Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Biểu tượng về quyền lực trong thần thoại người việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 103 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-----------------------

VƯƠNG THỊ HỒNG

BIỂU TƯỢNG VỀ QUYỀN LỰC
TRONG THẦN THOẠI NGƯỜI VIỆT
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Thị Thanh Quý

THÁI NGUYÊN - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và nội dung này chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đó.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn

Vương Thị Hồng

i



LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Ngô Thị Thanh Quý người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn
thành luận văn này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cán bộ, giảng viên khoa Ngữ
văn, khoa Sau Đại học trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã chỉ
bảo tận tình và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian học tập và
nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn những ý kiến nhận xét, đánh giá, góp ý quý
báu của Hội đồng khoa học đánh giá luận văn giúp em hoàn thiện hơn luận
văn này.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn

Vương Thị Hồng

ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ...............................................................................................................iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 8
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 9
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 9
7. Đóng góp của đề tài ....................................................................................... 10

8. Cấu trúc đề tài ................................................................................................ 11
NỘI DUNG ....................................................................................................... 12
Chương 1: LÝ THUYẾT VỀ BIỂU TƯỢNG QUYỀN LỰC VÀ THỂ
LOẠI THẦN THOẠI ...................................................................................... 12
1.1. Lý thuyết về biểu tượng quyền lực ............................................................. 12
1.1.1. Khái niệm biểu tượng .............................................................................. 12
1.1.2. Một số đặc điểm của biểu tượng ............................................................. 17
1.1.3. Phân loại biểu tượng ................................................................................ 18
1.1.4. Thần thoại người Việt - biểu tượng quyền lực tự nhiên .......................... 19
1.2. Thần thoại Việt Nam .................................................................................. 21
1.2.1. Khái niệm thần thoại................................................................................ 21
1.2.2. Các nhóm thần thoại tiêu biểu ................................................................. 23
1.2.3. Phân biệt thần thoại với một số thể loại khác.......................................... 24
1.3. Khảo sát biểu tượng về quyền lực trong thần thoại người Việt ................. 28

iii


1.3.1. Nhận diện các biểu tượng về quyền lực tiêu biểu trong thần thoại
người Việt .......................................................................................................... 28
1.3.2. Bảng thống kê .......................................................................................... 29
1.3.3. Nhận xét ................................................................................................... 30
Chương 2: NHỮNG BIỂU TƯỢNG QUYỀN LỰC TIÊU BIỂU
TRONG THẦN THOẠI NGƯỜI VIỆT ........................................................ 33
2.1. Biểu tượng lửa ............................................................................................ 35
2.1.1.Biểu tượng lửa trong văn hóa nhân loại ................................................... 35
2.1.2. Biểu tượng lửa trong thần thoại người Việt ............................................ 37
2.2.Biểu tượng “thần khổng lồ” tự nhiên .......................................................... 44
2.2.1. Biểu tượng “thần khổng lồ” tự nhiên trong văn hóa nhân loại ............... 44
2.2.2. Biểu tượng “thần khổng lồ” tự nhiên trong thần thoại người Việt.......... 45

2.3. Biểu tượng nước ......................................................................................... 48
2.3.1. Biểu tượng nước trong văn hóa nhân loại ............................................... 48
2.3.2. Biểu tượng nước trong thần thoại người Việt ......................................... 50
2.4. Biểu tượng đất ............................................................................................ 55
2.4.1. Biểu tượng đất trong văn hóa nhân loại .................................................. 55
2.4.2. Biểu tượng đất trong thần thoại người Việt............................................. 56
Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG VỀ QUYỀN
LỰC TRONG THẦN THOẠI NGƯỜI VIỆT .............................................. 61
3.1. Tính hệ thống của các biểu tượng .............................................................. 61
3.2. Kết cấu, cốt truyện ...................................................................................... 63
3.2.1. Kết cấu ..................................................................................................... 63
3.2.2. Cốt truyện ................................................................................................ 64
3.3. Hình tượng nhân vật ................................................................................... 65
3.3.1. Thần và cơ sở hình thành hình tượng nhân vật thần quyền lực trong
thần thoại người Việt ......................................................................................... 66

iv


3.3.2. Đặc điểm của hình tượng nhân vật thần quyền lực ................................. 72
3.4. Ngôn ngữ nghệ thuật .................................................................................. 85
3.4.1. So sánh ..................................................................................................... 86
3.4.2. Phóng đại ................................................................................................. 88
KẾT LUẬN....................................................................................................... 91
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN .. 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 94

v



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học dân gian với tư cách là nghệ thuật ngôn từ, là một trong hai bộ
phận của văn học dân tộc. Tuy nhiên không chỉ có thế, văn học dân gian còn là
một phần không thể thiếu của văn hóa dân gian, nó vừa có tính độc lập tương
đối vừa có nhiều mối quan hệ phong phú, đa dạng và tinh tế với các bộ phận
khác của văn hóa dân gian. Trong những mối quan hệ đó, văn học dân gian có
cơ hội để bộc lộ sinh động nhất vai trò của mình.
Thần thoại là một thể loại xuất hiện sớm nhất trong lịch sử hình thành và
phát triển của văn học dân gian, thần thoại được đánh giá là “Vẻ đẹp một đi
không trở lại” của loài người khi xã hội nguyên thủy đã kết thúc. Ra đời trong
giai đoạn đầu của sự phát triển xã hội, thần thoại có vai trò tích cực đối với con
người. Thần thoại là phương tiện nhận thức quan trọng của người nguyên thủy,
đồng thời cũng là một trong những nguồn gốc đầu tiên hình thành nên bao giá
trị tinh thần, bao nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc. Đối với người đời
sau, thần thoại không chỉ có giá trị như những tư liệu quý để tìm hiểu về lịch
sử, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, các biểu tượng,…mà còn có giá
trị tinh thần to lớn hướng dẫn chúng ta bằng những hình tượng nghệ thuật độc
đáo, những suy nghĩ chất phác, ngây thơ. Đến với thần thoại chúng ta sẽ được
sống lại không khí buổi bình minh của lịch sử dân tộc, tìm lại thuở nguyên vẹn,
sơ khai của con người trong những bước đi chập chững đầu tiên.
Thần thoại chính là văn hóa nguyên sơ của nhân loại. Văn hóa đã trở
thành một lĩnh vực hết sức rộng lớn, nó bao la như chính cuộc sống của loài
người. Đó là vấn đề thuộc về nhận thức của con người trong toàn bộ cách nhìn,
cách ứng xử của con người với tự nhiên và cộng đồng xã hội. Ngày nay, kí hiệu
học được coi là hướng nghiên cứu chủ yếu của văn hóa học đương đại. Nó có
nhiệm vụ tìm hiểu, cắt nghĩa các biểu tượng (symbol), vì xét đến cùng thế giới
văn hóa là thế giới của biểu tượng. Biểu tượng luôn là những hình ảnh (kí hiệu)
được ký gửi vào đó những hàm nghĩa kín đáo của một cộng đồng.


1


Việc giải mã văn hóa thực chất chính là việc giải mã các biểu tượng văn
hóa. Ta có thể nhận thấy các biểu tượng đó ở nhiều lĩnh vực, trong đó văn học
dân gian là một lĩnh vực quan trọng, bởi nó là sự thể hiện quan niệm, tư tưởng,
thái độ, tình cảm một cộng đồng thông qua hệ thống hình tượng nghệ thuật các
biểu tượng văn hóa, vì vậy nghiên cứu văn học dân gian từ các mã văn hóa dân
gian, tìm các mã văn hóa ẩn tàng và biến hóa trong hình tượng văn học dân
gian, đặc biệt trong thể loại thần thoại với những vị thần quyền lực là những
khám phá hết sức lí thú và bổ ích. Đây chính là cơ sở để chúng tôi thực hiện đề
tài Biểu tượng về quyền lực trong thần thoại người Việt.
Con người luôn sống trong thế giới biểu tượng. Từ góc nhìn này, chúng
tôi muốn làm nổi bật hệ thống các biểu tượng trong kho tàng thần thoại người
Việt. Nó là chìa khóa giải mã đời sống văn hóa, tinh thần của cộng đồng các
dân tộc nói chung và người Việt nói riêng. Đó cũng là hành trình trở về với giá
trị văn hóa truyền thống, khi mà những vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc được đặt
ra bức thiết.
Không chỉ vậy, thần thoại cũng là một trong những thể loại được đưa vào
giảng dạy trong chương trình phổ thông. Do vậy, việc nghiên cứu trên sẽ giúp
người giáo viên có những cách tiếp cận và nét nhìn mới về thể loại này.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian từ lí thuyết biểu tượng
Trên thế giới, nghiên cứu biểu tượng là một công việc đã được các nhà
khoa học đề cập đến từ rất lâu thông qua các chuyên ngành khoa học đã ra đời
từ trước Công nguyên như toán học, triết học, sử học, xã hội học,…Mặc dù các
chuyên ngành khoa học trên ít nhiều đã đề cập đến biểu tượng như một đối
tượng để nghiên cứu nhưng chưa có công trình nào thực sự được coi là một
chuyên ngành khoa học độc lập nghiên cứu các biểu tượng. Vào đầu thế kỉ XX,
ký hiệu học (semiotics/semiology) ra đời, được coi là chuyên ngành khoa học

đầu tiên nghiên cứu ý nghĩa các ký hiệu, tín hiệu, biểu tượng, hiện tượng văn

2


hóa,…Từ đó, giải nghĩa các thành tố văn hóa do con người sáng tạo ra trong
quá trình phát triển văn hóa như ngôn ngữ, biểu tượng,…Với chuyên ngành
khoa học này đã xuất hiện các nhà ký hiệu học hiện đại như Claude LéviStrauss, Jacques Lacan, Michel Foucault, Jacques Derrida, Roland Barthes,
Julia Kristeva...
Nghiên cứu biểu tượng có thể coi là một trong những cách tiếp cận cụ
thể nhất đối với văn hóa vì biểu tượng chính là sự kết tinh các giá trị văn hóa do
con người sáng tạo nên. Có thể nói, việc nghiên cứu biểu tượng văn hóa ở Việt
Nam được tiến hành khá sớm. Song chỉ từ thập kỉ thế giới phát triển văn hóa
(1988 - 1997) trở lại đây việc nghiên cứu văn học, đặc biệt là văn học dân gian
dựa trên lý thuyết về biểu tượng và các phương pháp tiếp cận nghiên cứu biểu
tượng mới phát triển hơn trước cả về số lượng và chất lượng. Nhiều nhà nghiên
cứu đã dùng lí thuyết về biểu tượng văn hóa để đối chiếu văn học và khám phá
ra những công trình văn hóa trong văn học điển hình như Nguyễn Xuân Kính
với Thi pháp ca dao (1993), tác giả tiếp cận biểu tượng từ văn học dân gian
thông qua thi pháp học và các đặc trưng của thể loại ca dao. Ông được đánh giá
là một trong những người tiên phong trong nghiên cứu biểu tượng của văn học
dân gian Việt Nam. Hay tác giả Trần Thị An với bài viết “Những biểu tượng
không gian thiêng trong truyền thuyết dân gian người Việt” (1999) in trong
Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học của Viện Văn học có thể được xem là
một trong số công trình đầu tiên soi chiếu biểu tượng văn học đặt từ nền tảng
văn hóa.
Nguyễn Văn Hậu, trong bài viết Đi tìm bản sắc văn hóa dân tộc qua thế
giới biểu tượng (2009) đã đưa ra nhận định: Bản sắc văn hóa dân tộc là sự biểu
hiện về bản lĩnh sáng tạo của mỗi dân tộc. Nó được kết tinh thành những biểu
tượng văn hóa và thông qua các hệ thống biểu tượng, ta có thể hiểu được tính

cách của dân tộc đó. Bài viết tuy không giải mã ý nghĩa các biểu tượng nhưng
đã giới thiệu biểu tượng từ góc độ lý thuyết, khẳng định vai trò của biểu tượng
trong quá trình nhận diện bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc.

3


Năm 2011, tác giả Trần Lê Bảo với cuốn Giải mã văn học từ mã văn hóa
đã phần nào quan tâm và coi trọng những nghiên cứu, giải thích mối quan hệ
gắn bó giữa văn học và văn hóa trong thời đại ngày nay. Chính vì vậy mà việc
tìm hiểu và giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học không chỉ cần thiết cho
việc nghiên cứu văn học trong nước mà cũng sẽ vô cùng cần thiết đối với việc
nghiên cứu văn học nước ngoài.
Trong bài nghiên cứu đăng năm 2006, Nguyễn Thị Bích Hà đã sử dụng
lý thuyết mã văn hóa để nghiên cứu văn học dân gian. Trong bài viết Mã và mã
văn hóa đăng trên tạp chí Văn hóa dân gian. Trên cơ sở đó, năm 2013, Nguyễn
Thị Bích Hà đã xuất bản cuốn Nghiên cứu văn học dân gian từ mã văn hóa
(2013, NXB Văn hóa thông tin). Có thể coi đây là công trình đầu tiên chuyên
sâu nghiên cứu văn học dân gian theo khuynh hướng biểu tượng luận. Công
trình này đã trình bày một cách rõ ràng các phương pháp nghiên cứu văn học
dân gian qua các mã văn hoá dân gian; quan niệm về văn hoá, mã văn hoá; mối
quan hệ giữa văn hoá, văn hoá dân gian và văn học dân gian; cùng với đó là các
khái niệm: tín ngưỡng, mã tín ngưỡng, phong tục tập quán, mã phong tục tập
quán...; và những thao tác nghiên cứu văn học dân gian dựa vào mã văn hoá
dân gian.
Từ 2007 đến 2014, Đinh Hồng Hải là tác giả đã có nhiều công trình
nghiên cứu và dịch thuật giới thiệu phương pháp tiếp cận nghiên cứu biểu
tượng (cấu trúc luận, ký hiệu học, nhân học): Nghiên cứu biểu tượng và vấn đề
tiếp cận nhân học biểu tượng ở Việt Nam (2007), Nghiên cứu văn hóa từ góc
nhìn nhân học biểu tượng (2010), Cấu trúc luận trong nghiên cứu biểu tượng:

từ ký hiệu học đến nhân học biểu tượng (2012), Khoa học về các ký hiệu
(Terence Hawkes, 2012), Khám phá những biểu tượng trong văn học
(Raymond Firth, 2012),… Năm 2014, Đinh Hồng Hải đã tập hợp tất cả các bài
viết trên trong Nghiên cứu biểu tượng - Một số hướng tiếp cận lý thuyết. Có thể
xem đây là công trình đầu tiên giới thiệu một cách hệ thống lý thuyết về biểu

4


tượng ở Việt Nam. Trong đó, Đinh Hồng Hải cho rằng: “các nghiên cứu khoa
học xã hội ở Việt Nam trên bình diện văn bản học (như văn học, sử học, triết
học, ngôn ngữ học,...) đã đạt được khá nhiều thành tựu, trong khi nghiên cứu
biểu tượng (trên nền tảng ký hiệu học, nhân học, nghệ thuật học,...) dường như
vẫn đang là một mảnh đất còn bỏ trống với số lượng các công trình nghiên cứu
chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Thậm chí trong số những nghiên cứu ít ỏi đó,
chưa một công trình nào thực sự “đặt nền móng” cho một bộ môn khoa học có
tên gọi nghiên cứu biểu tượng”. Bởi vậy, trong công trình này tác giả đề cao
phương pháp cấu trúc luận và cho rằng việc nghiên cứu biểu tượng phải là sự
kết hợp đa ngành.
Đến năm 2015, cuốn Các vị thần của Đinh Hồng Hải (NXB Thế giới) là
tập 2 trong hệ thống bộ sách Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền
thống Việt Nam (tập 1, Các bộ trang trí điển hình, NXB Tri thức, 2012) được
xuất bản. Trong công trình này, Đinh Hồng Hải đã lựa chọn tiếp cận 6 vị thần
(gồm: Thần Đất, Thần Bếp, Thần Tài, Thánh Gióng, Di Lặc, Ông Trời) trên cơ
sở bối cảnh văn hóa Việt Nam xưa - nay, đặt trong sự đối sánh với văn hóa
Trung Hoa và Ấn Độ.
Những cứ liệu trên đã minh chứng cho việc nghiên cứu văn học từ lí thuyết
biểu tượng sẽ mang lại cho chúng ta điểm nhìn về những không gian, thời gian
đa chiều. Các công trình nghiên cứu văn học dân gian từ lí thuyết biểu tượng đã
phát triển hơn trước cả về chất lượng và số lượng, những nghiên cứu ấy đã gợi

ý cho chúng tôi đi sâu tìm hiểu vấn đề này.
Từ xưa đến nay, khi nhắc tới vấn đề quyền lực người ta sẽ nghĩ ngay đến
các kiểu quyền lực xã hội có cấu trúc phức tạp, được tạo thành từ nhiều loại
quyền lực khác nhau như quyền lực đạo đức, quyền lực tôn giáo, quyền lực
dòng họ, quyền lực kinh tế, đáng chú ý hơn cả là quyền lực công cộng (xã hội)
và quyền lực chính trị, quyền lực Nhà nước. Vì thế hướng tiếp cận của các nhà
nghiên cứu cũng chủ yếu theo khía cạnh đó. Chúng ta cũng đã có nhiều công

5


trình, đề tài khoa học nghiên cứu về Nhà nước, nền hành chính nhà nước,
quyền lực chính trị - xã hội như: Kiểm soát quyền lực tư pháp trong Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nguyễn Quốc Hùng; Nguyên tắc
chủ chốt của quyền lực của Nguyễn Minh Hoàng; Tổ chức thực hiện quyền
lực nhân dân và mối qua hệ giữa Nhà nước và công dân, do TS. Đinh Văn
Mậu chủ nhiệm đề tài; Cơ cấu quyền lực và phương thức thực hiện quyền lực
trong hệ thống hành chính Việt Nam của Phạm Bính; Đặng Khắc Ánh; Bùi
Thanh Quất; Trần Ngọc Liêu,…Hiện nay, ở Việt Nam, nghiên cứu trong nước
cũng đã dành sự quan tâm tới lý thuyết quyền lực, đặc biệt là lý thuyết quyền
lực của M. Foucault - một triết gia nổi tiếng người Pháp. M. Foucault đã chỉ
ra mối quan hệ giữa quyền lực, tri thức và diễn ngôn: quyền lực thông qua
ngôn ngữ để tạo ra tri thức, sự biến đổi của quyền lực cũng kéo theo sự biến
đổi về nhận thức của cộng đồng với cùng một hiện tượng xã hội hay vấn đề
khái niệm quyền lực của các tác giả: M. Weber, R. Dahl,... Với cách tiếp cận
theo hướng trên, chúng tôi tìm hiểu, khám phá và phân tích những vẻ đẹp văn
hóa tiềm ẩn trong các vị thần quyền lực trong một số tác phẩm thần thoại
người Việt.
2.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu thần thoại
Từ góc độ văn học, đã có một số công trình nghiên cứu về thần thoại,

song chủ yếu các tác giả tập trung vào một số vấn đề như: nguồn gốc thần
thoại, nội dung phản ánh thần thoại, nghệ thuật thần thoại,…còn vấn đề soi
chiếu nó dưới góc nhìn văn hóa, đặc biệt tìm ra giá trị văn hóa thông qua các hệ
thống biểu tượng quyền lực thì ta chưa thấy đề cập đến, nếu có cũng chỉ tập
trung nói về văn học dân gian nói chung chứ chưa nói đến một thể loại cụ thể
nào. Chúng ta có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu sau:
Năm 1954, trong cuốn Đại cương về văn học sử Việt Nam lần đầu tiên
giáo sư Nguyễn Khánh Toàn đã nêu lên được những ý kiến sơ bộ và có hệ
thống về hoàn cảnh sinh thành và đặc điểm nội dung, nghệ thuật của thần thoại

6


Việt. Từ đó đến nay, hoạt động sưu tầm, nghiên cứu thần thoại việt Nam đã có
những tiến bộ đáng kể.
Năm 1956, Nguyễn Đổng Chi trong Lược khảo thần thoại Việt Nam
cũng đã viết về thần thoại. Có thể nói, Nguyễn Đổng Chi là một trong những
tác giả đầu tiên có công sưu tầm, khảo cứu về thần thoại Việt Nam, đây được
coi là tài liệu nghiên cứu chính thống đầu tiên về thần thoại, góp phần định
hướng cũng như mở ra các hướng nghiên cứu tiếp theo. Mặc dù chưa trực tiếp
nhắc tới yếu tố văn hóa, song bước đầu ông đã đi sâu thêm một bước vào việc
gắn thần thoại với hoàn cảnh lịch sử, địa lí, phong tục, tín ngưỡng và những
yếu tố khác trong đời sống tinh thần vật chất của người Việt cổ thời cổ đại.
Năm 1959, nhà nghiên cứu Hoàng Trọng Thư đã xuất bản cuốn Việt Nam
văn học toàn thư, trong đó ông dành quyển 1 để nói về văn chương truyền
khẩu. Trong phần viết này, ngoài việc công bố những tác phẩm sưu tầm thần
thoại các dân tộc thiểu số, tác giả đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề của thần
thoại như: nguồn gốc, tính chất, nghệ thuật và diễn tiến của thần thoại Việt
Nam, tương quan giữa thần thoại các dân tộc.
Năm 1990, các tác giả Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ

viết giáo trình Văn học dân gian Việt Nam. Họ có nhận xét rằng: Trong thần
thoại chứa đựng mầm mống của tôn giáo, triết học, luật pháp, sử học, văn học
nghệ thuật [34. 31].
Năm 1990, tác giả Hoàng Tiến Tựu với công trình Văn học dân gian Việt
Nam. Ông cho rằng: Thần thoại là sản phẩm tinh thần của con người nguyên
thủy, nội dung của nó mang tính chất hoang đường ảo tưởng, nhưng trong đó
cũng chứa đựng nhiều yếu tố có giá trị quan trọng về nhiều mặt [38. 21].
Năm 2000, tác giả Đinh Gia Khánh trong cuốn Văn học dân gian Việt
Nam cũng từng viết: Cùng với việc sùng bái trời đất, thiên nhiên và theo đó là
sự ra đời của thần thoại và nói về sự hình thành trời đất, cây cỏ - tục lệ thờ
cúng vật tổ là một trong những hình thái tín ngưỡng xuất hiện sớm nhất, thuộc

7


hệ thống sinh hoạt nghi lễ thần thoại nói riêng và thuộc sinh hoạt văn hóa tinh
thần nguyên thủy nói chung của các dân tộc.
Gần đây nhất, năm 2008, trong bài viết Thần thoại các dân tộc Việt Nam,
thể loại và bản chất đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học, tác giả Nguyễn Thị
Huế cũng chỉ rằng: Hình thức biểu hiện cơ bản của thần thoại các dân tộc là
những hoạt động mang tính tổng hợp, phong phú, phức hợp,...Nó bao gồm các
hình thức nghi lễ cổ sơ, các phong tục và các hình thức diễn xướng, nhảy múa,
ca hát,…
Như vậy ta thấy, cũng như tác giả đi trước các công trình nghiên cứu của
hai tác giả trên thì yếu tố biểu tượng vẫn chưa được nhắc tới một cách trực tiếp.
Điểm qua một số công trình nghiên cứu trên, có thể nói, các công trình
đều nghiên cứu trên đối tượng chung là thần thoại Việt Nam, nhưng chưa đề
cập đến biểu tượng văn hóa trong thần thoại Việt Nam một cách cụ thể và chi
tiết. Song tất cả các công trình nghiên cứu của người đi trước đều là tiền đề
khoa học quý báu, là những gợi ý hữu ích để chúng tôi thực hiện đề tài này.

3. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục đích:
Vận dụng lí thuyết về biểu tượng để nghiên cứu các mã văn hóa ẩn tàng
và biến hóa trong thể loại thần thoại, đặc biệt là các biểu tượng về quyền lực;
phát hiện ra, giải mã các giá trị văn hóa có trong một số tác phẩm thần thoại
người Việt. Từ đó, có thể hiểu sâu hơn về các vấn đề bản sắc văn hóa, biến đổi
văn hóa - xã hội qua các giai đoạn lịch sử.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu như đã nêu, chúng tôi thực hiện các
nhiệm vụ sau:
Vận dụng lí thuyết biểu tượng để đi sâu tìm hiểu thể loại thần thoại.
Khảo sát một số truyện thần thoại người Việt nhằm phát hiện ra những
biểu tượng về quyền lực tiêu biểu nhất. Từ đó, giải mã chúng để thấy được giá
trị văn hóa nổi bật như tín ngưỡng, phong tục tập quán,... cũng như mối quan

8


hệ giữa các vị thần quyền lực trong tương quan với những quyền năng riêng
của mình.
Tiếp cận, phân tích, đánh giá các dấu ấn biểu tượng quyền lực không chỉ
trong truyện thần thoại người Việt mà còn trong thần thoại các dân tộc anh em; vai
trò của nó trong việc thể hiện quan niệm về thế giới tự nhiên của con người lúc
bấy giờ. Cùng với đó thấy được giá trị nghệ thuật độc đáo của thể loại “vừa là
nghệ thuật vừa không phải là nghệ thuật” này.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề mà chúng tôi quan tâm là nghiên cứu
những biểu tượng về quyền lực tiêu biểu trong các tác phẩm thần thoại người Việt.
Phạm vi nghiên cứu: Trong đề tài này, chúng tôi chỉ dừng lại nghiên
cứu biểu tượng quyền lực trong lĩnh vực tự nhiên của thần thoại người Việt.

Phạm vi tư liệu là những tác phẩm thần thoại đã được sưu tầm, biên soạn
thành sách, chúng tôi sử dụng các cuốn tư liệu:
Lược khảo về thần thoại Việt Nam (Nguyễn Đổng Chi, Nxb Văn Sử Địa,
H, 1956).
Kho tàng thần thoại Việt Nam, (Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo,
Nguyễn Thị Huế, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1996).
Tuyển tập Văn học dân gian Việt Nam - tập 1 ( Nguyễn Thị Huế - Trần
Thị An biên soạn, Nxb Giáo dục, 2001).
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, phân loại
Đây là phương pháp đầu tiên khi đi vào khảo sát và tìm hiểu biểu tượng
về quyền lực trong thần thoại người Việt. Phương pháp này giúp chúng tôi
phân loại và lựa chọn chính xác đối tượng nghiên cứu; cho phép xác định
những chi tiết, hình ảnh xuất hiện với tần suất cao, giúp nhận ra những biểu
tượng về quyền lực nào là tiêu biểu thể hiện nét độc đáo của các tác phẩm thần
thoại người Việt. Trong quá trình triển khai và giải quyết vấn đề, phương pháp
này có tác dụng chỉ ra và cụ thể hóa các khía cạnh của vấn đề.

9


- Phương pháp phân tích
Phương pháp này giúp chúng tôi tìm hiểu, khám phá và phân tích sự
phản ánh văn hóa trong các vị thần quyền lực của một số tác phẩm thần thoại
người Việt. Đây là một phương pháp không thể thiếu để có thể hoàn thành
nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp so sánh
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành so sánh các truyện thần
thoại của dân tộc Kinh với một số dị bản của một vài dân tộc khác. Việc so
sánh này sẽ giúp vấn đề được hiểu cụ thể và toàn diện hơn. Ngoài ra, với

phương pháp này, chúng tôi sẽ tiến hành so sánh đối chiếu bản thân các biểu
tượng với các biểu tượng khác trong thể loại thần thoại nói chung.
- Phương pháp tổng hợp
Phương pháp này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để chúng tôi có một cái nhìn
khái quát về các vấn đề nghiên cứu. Đồng thời, nó giúp chúng tôi có thể tóm lại
nội dung chính của các phần, các chương.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phương pháp này giúp chúng tôi xác định được những cơ sở lí luận và
thực tiễn làm tiền đề trước khi tiến hành triển khai cụ thể vấn đề.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài, chúng tôi có liên hệ và kết
hợp sử dụng một cách đúng mực kiến thức của các ngành xã hội học, văn hóa
học,…nhằm giúp cho việc đánh giá và nhìn nhận vấn đề nghiên cứu được toàn
diện và sâu sắc hơn.
7. Đóng góp của đề tài
Bên cạnh việc tiếp thu thành quả của các công trình nghiên cứu đi trước,
chúng tôi mong muốn có những đóng góp mới với đề tài này nhằm góp phần
làm rõ biểu tượng về quyền lực trong thần thoại người Việt:
- Hệ thống hóa tri thức về thể loại thần thoại cũng như tri thức về biểu
tượng về quyền lực trong thần thoại người Việt.

10


- Hiểu rõ hơn những nét đặc sắc, giá trị văn hóa, ý nghĩa của một số biểu
tượng quyền lực tự nhiên trong các tác phẩm thần thoại của người Việt.
- Vận dụng kết quả nghiên cứu vào việc giảng dạy tác phẩm thần thoại
trong nhà trường phổ thông.
8. Cấu trúc đề tài
Mở đầu

Nội dung
Chương 1. Lý thuyết về biểu tượng quyền lực và thể loại thần thoại.
Chương 2. Những biểu tượng về quyền lực tiêu biểu trong thần thoại
người Việt.
Chương 3. Nghệ thuật xây dựng biểu tượng về quyền lực trong thần thoại
người Việt.
Kết luận
Tài liệu tham khảo

11


NỘI DUNG
Chương 1
LÝ THUYẾT VỀ BIỂU TƯỢNG QUYỀN LỰC
VÀ THỂ LOẠI THẦN THOẠI
1.1. Lý thuyết về biểu tượng quyền lực
1.1.1. Khái niệm biểu tượng
Văn hóa là một lĩnh vực hết sức rộng lớn, nó bao la như chính cuộc sống
của loài người. Đó là vấn đề thuộc về mặt nhận thức của con người trong toàn bộ
cách nhìn, cách ứng xử của cá nhân đối với tự nhiên và cộng đồng xã hội.
Có nhiều cách tiếp cận văn hóa ở nhiều góc độ khác nhau như: Triết học,
Sử học, Xã hội học, Tâm lí học, Kí hiệu học,… nhưng mỗi môn học nghiên cứu
văn hóa lại gồm nhiều trường phái, do đó có nhiều quan niệm khác nhau về văn
hóa. Song, nhìn chung những định nghĩa ở bình diện khác nhau của khái niệm
văn hóa đều bộc lộ một quan niệm chung thống nhất. Nhà văn hóa học Nga
L. lô - nhin trong lời kết thúc bản tóm tắt giới thiệu các định nghĩa văn hóa
khác nhau về văn hóa đã nhận định: …Các tác giả định nghĩa về văn hóa đã
đồng ý với nhau, rằng văn hóa di truyền không theo đường sinh học mà bằng
con đường học tập. Tiếp đó, họ thừa nhận văn hóa gắn liền với các ý tưởng,

chúng tồn tại và được truyền đạt dưới hình thức biểu tượng (Symbol.)
Có tác giả từng viết rằng: Thời đại không có biểu tượng là thời đại chết,
xã hội thiếu biểu tượng là xã hội chết. Một nền văn minh không có biểu tượng
thì sẽ chết, nó chỉ còn thuộc về lịch sử [21.33]. Ngày nay, vai trò to lớn của
biểu tượng trong hoạt động của đời sống con người đã được quan tâm và
nghiên cứu một cách sâu sắc với tinh thần hết sức khoa học. Biểu tượng luôn ở
vị trí trung tâm và được coi như tế bào của đời sống văn hóa. Nó có tầm ảnh
hưởng rộng khắp trong mọi mặt đời sống con người. Từ khoa học cho đến lĩnh
vực nghệ thuật, từ đời sống tâm linh cho đến quan hệ ứng xử và giao tiếp.

12


Người ta tìm cách giải mã biểu tượng vừa để mở rộng trường nhận thức, khám
phá những giá trị văn hóa truyền thống còn chìm khuất trong lòng đời sống
cộng đồng, xã hội, vừa làm chủ một năng lượng tinh thần của một loại hình
ngôn ngữ đặc biệt mà ta vừa mới bắt đầu khằng định về sức mạnh của nó. Vậy
biểu tượng là gì?
1.1.1.1. Biểu tượng văn hóa
Biểu tượng là một khái niệm rất phổ biến trong cuộc sống cũng như trong
nghiên cứu văn hoá, văn học. Có hàng ngàn định nghĩa về biểu tượng. Trong đời
sống, khoa học - đặc biệt là các bộ môn khoa học nghiên cứu như logic học, kí
hiệu học, nhân học,…định nghĩa biểu tượng được dùng khá phổ biến.
Thuật ngữ biểu tượng bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp Symbolum nghĩa là dấu
hiệu nhận nhau. Nghĩa gốc của biểu tượng là một vật được chia làm hai nửa,
mỗi bên giữ một nửa, khi khớp lại sẽ nhận ra mối quan hệ. Theo Từ điển tiếng
Việt, biểu tượng có ba lớp nghĩa. Lớp nghĩa thứ nhất, biểu tượng là hình ảnh
tượng trưng. Lớp nghĩa thứ hai, biểu tượng là hình thức của nhận thức, cao
hơn cảm giác, cho ta hình ảnh sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động
của sự vật vào giác quan đã chấm dứt [ 33. 26].

Theo tiếng Hán Việt thì biểu có nghĩa là dấu hiệu, sự bày ra, sự tỏ rõ,
tượng có nghĩa là tình trạng, hình tượng. Do đó, biểu tượng là một hình tượng
nào đó được phô bày ra trong một dấu hiệu tượng trưng, nhằm diễn đạt một ý
nghĩa hay một hiện tượng nào đó trừu tượng. Đúng như Chu Hy - nhà triết học
đời Tống đã viết Tượng là lấy hình này để tỏ ý kia. Nghĩa gốc của biểu tượng là
một vật được chia làm hai nửa, mỗi bên giữ một nửa, khi khớp lại sẽ nhận ra
mối quan hệ. Biểu tượng ra đời ngay từ khi con người có ngôn ngữ và thể hiện
một bước phát triển vượt bậc trong tư duy, trí tuệ loài người, từ đó nó nằm ở vị
trí trung tâm văn hóa. Biểu tượng là cảm quan, nhận thức được lắng đọng, kết
tinh, chắt lọc trải qua bao biến cố thăng trầm vẫn không bị phai mờ mà ngược
lại ngày càng khắc sâu hơn vào tâm khảm con người [10. 64].

13


Theo nghĩa khái quát nhất, biểu tượng bao giờ cũng có một nửa luôn ở bề
nổi dễ nhìn thấy và cảm giác được gọi là biểu trưng; còn một nửa chìm sâu,
khuất lấp gọi là cái được biểu trưng. Và người giải mã biểu tượng phải là người
tìm ra và lí giải giải được phần chìm lấp kín đáo đó. Biểu tượng thường được
hiểu rộng hơn ý nghĩa mà nó được gán. Giữa biểu tượng và cái được biểu trưng
nhiều lúc có mối quan hệ đứt nối, gián đoạn khiến người ta khó nhận ra, mơ hồ,
khó nắm bắt. Thời gian và không gian làm cho tính biểu tượng bị mờ đi, khuất
lấp đi nên phải biết chìa khóa (mã) mới khai mở được và hầu như không thể
giải mã một lần mà xong.
Từ lâu, các nhà nghiên cứu phương Đông và phương Tây đều quan tâm
đến biểu tượng và ý nghĩa biểu đạt của nó. Theo quan điểm của L. White, nhà
nhân học văn hóa Mĩ thì Văn hóa là cơ chế của các hiện tượng, vật thể, hành
động, tư tưởng, cảm xúc. Cơ chế này được tạo ra nhờ việc sử dụng các biểu
tượng, hoặc phụ thuộc vào các biểu tượng đó [21. 36]. Một trật tự biểu tượng
cấu trúc nên các thực tại nối con người với con người (Lacan). Văn hóa là

dòng thác tư tưởng, xuyên từ cá nhân này sang cá nhân khác thông qua các
hoạt động biểu tượng (Photode).
Như vậy, các nhà nghiên cứu đều nhìn thấy mối quan hệ liên thông,
mang tính hệ quả giữa văn hóa với các biểu tượng văn hóa, muốn hiểu văn
hóa ta không thể không tìm hiểu nó qua các biểu tượng văn hóa (các mã văn
hóa). Nhưng nhìn chung, có thể định nghĩa biểu tượng một cách đơn giản nhất
là một hình ảnh, ký tự hay bất cứ cái gì đó đại diện cho một ý tưởng, thực thể
vật chất hoặc một quá trình. Mục đích của một biểu tượng là để truyền thông
điệp ý nghĩa một cách nhanh chóng dễ dàng và ngắn gọn, đơn giản.Việc giải
mã văn hóa thực chất chính là việc giải mã các biểu tượng văn hóa. Ta có thể
nhận thấy các biểu tượng đó ở nhiều lĩnh vực, trong đó văn học dân gian là
một lĩnh vực quan trọng, bởi nó là sự thể hiện quan niệm, tư tưởng, thái độ,
tình cảm một cộng đồng thông qua hệ thống hình tượng nghệ thuật các biểu

14


tượng văn hóa, vì vậy nghiên cứu văn học dân gian từ các mã văn hóa dân
gian, tìm các mã văn hóa ẩn tàng và biến hóa trong hình tượng văn học dân
gian, đặc biệt là trong thể loại thần thoại là những khám phá hết sức lí thú và
bổ ích.
1.1.1.2. Phân biệt biểu tượng với một số khái niệm khác
* Biểu tượng với kí hiệu và tín hiệu.
Tín hiệu, kí hiệu (Sign) là những quy ước chung, khá đơn giản, mang
một thông tin, một nội dung mà nó làm đại diện như các biển báo, đèn báo, phù
hiệu, nhãn hiệu, lôgô, dấu hiệu, cờ hiệu, huy hiệu, huân huy chương,…cùng
nằm trong hệ thống tín hiệu, kí hiệu.
Thông thường cùng đi với các tín hiệu, kí hiệu sẽ là những điều kiện ràng
buộc nhất định. Thứ nhất, nó phải là cái có thể cảm nhận được bằng giác quan.
Thứ hai, phải có tính thẩm mĩ gắn với đặc trưng văn hóa. Thứ ba, nó có ý

nghĩa, đại diện cho một cái gì đó khác với chính nó. Thứ tư, có thể lí giải được,
thường lí giải một lần là xong. Thứ năm, nó phải nằm trong một hệ thống kí tín
hiệu văn hóa nhất định. Thứ sáu, giữa tín hiệu và nội dung của nó có mối liên
hệ phổ biến, liên tục, dễ nhận ra. Đó chính là mục tiêu để người ta sử dụng tín
hiệu. Nếu trong cuộc sống hay trong bất kì lĩnh vực nào mà các tín hiệu, kí hiệu
mà mọi người nhìn nó đều không hiểu thì nó sẽ trở nên vô nghĩa và sớm sẽ bị
loại bỏ.
Trái với tín hiệu, kí hiệu, biểu tượng là những hình ảnh sự vật cụ thể cảm
tính bao hàm trong nó nhiều ý nghĩa gây được ấn tượng sâu sắc đối với người
đọc. Biểu tượng nghệ thuật được coi là kí hiệu thẩm mĩ đa nghĩa bao gồm cái
biểu trưng và cái được biểu trưng. Nó chính là sự mã hoá cảm xúc ý tưởng của
nhà văn. Biểu tượng trở thành phương tiện diễn đạt cô đọng hàm súc có sức
khai mở rất lớn trong sự tiếp nhận của độc giả. Biểu tượng mang bản chất kí
hiệu nhưng nó khác với kí hiệu thông thường.

15


Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới: biểu hiệu, vật hiệu, phúng dụ,
ngụ ngôn, luân lí đều không phải là biểu tượng chúng chỉ là những dấu hiệu và
không vượt quá mức độ của sự biểu nghĩa. Ngay cả các biểu tượng đại số học
toán học khoa học và một số những công thức giáo lí... cũng chỉ là những kí
hiệu. Như vậy, biểu tượng khác với tín hiệu, kí hiệu ở những phương diện sau:
Biểu tượng thường được hiểu rộng hơn ý nghĩa được gán cho nó còn kí hiệu,
tín hiệu thì theo nghĩa vốn có. Giữa biểu tượng và cái được biểu trưng nhiều
khi có mối quan hệ đứt nối, gián đoạn khiến con người ta khó nhận ra, khó nắm
bắt. Cái được biểu trưng dồi dào hơn cái biểu trưng. Như vậy được gọi là biểu
tượng khi một sự vật hiện tượng nào đó tích đọng trong nó những ý nghĩa sâu
sắc nó được cộng đồng giai cấp dân tộc nhân loại thừa nhận nó luôn hướng về
một nghĩa cố định nào đó nhưng đồng thời lại tiềm ẩn khả năng mở ra những ý

nghĩa khác trong sự cảm nhận của con người.
*Biểu tượng và hình tượng.
Biểu tượng và hình tượng là hai mặt biểu hiện tồn tại trong cùng một tác
phẩm - thuộc phạm trù nghệ thuật. Chúng có mối tương quan và gắn bó khá
chặt chẽ với nhau trong quá trình hình thành nên tác phẩm nghệ thuật. Hai khái
niệm này trong thực tế vẫn tồn tại và thường được dùng lẫn lộn với nhau, mặc
dù bản chất của chúng là khác nhau.
Về phương diện “ngôn ngữ học” thì biểu tượng (Symbol) và hình tượng
(image) không phải là những từ đồng nghĩa. Mặc dù chúng đều là những ký
hiệu (sign) nằm trong một “văn bản” nghệ thuật.
Biểu tượng là hình tượng được hiểu ở bình diện ký hiệu và phải là một
ký hiệu hàm nghĩa (đa nghĩa). Như vậy mọi biểu tượng trước hết phải là hình
tượng (ký hiệu biểu thị), và mọi hình tượng có thể trở thành biểu tượng (ký
hiệu hàm nghĩa).
Phạm trù biểu tượng nhằm chỉ cái phần mà hình tượng vượt khỏi chính
bản thân nó (ký hiệu hiển ngôn) và luôn hàm chứa những “ý nghĩa” mang giá

16


trị trừu tượng. Biểu tượng tuy có sự tương tác với hình tượng nhưng không
đồng nhất hoàn toàn với hình tượng và không phải mọi hình tượng đều trở
thành biểu tượng. Nhìn chung, hình tượng và “nghĩa hàm” (đa nghĩa) là hai
cực không tách rời nhau của một biểu tượng. Bởi lẽ, tách khỏi hình tượng
thì “ý nghĩa” sẽ mất tính biểu hiện, mà tách khỏi “ý nghĩa” thì hình tượng sẽ bị
phân rã trở thành hình tượng thông thường (image) không còn là biểu
tượng (symbol).
1.1.2. Một số đặc điểm của biểu tượng
Biểu tượng có một số đặc điểm nhất định. Đó là có tính chất sống động,
khó nắm bắt, khó xác định. Bản chất khó xác định và sống động của biểu tượng

chính là sự chia ra và kết lại với nhau, nó hàm chứa hai ý tưởng phân ly và tái
hợp. Mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ, ý nghĩa của biểu tượng
luôn biến ảo, nó bộc lộ ra trong cái vừa gãy vỡ vừa là nối kết, vừa xuất hiện lại
vừa mất đi, khiến cho tư duy luôn phải truy tìm, liên tưởng và muốn nắm bắt
lấy vô vàn những ý nghĩa đang còn tiềm ẩn ngay trong lòng của nó. Biểu tượng
có mặt ở nhiều phương diện của đời sống. Từ các hình tượng nghệ thuật như:
hội họa, âm nhạc, văn chương, sân khấu, điện ảnh,…đến các mô thức ứng xử
trong lối sống, phong tục, tập quán.
Bên cạnh đó, biểu tượng còn có tính chất ổn định tương đối. Phải ổn
định mới trở thành biểu tượng, nếu nó luôn thay đổi, nó sẽ không còn mang
tính biểu tượng nữa, bởi giữa cái biểu tượng và cái được biểu tượng không
thay đổi hoặc ít thay đổi thì sự khám phá mới có ý nghĩa. Chẳng hạn, ta
thường quan niệm “chim” là biểu tượng của mặt trời. Như vậy, biểu tượng
“chim” trong trống đồng, chim trong mặt trời,…phải thống nhất với nhau, nếu
không người ta sẽ nghi ngờ tính biểu tượng của nó. Không chỉ vậy, mỗi loài
chim lại có tính biểu tượng riêng, khi nhắc đến biểu tượng của biển cả thì ta
nhớ ngay đến chim hải âu, biểu tượng cho kẻ tiểu nhân - chim sẻ, biểu tượng
của tình yêu - chim uyên ương, biểu tượng của kẻ thích hình thức lòe loẹt -

17


chim công, biểu tượng của mùa xuân - chim én, biểu tượng của mùa hè - chim
cuốc,…Vì vậy, ta có thể thấy tính ổn định tương đối trong thời gian dài và
không gian rộng của biểu tượng.
Thông thường, biểu tượng có thể lí giải được nhờ những mối liên hệ, sự
hỗ trợ lẫn nhau giữa những yếu tố trong cùng một trường liên tưởng. Có thể
nói, nhờ những mối liên hệ đó mà biểu tượng có chức năng trung gian. Nó như
chiếc cầu nối mọi thứ xung quanh thành một chỉnh thể ý nghĩa. Hơn nữa, biểu
tượng luôn mang tính quan niệm. Nó thực sự không nằm ở bề mặt các sự vật

hiện tượng mà luôn ẩn sâu, chìm sâu trong các lớp nghĩa của sự vật hiện tượng
đó. Quan niệm của con người về muôn vật như thế nào sẽ bộc lộ qua hệ thống
các biểu tượng phản ánh quan niệm đó và qua hệ thống các biểu tượng của một
cộng đồng hay một dân tộc nào đó thì cũng có thể hiểu được quan niệm sống
của cộng đồng đó về vũ trụ, tự nhiên, con người. Chẳng hạn, người xưa quan
niệm trời tròn đất vuông, nó chi phối tất cả các biểu hiện của trời và đất, từ tín
ngưỡng đến văn hóa, văn chương, nghệ thuật,…
Do vậy ta có thể thấy, biểu tượng văn hóa xuất hiện trong rất nhiều lĩnh
vực, trong đó văn học dân gian là một lĩnh vực quan trọng. Thần thoại và các
thể loại văn học dân gian khác có mối quan hệ mật thiết, là sự thể hiện bằng
hình tượng nghệ thuật các biểu tượng văn hóa. Vì vậy, thông qua các đặc
điểm trên, chúng ta có thể nói lên ý nghĩa của các biểu tượng trong thần thoại
người Việt.
1.1.3. Phân loại biểu tượng
Theo tôi, biểu tượng có hai loại: Biểu tượng động và biểu tượng tĩnh.
Biểu tượng động là khi nó đang tiếp tục được giải mã, phân tích, khám
phá các lớp nghĩa bên trong của nó. Nó là kết quả của sự liên tưởng và tưởng
tượng giúp cho người ta nhận thức và khám phá ra một thế giới đầy ý nghĩa,
phong phú, đa dạng. Từ đó nhằm truyền đạt những thông tin, khơi dậy những
cảm xúc của họ trước đời sống xã hội.

18


Biểu tượng tĩnh là biểu tượng đã được giải mã, theo thời gian nó
không còn sự chuyển mình hay nói cách khác là sự phát triển về nghĩa của
một biểu tượng nào đó đã dừng lại. Bởi vậy, ý nghĩa của biểu tượng trong
trường hợp này trở nên đơn giản, dễ hiểu; được sử dụng theo một nghĩa nhất
định nào đó nên nó ở trong trạng thái tĩnh, thường được sử dụng trong mọi
hoạt động giao tiếp, thể hiện các mối quan hệ khá ổn định, khiến cho mọi

người dễ hiểu, dễ tiếp nhận.
1.1.4. Thần thoại người Việt - biểu tượng quyền lực tự nhiên
Với tư cách là một phạm trù của khoa học chính trị, quyền lực đã được
khám phá trong chiều dài của lịch sử nhân loại từ Aristote qua các nhà thần học
thời trung cổ, các nhà phục hưng, các nhà không tưởng, các nhà bách khoa đến
các nhà chính trị học hiện đại người Mỹ như K. Dantra, Lesliel Lipson và các
nhà bách khoa triết học toàn thư Liên Xô (cũ), nhưng vẫn chưa đưa ra được
một định nghĩa để mọi người chấp nhận. Có thể nói, M. Weber - nhà xã hội học
nổi tiếng của Đức, là một trong những người có công lớn đóng góp trong việc
nghiên cứu quyền lực xã hội đưa ra định nghĩa về quyền lực (power). Ông cho
rằng: quyền lực (power) là khả năng mà một kẻ hành động trong mối quan hệ
xã hội sẽ có một vị trí để thực hiện ý chí mong muốn của mình bất chấp sự
chống đối [ 6. 187]. M. Faucault - một triết gia nổi tiếng người Pháp cũng đề
cập đến quyền lực có mặt “ở mọi nơi không phải vì nó áp từ trên xuống, mà là
vì nó xuất phát từ mọi nơi”. Hay tác giả Allen đã chỉ rõ quyền lực được giải
nghĩa là sự thống trị, tài nguyên hay trao quyền uy. Nhà nghiên cứu chính trị
người Mỹ Robert Dahl cho rằng, "quyền lực là khả năng bắt buộc mọi người
phải làm cái gì đó mà họ không thể làm khác được. [ 9. 169]
Như vậy, hầu hết các tác giả kể trên khi nói tới quyền lực là nói tới sức
mạnh, nói một cách tổng quát nhất: quyền lực là “khả năng hành động, gây ảnh
hưởng” đến cả về thể chất lẫn tinh thần của một người hay một nhóm người.
Từ đó nội hàm của khái niệm quyền lực có thể hiểu như sau: quyền lực là khả
năng áp đặt ý chí của một các nhân với cá nhân khác tác động đến khả năng

19


×