tất
cả các tình tiết có trong vụ án có nh vậy việc tổng hợp hình phạt mới phù hợp với
toàn bộ các hành vi phạm tội của bị cáo.
Tổng hợp hình phạt là một trờng hợp đặc biệt của hoạt động quyết định
hình phạt nên các nguyên tắc tổng hợp hình phạt có quan hệ chặt chẽ với các
nguyên tắc quyết định hình phạt và có quan hệ biện chứng với các nguyên tắc
chung của luật hình sự. Các nguyên tắc tổng hợp hình phạt không những có ý
nghĩa lớn trong việc tổng hợp hình phạt nói riêng mà cùng với các nguyên tắc của
luật hình sự chúng còn có ý nghĩa chung trong công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm
3. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự việt nam về tổng hợp hình phạt
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Nhìn lại lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam ta có thể thấy, tổng hợp hình
phạt là một chế định pháp luật hình sự ra đời từ rất sớm. Cùng với sự phát triển của
đất nớc, pháp luật hình sự của nớc ta cũng có những thay đổi, bổ sung để kịp thời
điều chỉnh những quan hệ xã hội mới. Trong bối cảnh đó, là một chế định khá
quan trọng trong luật hình sự nên chế định tổng hợp hình phạt cũng đã đợc dần

hoàn thiện để đáp ứng đòi hỏi của xã hội.
3.1. Giai đoạn từ năm 1945 cho đến trớc khi có BLHSVN 1985
Trong giai đoạn này nhìn chung chế định tổng hợp hình phạt cha đợc quy
định trong các văn bản pháp luật mà mới chỉ đợc đề cập đến trong các bản báo cáo
tổng kết công tác của ngành toà án và các công văn của TANDTC hớng dẫn các
Toà án địa phơng việc xét xử. Cụ thể trong các trờng hợp tổng hợp hình phạt nh
sau:
Trờng hợp thứ nhất: Trờng hợp phạm nhiều tội, trớc khi ban hành Bộ luật
hình sự (BLHS) năm 1985, pháp luật hình sự nớc ta cha có quy định cụ thể về tổng
hợp hình phạt đối với trờng hợp phạm nhiều tội, nên vào những thời điểm khác
nhau, việc tổng hợp hình phạt đợc các Toà án thực hiện với nhiều cách thức không
thống nhất. Chẳng hạn, từ trớc năm 1964, việc quyết định hình phạt đối với trờng
hợp phạm nhiều tội, có Toà án đã phân tích, nhận định trong bản án phạm nhiều
tội nhng lại không tuyên hình phạt riêng cho từng tội rồi tổng hợp lại thành hình
phạt chung mà chỉ quyết định hình phạt chung cho tất cả các tội đợc phân tích; có
Toà án quyết định hình phạt cụ thể cho mỗi tội rồi tổng hợp thành hình phạt chung
buộc bị cáo phải chấp hành. Việc quyết định hình phạt chung cho các tội cũng đợc
thực hiện bằng nhiều cách khác nhau nh thu hút hình phạt nhẹ vào hình phạt nặng
hoặc cộng tất cả các hình phạt đã tuyên cho từng tội lại, hoặc cộng thêm vào hình
phạt nặng nhất một phần của các hình phạt đã tuyên. [18, Tr.140]
Để khắc phục tình trạng trên, trong Báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án
năm 1964 sau khi chỉ ra những thiếu sót mà các Toà án cần khắc phục, Hội đồng
thẩm phán TANDTC đã hớng dẫn các Toà án cách thức định tội danh trong trờng
hợp phạm nhiều tội. Cụ thể: Đối với tr ờng hợp bị cáo phạm nhiều tội, khi xét xử
nói chung trong những trờng hợp thấy cần thiết và có thể, Toà án nên phân tích,
kết luận rõ đối với từng hành vi phạm tội và quyết định hình phạt cho từng hành
Website: Email : Tel : 0918.775.368

vi rồi mới quyết định hình phạt chung bắt bị cáo phải chấp hành. Nhng cũng
cần chú ý rằng, đối với những trờng hợp tuy bị cáo có nhiều hành vi nhng mỗi

hành vi cũng cấu thành một tội phạm hình sự, nhng xét thấy việc xét xử về nhiều
tội là không cần thiết thì không máy móc phải xử phạt hết các tội và xử tổng hợp
nhiều tội [18, Tr.142 -143]. Báo cáo tổng kết năm 1964 còn nêu ra hai phơng
pháp tổng hợp hình phạt. Đó là phơng pháp cộng hình phạt và thu hút hình phạt
với phạm vi áp dụng khác nhau. Tuy nhiên, sự hớng dẫn này cũng cha thật cụ thể
và chi tiết nên dẫn đến tình trạng áp dụng không thống nhất. Do vậy, ngày
14/9/1973, TANDTC đã ra công văn số 612 hớng dẫn các Toà án tổng hợp hình
phạt trong đó có chỉ rõ thế nào là trờng hợp cộng một phần, cộng toàn bộ và thu
hút hình phạt [18, Tr. 145 - 148]
Trờng hợp thứ hai: Tổng hợp hình phạt trong trờng hợp có nhiều bản án.
Trong giai đoạn này, về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, Báo cáo tổng kết
công tác của TANDTC năm 1964 đã nêu ra hai trờng hợp với cách thức tổng hợp
có nhiều điểm tơng đồng với các quy định hiện hành của BLHS. Cụ thể:
1. Trờng hợp bị cáo đang chấp hành hình phạt tù (cha hết thời hạn) lại
bị đa ra xét xử về một tội phạm khác mà y phạm phải trớc khi hoặc trong khi bị
phạt tù. Đối với trờng hợp này, trừ khi bị can bị xử tử hình hoặc tù chung thân,
chúng ta cũng có hai cách giải quyết:
a) Nếu tội phạm xảy ra từ trớc nay mới phát hiện và mới đa ra xét xử, thì
sau khi tuyên hình phạt cho tội mới đa ra xét xử, trên cơ sở hình phạt đã tuyên
trong bản án trớc và hình phạt mới tuyên, Toà án nên quyết định theo chủ trơng
xét xử tổng hợp nói trên, một hình phạt tổng hợp bắt bị can phải chấp hành rồi
trừ đi thời gian đã chấp hành, còn lại bắt bị can phải chấp hành tiếp
b) Nếu là tội xảy ra trong thời gian đang ở tù thì sau khi tuyên phạt cho
tội mới, trên cơ sở phần còn lại của hình phạt cũ và hình phạt mới, Toà án quyết
định một hình phạt bắt bị can phải chấp hành tiếp, không tính thời gian đã chấp
hành hình phạt cũ vào đó [18, Tr. 141 - 142]
Tiếp theo trong Công văn số 612/NCPL ngày 14/9/1973 của TANDTC về
việc viết các bản án hình sự sơ thẩm và phúc thẩm, chế định tổng hợp hình phạt
Website: Email : Tel : 0918.775.368


của nhiều bản án đợc hớng dẫn đầy đủ hơn các báo cáo tổng kết công tác ngành
Toà án trớc đó.
Theo đó thì tổng hợp hình phạt trong trờng hợp có nhiều bản án đợc chia
làm hai loại: trờng hợp một ngời đang phải chấp hành một bản án lại bị xét xử về
một tội đã phạm trớc khi có bản án này và trờng hợp một ngời đang chấp hành một
bản án mà lại phạm tội mới. ở trờng hợp thứ nhất, thời hạn thi hành hình phạt
chung đợc tính từ ngày bị cáo bắt đầu chấp hành hình phạt của bản án trớc. Trờng
hợp thứ hai, thời hạn thi hành hình phạt chung đợc tính từ ngày tuyên hình phạt
chung. Nh vậy, cách tính thời hạn chấp hành hình phạt chung nói trên đã thể hiện
đợc thái độ nghiêm khắc hơn của nhà nớc đối với những ngời đang phải chấp hành
một bản án mà lại phạm tội mới
Trờng hợp thứ ba: Tổng hợp hình phạt đối với ngời cha thành niên phạm
nhiều tội. Trong thời gian từ sau cách mang Tháng tám thành công đến năm 1975
cha có văn bản pháp luật hình sự nào chính thức quy định nguyên tắc xử lý, quyết
định hình phạt, tổng hợp hình phạt đối với ngời cha thành niên phạm tội mà vấn đề
này cũng mới chỉ đợc đề cập tới trong các báo cáo tổng kết công tác ngành toà án
của TANDTC. Từ sau giải phóng miền Nam đến trớc khi có Bộ luật hình sự năm
1985, TANDTC đã ra chuyên đề sơ kết kinh nghiệm xét xử các vụ án về ngời cha
thành niên phạm tội (kèm theo công văn số 37/NCPL ngày 16/1/1976). Nội dung
của bản sơ kết này đầy đủ hơn, chi tiết hơn so với những báo cáo tổng kết trớc đó
nhng vấn đề tổng hợp hình phạt đối với ngời cha thành niên trong trờng hợp có tội
thực hiện trớc và có tội thực hiện sau khi đủ 18 tuổi lại chỉ đợc đề cập đến khá sơ
lợc.
Trờng hợp thứ t: Tổng hợp hình phạt trong các trờng hợp có liên quan đến
án treo. ở nớc ta, chế định án treo đợc quy định khá sớm. Nó ra đời và gắn liền
với sự ra đời của pháp luật hình sự Việt Nam. án treo đã đợc quy định trong một
số sắc lệnh nh: Sắc lệnh số 33C/SL (quy định tại điều IV); Sắc lệnh số 21/SL ngày
14/2/1946. Trong các văn bản này đã quy định về: hình phạt đợc hởng án treo,
điều kiện hởng, thời gian thử thách, xoá án tích.
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Trớc khi có BLHS, vấn đề tổng hợp hình phạt trong trờng hợp ngời đợc h-
ởng án treo lại phạm tội mới trong thời gian thử thách đợc quy định tại Điều 10
Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/2/1946: Nếu trong 5 năm ấy, tội nhân bị kết án một
lần nữa trớc một Toà án quân sự thì bản án treo sẽ đem thi hành. Cụ thể: khi tội
phạm mới bị đa ra xét xử, không bị phạt tù, ngời phạm tội đồng thời phải chấp
hành hai bản án (nguyên tắc cùng tồn tại). Nếu tội phạm mới bị xử phạt tù thì phải
tổng hợp với hình phạt của bản án cũ.
Tiếp đó, đến hớng dẫn tại Thông t số 2308/NCPL ngày 01/12/1961 thì việc
tổng hợp hình phạt đối với ngời đợc hởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử
thách đã có những sự thay đổi căn bản: Nếu trong thời gian thử thách, ngời đợc
hởng án treo lại phạm tội mới cùng tính chất hoặc nặng hơn tội cũ, Toà án sẽ
cộng một phần hay toàn bộ hình phạt cũ vào hình phạt mới để chấp hành [18,
Tr. 125]
3.2. Giai đoạn áp dụng bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời đánh dấu bớc ngoặt phát triển của lịch sử
lập pháp hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, cũng do đây là bộ luật hình sự đầu tiên nên
xét về mặt kỹ thuật lập pháp còn có nhiều hạn chế trong đó có những hạn chế khi
quy định về chế định tổng hợp hình phạt. Cụ thể:
Đối với vấn đề tổng hợp hình phạt trong trờng hợp phạm nhiều tội. Trong
Bộ luật hình sự năm 1985, lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam,
việc quyết định hình phạt trong trờng hợp phạm nhiều tội đã đợc quy định tại Điều
41: Khi xét xử cùng một lần ngời phạm nhiều tội, toà án quyết định hình phạt
đối với từng tội, sau đó quyết định hình phạt chung cho các tội. Hình phạt chung
không đợc vợt mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội nặng nhất đã phạm
và trong phạm vi loại hình phạt đã tuyên. Quy định: khi xét xử cùng một lần
ngời phạm nhiều tội, Toà án quyết định hình phạt đối với từng tội, sau đó quyết
định hình phạt chung cho các tội đã khắc phục đợc nhợc điểm thiếu nhất quán
trong thực tiễn xét xử thời gian trớc đó và đánh dấu sự trởng thành về mặt kỹ thuật
lập pháp hình sự nớc ta. Tuy nhiên, qua một thời gian thực hiện, Điều 41 bộ luật

hình sự năm 1985 đã bộc lộ bất cập ở quy định: Hình phạt chung không đợc vợt
Website: Email : Tel : 0918.775.368

mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội nặng nhất đã phạm và trong phạm
vi loại hình phạt đã tuyên, bởi lẽ quy định này đã hạn chế sự nghiêm khắc của
pháp luật đối với những kẻ phạm nhiều tội, nhất là trong trờng hợp các tội đã
phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cao cho xã hội.
Để khắc phục nhợc điểm này, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
hình sự đã đợc Quốc hội nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày
28/12/1989 đã sửa đổi quy định trên nh sau: Hình phạt chung không đựơc vợt
mức cao nhất của loại hình phạt đã tuyên. Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự năm 1985
không quy định cách thức tổng hợp hình phạt, do đó gây ra những vớng mắc khi
áp dụng pháp luật, nhất là trong trờng hợp phải tổng hợp các hình phạt khác loại.
Đối với vấn đề tổng hợp hình phạt trong trờng hợp có nhiều bản án. Theo
BLHS năm 1985, tổng hợp hình phạt trong trờng hợp có nhiều bản án đợc quy
định tại Điều 42. Theo Điều 42, tổng hợp hình phạt trong trờng hợp có nhiều bản
án bao gồm hai trờng hợp với nguyên tắc tổng hợp hình phạt nh sau:
Trờng hợp một ngời đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về
một tội đã phạm trớc khi có bản án này thì toà án quyết định hình phạt đối với tội
đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung. Hình phạt chung không đợc v-
ợt mức cao nhất của khung hình phạt mà luật quy định đối với tội nặng nhất đã
phạm và trong phạm vi loại hình phạt đã tuyên (khoản 1).
Trờng hợp một ngời đang chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới, Toà
án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó cộng với phần hình phạt cha chấp
hành của bản án trớc thành hình phạt chung. Hình phạt chung không đợc vợt mức
cao nhất mà luật quy định cho loại hình phạt đã tuyên (khoản 2). Quy định này đã
thể hiện rõ sự phân hoá trách nhiệm hình sự đối với ngời phạm tội.
Nhìn vào quy định của Điều 42 khoản 1 ta có thể nhận thấy sự bất hợp lý
trong việc quy định hình phạt chung không đợc vợt mức cao nhất của khung
hình phạt mà luật quy định đối với tội nặng nhất đã phạm và trong phạm vi loại

hình phạt đã tuyên. Với quy định trên, ngời phạm nhiều tội cũng có thể chỉ bị xử
phạt nh ngời phạm một tội. Điều này là sự vi phạm nguyên tắc công bằng trong
luật hình sự nói chung và trong tổng hợp hình phạt nói riêng. Và thực tiễn xét xử
đã chứng minh trong một số trờng hợp, hình phạt chung mà Toà án tổng hợp
Website: Email : Tel : 0918.775.368

không tơng xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm mà
bị cáo đã thực hiện.
Vì vậy, Điều 42 khoản 1 đã đợc Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS ngày 28/12/1989 sửa đổi nh sau: ...Hình phạt chung không đợc vợt mức
cao nhất của loại hình phạt đã tuyên.... Việc sửa đổi này đã đáp ứng đợc yêu
cầu của thực tiễn xét xử, góp phần có hiệu quả hơn trong việc đấu tranh phòng
chống tội phạm. Tuy nhiên, nếu quy định nh trên thì hình phạt chung cao nhất đối
với hình phạt tù chỉ có thể là 20 năm, trong khi đó ngời phạm một tội cũng có thể
bị tuyên đến 20 năm tù. Do vậy, có ý kiến đã đề xuất hình phạt chung đối với hình
phạt tù có thời hạn nên cao hơn. [8]
Trong lần sửa đổi, bổ sung này, các nhà làm luật cha dự liệu đợc hết các tr-
ờng hợp, do đó có trờng hợp một ngời phải chấp hành nhiều bản án có hiệu lực
pháp luật nhng các bản án này cha đợc tổng hợp theo quy định của khoản 1 và
khoản 2 Điều 42. Nếu Toà án không tổng hợp các hình phạt của các bản án này
thành hình phạt chung thi có thể dẫn đến tình trạng bỏ sót bản án không đem ra thi
hành. Đây cũng là lý do trong lần sửa đổi thứ hai BLHS năm 1985 (có hiệu lực
ngày 16/8/1991) các nhà làm luật đã bổ sung khoản 3 Điều 42 để tổng hợp hình
phạt trong trờng hợp này.
Đối với vấn đề tổng hợp hình phạt trong trờng hợp ngời cha thành niên
phạm nhiều tội. Trong BLHS năm 1985, ngời cha thành niên đợc hiểu là ngời từ
đủ 14 tuổi đến dới 18 tuổi. Việc quyết định hình phạt đối với ngời cha thành niên
phạm tội đợc quy định tại chơng IV. Vấn đề tổng hợp hình phạt đợc quy định tại
Điều 65 BLHS. Theo Điều 65 thì trong trờng hợp ngời cha thành niên phạm nhiều
tội có tội thực hiện trớc khi đủ 18 tuổi có tội thực hiện sau khi đủ 18 tuổi thì việc

tổng hợp hình phạt đợc áp dụng nh sau:
Nếu tội nặng nhất đợc thực hiện khi ngời đó cha đủ 18 tuổi thì hình phạt
chung không đợc vựơt mức hình phạt cao nhất quy định ở Điều 64.
Nếu tội nặng nhất đợc thực hiện khi ngời đó đã đủ 18 tuổi thì hình phạt
chung đợc áp dụng nh đối với ngời đã thành niên phạm tội.
So sánh với giai đoạn trớc, quy định về tổng hợp hình phạt đối với ngời cha
thành niên phạm tội đã rõ ràng, chi tiết hơn nhng cũng cha thật hoàn thiện.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Vấn đề tổng hợp hình phạt trong trờng hợp có liên quan đến án treo. Vấn
đề này đợc quy định tại Điều 44 khoản 5 BLHS năm 1985. Theo Điều 44 khoản 5
nếu trong thời gian thử thách ng ời bị án treo lại phạm tội mới và bị phạt tù thì
Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trớc và tổng hợp
với hình phạt của bản án mới theo quy định ở khoản 2 điều 42. Tuy nhiên,
trong thực tiễn xét xử, các Toà án đã hiểu và vận dụng không thống nhất quy định
này, nhiều khi tổng hợp cha đúng với quy định của pháp luật. Từ thực tế trên,
TANDTC đã ra Thông t số 01/NCPL ngày 6/4/1988 hớng dẫn bổ sung về án treo.
Thông t này đã hớng dẫn cụ thể việc áp dụng nguyên tắc nào để quyết định hình
phạt chung và cách trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giam.
Tóm lại trong BLHS Việt Nam năm 1985 chế định tổng hợp hình phạt đã đ-
ợc quy định chi tiết hơn giai đoạn trớc khi có Bộ luật nhng các quy định đó cũng
cha đợc hoàn thiện về kỹ thuật lập pháp. Mặt khác, có một số quy định đã đợc sửa
đổi nhng không kế thừa đợc những quy định hợp lý của giai đoạn trớc do vậy đã
dẫn đến nhiều vớng mắc trong quá trình áp dụng. Đây cũng là một nguyên nhân
đòi hỏi sự bổ sung cần thiết trong BLHS mới BLHS năm 1999.
3.3. Giai đoạn áp dụng BLHS Việt Nam năm 1999
Bớc vào thập niên 90, hoàn cảnh kinh tế- xã hội nớc ta có nhiều thay đổi
lớn. Sự thay đổi đó khiến cho BLHS năm 1985 bộc lộ nhiều hạn chế cả về nội
dung và kỹ thuật lập pháp. Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 ra đời thay thế cho
BLHS 1985 là một tất yếu khách quan. Bộ luật hình sự năm 1999 đã có nhiều quy

định thể hiện sự thay đổi về chính sách hình sự của Nhà nớc ta và cũng thể hiện đ-
ợc sự tiến bộ về mặt kỹ thuật lập pháp. Chế định tổng hợp hình phạt cũng có
những thay đổi theo hớng trên. Cụ thể:
Đối với tổng hợp hình phạt trong trờng hợp phạm nhiều tội. Trờng hợp này
đợc quy định tại Điều 50 BLHS. Theo Điều 50 thì mức tối đa của hình phạt chung
đối với hình phạt tù và cải tạo không giam giữ đã đợc nâng lên. Đối với tù có thời
hạn, hình phạt chung tối đa không quá 30 năm; đối với cải tạo không giam giữ,
hình phạt chung tối đa không quá 3 năm. Đồng thời, Bộ luật này còn quy định rõ
cách thức tổng hợp hình phạt đối với từng trờng hợp cụ thể.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Đối với tổng hợp hình phạt trong trờng hợp có nhiều bản án. Điều 50
BLHS năm 1999 có nhiều sự thay đổi so với điều 42 BLHS 1985. Đó là mức hình
phạt tối đa của tù có thời hạn đợc nâng lên là 30 năm, mức tối đa của cải tạo
không giam giữ đợc nâng lên là 3 năm.
Đối với, tổng hợp hình phạt trong trờng hợp ngời cha thành niên phạm
nhiều tội. Trờng hợp này cũng có nhiều sửa đổi do việc quyết định hình phạt đối
với ngời cha thành niên có nhiều thay đổi cơ bản. Cụ thể, theo Bộ luật này, mức
giảm hình phạt áp dụng cho ngời cha thành niên phạm tội nhiều hơn hẳn so với
mức giảm hình phạt quy định tại BLHS năm 1985. Đây là một sự thay đổi chính
sách hình sự phù hợp với loại chủ thể tội phạm đặc biệt này.
Đối với tổng hợp hình phạt trong trờng hợp ngời phạm tội đợc hởng án treo,
tại khoản 5 Điều 60 BLHS năm 1999 đã bổ sung trờng hợp còn thiếu tại khoản 5
Điều 44 BLHS năm 1985.
Tóm lại, chế định tổng hợp hình phạt trong BLHS Việt Nam năm 1999 đã
đợc quy định cụ thể hơn các giai đoạn trứơc đó, góp phần nâng cao hiệu quả công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, những quy định đó cũng cha thật
hoàn thiện nên thực tiễn áp dụng còn gặp phải những vớng mắc đòi hỏi có sự sửa
đổi bổ sung cho phù hợp hơn.
Website: Email : Tel : 0918.775.368


Chơng ii
Tổng hợp hình phạt trong một số trờng hợp cụ thể
1. Tổng hợp hình phạt trong trờng hợp phạm nhiều tội
1.1. Khái niệm
Tổng hợp hình phạt trong trờng hợp phạm nhiều tội là trờng hợp khi xét xử,
Toà án kết án bị cáo phạm từ hai tội trở lên và khi quyết định hình phạt Toà án
phải quyết định hình phạt đối với từng tội, sau đó mới quyết định hình phạt chung
đối với các tội đó và buộc bị cáo phải chấp hành.
Việc tổng hợp hình phạt trong trờng hợp phạm nhiều tội chỉ đợc thực hiện
khi có đầy đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, bị cáo bị xét xử một lần, về hai tội phạm trở lên. Các tội này có
thể đợc thực hiện cùng một lúc nhng cũng có thể đợc thực hiện ở từng thời điểm
khác nhau.
Thứ hai, các tội phạm đó và hình phạt đợc quy định ở các điều luật khác
nhau của phần các tội phạm; nhng cũng có thể có trờng hợp các tội phạm này đợc
quy định ở các khung khác nhau của cùng một điều luật.
Thứ ba, trong số các tội phạm đợc đem ra xét xử không có tội phạm nào đ-
ợc xét xử trớc đó (nếu có tội đã đợc xét xử trớc đó thì phải áp dụng Điều 51 BLHS
để tổng hợp)
Thứ t, các tội phạm đang còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và cha
đợc đại xá.
Trong trờng hợp này Toà án không chỉ quyết định hình phạt đối với một tội
mà phải quyết định hình phạt đối với nhiều tội mà bị cáo đã phạm. Trớc khi quyết
định hình phạt chung cho bị cáo, Toà án phải tuyên hình phạt riêng cho từng tội.
Nh vậy, khi quyết định hình phạt đối với từng tội, Toà án vẫn phải tuân thủ các
quy định về quyết định hình phạt, đồng thời, khi tổng hợp thành hình phạt chung
thì phải áp dụng các quy định riêng đối với trờng hợp phạm nhiều tội.
Để tổng hợp hình phạt đúng trong trờng hợp phạm nhiều tội thì việc hiểu rõ
khái niệm phạm nhiều tội là một điều không thể bỏ qua. Trong lịch sử lập pháp

hình sự Việt Nam, khái niệm này cha từng đợc quy định trực tiếp trong một BLHS.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Tuy cha đợc quy định trong BLHS nớc ta nhng khái niệm phạm nhiều tội
đã đợc đề cập đến khá nhiều trong khoa học luật hình sự. Khoa học luật hình sự từ
trớc tới nay đều thừa nhận có hai trờng hợp phạm nhiều tội.
Trờng hợp thứ nhất, trờng hợp ngời phạm tội có nhiều hành vi khác nhau,
mỗi hành vi cấu thành một tội. Ví dụ: bị cáo phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài
sản của ngời khác, sau đó lại phạm tội hiếp dâm.
Trờng hợp thứ hai, trờng hợp một hành vi phạm tội thoả mãn đồng thời
nhiều cấu thành tội phạm cụ thể khác nhau. Ví dụ: một ngời dùng súng bắn chết
ngời khác là phạm hai tội: tội giết ngời và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng.
Một hành vi phạm tội thoả mãn đồng thời nhiều cấu thành tội phạm gồm có các tr-
ờng hợp sau:
Một hành vi phạm tội đồng thời thoả mãn dấu hiệu của hai cấu thành tội
phạm cụ thể khác nhau
Một hành vi phạm tội vừa thoả mãn một cấu thành tội phạm cụ thể vừa thoả
mãn cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm của một tội cụ thể khác.
Một hành vi phạm tội đồng thời thoả mãn hai cấu thành tội phạm của hành
vi đồng phạm của hai tội khác nhau.
Cần phân biệt trờng hợp phạm nhiều tội với tội kéo dài, tội liên tục và phạm
tội nhiều lần. Tội kéo dài là trờng hợp về bản chất hành vi phạm tội kéo dài từ lúc
bắt đầu đợc thực hiện và chỉ kết thúc khi tội phạm bị phát hiện bắt giữ hoặc ngời
phạm tội chủ động kết thúc việc phạm tội đó. Tội liên tục là trờng hợp ngời phạm
tội thực hiện liên tục nhiều hành động phạm tội cùng tính chất đối với cùng một
đối tợng và vì vậy, chỉ cấu thành một tội phạm. Phạm tội nhiều lần là trờng hợp
ngời phạm tội thực hiện nhiều hành vi phạm tội cùng tính chất và cùng xâm phạm
một khách thể và các hành vi có sự cách nhau một khoảng thời gian nhất định.
Việc phân biệt trờng hợp phạm nhiều tội với các trờng hợp trên có ý nghĩa quan
trọng trong việc định tội danh, quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt. Vì nếu

đó không phải là trờng hợp phạm nhiều tội thì sẽ dẫn đến định tội danh sai, định
tội danh sai dẫn đến quyết định hình phạt sai, quyết định hình phạt sai dẫn đến
tổng hợp hình phạt sai. Do vậy, khi xét xử, Toà án cần hết sức chú ý vấn đề này.
1.2. Nguyên tắc và cách thức tổng hợp hình phạt
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Nguyên tắc và cách thức tổng hợp hình phạt là một vấn đề hết sức quan
trọng và không thể bỏ qua khi bàn về tổng hợp hình phạt trong trờng hợp phạm
nhiều tội.
Về cách thức tổng hợp, trong trờng hợp phạm nhiều tội, trớc khi tổng hợp
và quyết định hình phạt chung cho các tội thì Tòa án phải quyết định hình phạt
cho từng tội. Việc tuyên hình phạt cho từng tội sau đó mới tổng hợp thành hình
phạt chung có các ý nghĩa sau:
Thứ nhất, chính việc tuyên hình phạt cho từng tội đảm bảo cho hình phạt đ-
ợc tuyên tơng xứng với từng tội bị cáo đã thực hiện nh vậy hình phạt chung sau khi
đợc tổng hợp từ các tội sẽ là hình phạt xứng đáng mà bị cáo phải chấp hành. Khi
đó bị cáo sẽ tâm phục, khẩu phục để chấp hành hình phạt và nh vậy mục đích
của hình phạt mới có thể đạt đựơc.
Thứ hai, chỉ khi quyết định hình phạt cho từng tội đúng thì Toà án mới có
thể tổng hợp đúng. Nh vậy, việc quyết định hình phạt cho từng tội là bớc tạo tiền
đề cho Toà án trớc khi tiến hành tổng hợp hình phạt cho các tội.
Thứ ba, việc quyết định hình phạt cho từng tội tạo cơ sở pháp lý cho Toà án
cấp trên phát hiện những sai sót trong quá trình xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm các bản án của Toà án cấp dới đồng thời nó cũng là cơ sở để xem xét việc
áp dụng các chế định khác nh chế định tái phạm, tái phạm nguy hiểm...
Sau khi tuyên hình phạt riêng cho từng tội, Toà án sẽ quyết định và tuyên
hình phạt chung. Hình phạt chung không đợc vợt quá giới hạn luật quy định đối
với từng loại hình phạt. Hình phạt chung là sự đánh giá toàn diện và đầy đủ nhất
đối với tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà bị cáo đã thực hiện do đó mức
phạt phải tơng xứng với toàn bộ các tội mà bị cáo đã phạm. Nếu hình phạt chung

đợc tổng hợp không đúng sẽ làm mất ý nghĩa của việc quyết định hình phạt đối với
từng tội và do vậy sẽ không đạt đợc mục đích của hình phạt.
Việc tổng hợp hình phạt phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định. Đó
là nguyên tắc thu hút, nguyên tắc cộng hình phạt và nguyên tắc cùng tồn tại.
Về nguyên tắc cộng hình phạt, nguyên tắc cộng hình phạt có hai trờng hợp:
nguyên tắc cộng toàn bộ và nguyên tắc cộng một phần. Nguyên tắc cộng toàn bộ
là nguyên tắc cho phép cộng toàn bộ các hình phạt thành hình phạt chung. Nguyên
Website: Email : Tel : 0918.775.368

tắc này đợc áp dụng khi có thể và cần thiết phải cộng toàn bộ các hình phạt với
nhau (hình phạt chung sau khi đã cộng không vợt giới hạn mà luật cho phép đối
với loại hình phạt đó). Nguyên tắc cộng một phần là nguyên tắc cho phép cộng
hình phạt cao nhất với một phần hình phạt còn lại thành hình phạt chung. Nguyên
tắc này đợc áp dụng khi, không thể cộng toàn bộ đợc vì mới cộng một phần với
hình phạt nặng nhất đã đạt mức tối đa cho phép của loại hình phạt này. Ví dụ: H bị
Toà án tuyên phạt 20 năm tù về tội cớp tài sản theo khoản 3 Điều 133 BLHS, 15
năm tù về tội cớp giật tài sản theo khoản 4 Điều 136. Trong trờng hợp này, hình
phạt chung mà bị cáo H phải chấp hành là 30 năm tù. Tổng cộng hình phạt đúng ra
H phải chịu mức tù là 35 năm nhng vì hình phạt chung không đợc quá 30 năm nên
Toà án chỉ có thể cộng 20 năm tù của tội cớp tài sản với 10 năm tù của tội cớp giật
tài sản thì đã đạt mức tối đa cho phép là 30 năm.
Về nguyên tắc thu hút, theo nguyên tắc thu hút, hình phạt chung là hình
phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên. Nguyên tắc này đợc áp dụng
trong trờng hợp không thể cộng hết các hình phạt lại với nhau do có một trong các
hình phạt đã tuyên là hình phạt nặng nhất trong hệ thống hình phạt hay do các
hình phạt không thể cùng chấp hành. Ví dụ: Bị cáo N phạm tội hiếp dâm và tội
giết ngời. Toà án tuyên tử hình đối với tội giết ngời và 10 năm tù với tội hiếp dâm.
Hình phạt chung trong trờng hợp này là tử hình. Ví dụ khác: Bị cáo H phạm tội cố
ý gây thơng tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ của ngời khác và tội huỷ hoại hoặc cố
ý làm h hỏng tài sản. Toà án tuyên hình phạt tù chung thân đối với tội cố ý gây

thơng tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ của ngời khác và 5 năm tù với tội huỷ
hoại hoặc cố ý làm h hỏng tài sản. Trong trờng hợp này, hình phạt chung là tù
chung thân.
Về nguyên tắc cùng tồn tại, nguyên tắc cùng tồn tại đợc áp dụng khi không
áp dụng đợc hai nguyên tắc trên. Tổng hợp hình phạt theo nguyên tắc này sẽ
không có hình phạt chung cho tất cả các tội mà chỉ có việc phải chấp hành đồng
thời các hình phạt. Ví dụ: Bị cáo A phạm tội buôn lậu và tội chống ngời thi hành
công vụ. Toà án tuyên phạt 50 triệu đồng về tội buôn lậu và phạt 3 năm tù về
tội chống ngời thi hành công vụ. Trờng hợp này bị cáo phải chấp hành đồng
thời cả hai hình phạt trên.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định cụ thể các trờng hợp áp dụng áp
dụng các nguyên tắc tổng hợp hình phạt trên. Cụ thể:
Nguyên tắc thu hút hình phạt đợc áp dụng khi hình phạt nặng nhất trong số
các hình phạt đã tuyên là tử hình hoặc tù chung thân. Nh vậy, nếu hình phạt nặng
nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình. Nếu
hình phạt nặng nhất trong các hình phạt đã tuyên là chung thân thì hình phạt
chung là chung thân.
Nguyên tắc cộng hình phạt đợc áp dụng khi có thể cộng đợc các hình phạt
của các tội miễn là hình phạt chung nằm trong giới hạn luật cho phép. Mặt khác,
nguyên tắc này chỉ đợc áp dụng khi các hình phạt đó cùng loại hoặc có thể quy về
cùng loại.
Nguyên tắc cùng tồn tại chỉ đợc áp dụng khi không áp dụng đợc hai nguyên
tắc trên. Cụ thể là nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại và không thể áp dụng đ-
ợc nguyên tắc thu hút hình phạt thì bị cáo phải chấp hành tất cả các hình phạt này.
Luật hình sự Việt Nam coi nguyên tắc cộng toàn bộ là nguyên tắc u tiên bắt
buộc. Chỉ khi không áp dụng đợc nguyên tắc này mới áp dụng các nguyên tắc còn
lại. Điều này thể hiện rõ trong các quy định cụ thể của BLHS năm 1999. [5, Tr.
280]

Trên cơ sở các nguyên tắc trên, Điều 50 BLHS năm 1999 quy định cách
tổng hợp hình phạt trong trờng hợp phạm nhiều tội nh sau:
Đối với hình phạt chính, nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam
giữ thì Toà án sẽ cộng các hình phạt đó thành hình phạt chung. Hình phạt chung
không đợc vợt qua 3 năm cải tạo không giam giữ.
Nếu các hình phạt đã tuyên là tù có thời hạn thì Toà án sẽ cộng các hình
phạt đó thành hình phạt chung. Hình phạt chung không đợc vợt quá 30 năm tù. Ví
dụ: Ngày 27/3/2006 tại phiên toà xét xử vụ án cố ý làm trái , đ a hối lộ , trốn
thuế xảy ra tại công ty Sinhanco, Hội đồng xét xử của Toà án nhân dân tỉnh Bà
Rịa Vũng Tàu đã tuyên phạt Huỳnh Liên Thuận (nguyên giám đốc công ty) 20
năm tù về tội đa hối lộ, 12 năm tù về tội cố ý làm trái, 4 năm tù về tội trốn thuế
và 3 năm tù về tội sử dụng trái phép tài sản. Tổng cộng cho các tội bị cáo Thuận

×