Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Quan niệm về thân qua phát ngôn của các nhân vật nữ trong truyền ký mạn lục nhìn từ lý thuyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ THU QUỲNH

QUAN NIỆM VỀ “THÂN” QUA PHÁT NGÔN CỦA
CÁC NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
NHÌN TỪ LÝ THUYẾT DIỄN NGÔN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2018


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ THU QUỲNH

QUAN NIỆM VỀ “THÂN” QUA PHÁT NGÔN CỦA
CÁC NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
NHÌN TỪ LÝ THUYẾT DIỄN NGÔN
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Dương Thu Hằng


THÁI NGUYÊN - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội
dung trình bày trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công
bố trong bất cứ một công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Quỳnh

i


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Dương Thu Hằng về sự
hướng dẫn tận tình, đầy đủ, chu đáo và đầy tinh thần trách nhiệm của cô trong
toàn bộ quá trình em hoàn thành luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn sự tạo điều kiện giúp đỡ của Ban chủ nhiệm
Khoa Ngữ Văn và các thầy cô giáo Phòng đào tạo Trường Đại học Sư phạm Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ em thực hiện đề tài luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên và nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Quỳnh

ii



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................... ii
MỤC LỤC ...............................................................................................iii
MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................... 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 6
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ...................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 7
7. Dự kiến đóng góp của luận văn ............................................................ 8
8. Cấu trúc của luận văn .......................................................................... 8
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI.......................................................................................... 10
1.1. Diễn ngôn và các mã cơ bản của diễn ngôn trong tiếp cận tác
phẩm văn học ............................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm diễn ngôn......................................................................... 10
1.1.2. Khái niệm về mã và mã hệ tư tưởng, mã thể loại của lý thuyết diễn ngôn ... 13
1.2. Đôi nét về quan niệm “thân” ................................................................ 18
1.2.1. Quan niệm của các tôn giáo về “thân”................................................. 18
1.2.2. Quan niệm về “thân” trong văn học trung đại Việt Nam......................... 20
1.3. Đôi nét về Nguyễn Dữ và hệ thống nhân vật phụ nữ trong Truyền
kỳ mạn lục .................................................................................... 24
1.3.1. Đôi nét về thân thế và thời đại của Nguyễn Dữ ...................................... 24
1.3.2. Phác thảo hệ thống nhân vật người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục.......... 25
* Tiểu kết chương 1 ............................................................................... 30


iii


Chương 2: QUAN NIỆM VỀ “THÂN” QUA PHÁT NGÔN CỦA CÁC NHÂN
VẬT PHỤ NỮ TRUYỀN THỐNG THEO QUAN ĐIỂM NHO GIÁO TRONG

TRUYỀN KỲ MẠN LỤC NHÌN TỪ LÝ THUYẾT DIỄN NGÔN ....................... 32

2.1. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn của các nhân vật phụ nữ truyền
thống trong Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ mã hệ tư tưởng .................... 32
2.1.1. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về nhu cầu vật chất ........................ 32
2.1.2. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về tình yêu chung thủy, gắn liền
với hạnh phúc gia đình ..................................................................... 39
2.1.3. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về vấn đề sinh - tử ......................... 46
2.2. Quan niệm “thân” qua phát ngôn của các nhân vật phụ nữ truyền thống
trong Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ mã thể loại .................................. 53
2.2.1. Yếu tố kì ảo.................................................................................... 53
2.2.2. Sự hòa thanh diễn ngôn ................................................................... 58
* Tiểu kết chương 2 ............................................................................... 61
Chương 3: QUAN NIỆM VỀ “THÂN ” QUA PHÁT NGÔN CỦA CÁC NHÂN
VẬT PHỤ NỮ PHI TRUYỀN THỐNG THEO QUAN ĐIỂM NHO GIÁO
TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC NHÌN TỪ LÝ THUYẾT DIỄN NGÔN............ 63

3.1. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn của các nhân vật phụ nữ phá cách
trong Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ mã hệ tư tưởng ............................ 63
3.1.1. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về nhu cầu vật chất ........................ 63
3.1.2. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về tình yêu tự do, khao
khát hạnh phúc đời thường ........................................................... 67
3.1.3. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn về vấn đề sinh - tử ............... 78

3.2. Quan niệm về “thân” qua phát ngôn của các nhân vật phụ nữ phá cách
trong Truyền kỳ mạn lục dưới góc độ mã thể loại.................................. 83
3.2.1. Thế giới kì ảo .................................................................................. 83
3.2.2. Những diễn ngôn trái chiều ................................................................ 87
* Tiểu kết chương 3 ............................................................................. 100
KẾT LUẬN ......................................................................................... 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 103
PHỤ LỤC ..................................................................................................
iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo, văn học trung đại Việt Nam
từ thế kỉ X đến XV hầu như vắng bóng hình ảnh của người phụ nữ. Ra đời
vào thế kỉ XVI, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã trở thành một hiện
tượng đột xuất, một sự khởi đầu cho hàng loạt vấn đề về người phụ nữ trong
dòng chảy văn học dân tộc. Bên cạnh hình ảnh người phụ nữ theo quan điểm
“tam tòng tứ đức” của Nho giáo với quan niệm truyền thống về hạnh phúc
gia đình, lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, xuất hiện những người
phụ nữ “lệch chuẩn”: tự do yêu đương, tự do ân ái và đấu tranh cho khát vọng
tình yêu của chính mình. Trong đó, có nhiều nhân vật nữ đã trực tiếp nói lên
quan niệm cá nhân về tình yêu và những nhu cầu bản năng của con người.
Nguyễn Dữ là một nhà nho sống ở thế kỉ XVI, ông viết Truyền kỳ mạn
lục khi đã lui về ở ẩn. So với thời đại, Nguyễn Dữ đã có cái nhìn rất mới mẻ
và đa diện về quyền sống, quyền được yêu, được hưởng hạnh phúc lứa đôi
của người phụ nữ trong xã hội cũ. Ông cũng là một trong số ít các tác gia
đương thời đề cập đến chữ “thân” với cái nhìn sâu sắc. Nếu như trước đây,
đa số nhân vật trong văn học trung đại chủ yếu đề cao chữ “tâm” trong sáng
thì trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, một bộ phận nhân vật nữ của

ông đã mạnh dạn đề cao chữ “thân” phàm tục. Vậy chữ “thân” trong Truyền
kỳ mạn lục có nét gì độc đáo? Những quan niệm mới mẻ về tình yêu, hạnh
phúc của các nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục có đưa họ tới bến bờ hạnh
phúc không hay cuộc đời họ sẽ luẩn quẩn trong vòng bế tắc? Tác phẩm của
Nguyễn Dữ có ý nghĩa như thế nào đối với sự phát triển của văn học Việt
Nam các giai đoạn sau với đề tài về người phụ nữ? Đây là những câu hỏi cần
được tìm hiểu, nghiên cứu để góp thêm góc nhìn mới về áng “thiên cổ kỳ bút”
đã quen thuộc lâu nay.
Bên cạnh đó, diễn ngôn là khái niệm ra đời từ rất sớm, đã trở thành đề
tài của nhiều công trình nghiên cứu ngôn ngữ học trên thế giới. Tuy nhiên, giá
1


trị của diễn ngôn không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực ngôn ngữ mà còn được mở
rộng trong phạm vi nghiên cứu khoa học nhân văn nói chung, nghiên cứu văn
học nói riêng. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi mạnh dạn tìm hiểu
quan niệm về chữ “thân” trong Truyền kỳ mạn lục dưới góc nhìn của lý
thuyết diễn ngôn hiện đại với hi vọng có những đóng góp mới.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Quan niệm về
“thân” qua phát ngôn của các nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhìn
từ lý thuyết diễn ngôn”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sử dụng diễn ngôn để nghiên cứu văn học còn là một công việc mới mẻ
ở Việt Nam song đã có khá nhiều bài nghiên cứu về diễn ngôn của các nhà
phê bình lý luận văn học, có thể kể đến các công trình: Lý thuyết văn học hậu
hiện đại của Phương Lựu (NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2011); Khái niệm
diễn ngôn trong nghiên cứu văn học hôm nay của Trần Đình Sử (tháng 3 năm
2013); Về diễn ngôn người kể chuyện trong truyện ngắn Trang Thế Hy của
Lâm Thị Thiên Lan (Tạp chí Khoa học, văn hoá và du lịch, số 12, tháng
7/2013); Diễn ngôn về giới tính và thi pháp nhân vật của Trần Văn Toàn (Tạp

chí văn học số 8.2013); Diễn ngôn trong giao tiếp văn học của Nguyễn Duy
Bình (Tạp chí khoa học ĐHQGHN, năm 2012); Dẫn nhập lí thuyết diễn ngôn
của M.Foucault và nghiên cứu văn học của Trần Văn Toàn (tháng 9 năm
2015); Diễn ngôn về tính dục trong văn xuôi hư cấu Việt Nam từ đầu thế kỉ
XX đến 1945 của Trần Văn Toàn (Tham luận tại Hội thảo Diễn ngôn, Khoa
Ngữ Văn, ĐHSP Hà Nội, năm 2010); Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn
từ góc độ diễn ngôn (Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Hải Phương, ĐHSP
HN, năm 2012); Diễn ngôn nữ quyền trong văn xuôi Sương Minh Nguyệt
(Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Ngọc Giàu năm 2016, ĐHSP TP.HCM);
Diễn ngôn về sức thuộc địa trong tác phẩm “Người tình” của Mr.Duras của
Nguyễn Thị Ngọc Minh (đăng trên trang web:
ngày 14/07/2011); Diễn ngôn về chiến tranh và hòa bình trong tiểu thuyết
2


của Lê Khâm - Phan Tứ: một cái nhìn lịch đại (Luận văn thạc sĩ của Tô Thùy
Quyên, ĐHSP TP.HCM, năm 2014); Diễn ngôn nhân vật trong nhóm truyện
ngắn thế sự của Phan Huy Thiệp (Bài viết của Phan Thị Điệp, Hội thảo khoa
học sinh viên lần IX, năm 2016); Mạch lạc diễn ngôn hội thoại trong một số
tác phẩm văn học hiện đại (Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Thu Hương,
ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội, năm 2009); Tiểu thuyết vùng sâu của Tô
Nhuận Vỹ từ góc nhìn diễn ngôn (Luận văn thạc sĩ của Lê Thị Thanh Huyền,
ĐHSP Hà Nội, năm 2013); Kí như một loại hình diễn ngôn (Luận án tiến sĩ
của Nguyễn Thị Ngọc Minh, ĐHSP Hà Nội, năm 2013); Diễn ngôn về giới nữ
trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Luận án tiến sĩ của
Nguyễn Thị Vân Anh, ĐHSP Hà Nội, năm 2017); Phân tích diễn ngôn do trẻ
em viết trong chuyên mục “cười vui” của báo Nhi Đồng giai đoạn 1998 2008 (Luận văn thạc sĩ của Đặng Chinh Ngọc, ĐHKHXH&NV, năm 2015);
Mối quan hệ giữa diễn ngôn đạo đức và diễn ngôn tình yêu, tính dục trong
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thanh
Bình, ĐHKHXH&NV, năm 2016); Văn chính luận Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí

Minh từ góc nhìn lý thuyết phân tích diễn ngôn (Luận án tiến sĩ của Trần Bình
Tuyên, ĐHKH Huế, năm 2017);…Các công trình nghiên cứu trên đã vận
dụng lý thuyết diễn ngôn trên phương diện xã hội để nghiên cứu một số nội
dung văn học và thể loại văn học. Điều này không chỉ góp phần làm rõ khái
niệm diễn ngôn trong văn học mà còn sử dụng diễn ngôn như một công cụ để
nghiên cứu các tác phẩm, mở ra thêm hướng đi mới trong tiếp nhận văn học
theo hướng hiện đại.
Truyền kỳ mạn lục đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo độc giả
và cho đến ngày nay, nhiều vấn đề trong tác phẩm này vẫn thu hút sự chú ý
của giới nghiên cứu và phê bình văn học. Chúng tôi xin điểm qua một số bài
viết, tài liệu ghi chép, công trình nghiên cứu về tác phẩm này như: Tìm hiểu
khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Nguyễn
Phạm Hùng - Tạp chí văn học số 7, 1987); Truyền kỳ mạn lục một thành tựu
3


của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán (Bùi Duy Tân - Văn học Việt Nam,
NXBGD, 2001); Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ Hàn Quốc - Trung
Quốc - Việt Nam thông qua Kim Ngao tân thoại, Tiễn đăng tân thoại, Truyền
kỳ mạn lục (Luận án tiến sĩ của tác giả Jeon Hye Kyun, năm 1994); Bàn luận
thêm về vấn đề tác giả - tác phẩm Truyền kỳ mạn lục (Lại Văn Hùng - Tạp
chí văn học số 10, 2002); Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền
kỳ mạn lục (Trần Ích Nguyên, 2000); Những vấn đề khác nhau có liên quan
đến Truyền kỳ mạn lục (Kawamoto Kurive - Tạp chí văn học, 1996); Ảnh
hưởng của văn học dân gian trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Luận
văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Xuân Hòa năm 1997); Cảm hứng chính sự
trong Truyền kỳ mạn lục (Luận văn thạc sĩ của Phan Thị Tình, ĐH Vinh,
năm 2012); Tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ thời kỳ đổi mới
(Luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Huyền Trang năm 2013, ĐHSPTN); Quan
niệm nghệ thuật về con người trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ

(Nguyễn Thị Tính - Tạp chí khoa học - ĐHSPHN, 2014); Tìm hiểu sắc thái
dục tính trong Truyền kỳ mạn lục (Luận văn thạc sĩ của Lê Thị Hoài Thu,
ĐHKHXH&NV, năm 2014); Sự kết hợp phương thức tự sự và trữ tình trong
Truyền kỳ mạn lục (Luận văn thạc sĩ của Tô Kim Yến, ĐHSP TP.HCM, năm
2014); Những biến đổi của “kỳ” và “thực” trong truyện ngắn truyền kỳ Việt
Nam của Vũ Thanh (Tạp chí Văn học, số 6 - 1994); Về mối quan hệ giữa Tiễn
đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục của Phạm Tú Châu (Tạp chí Văn học,
số 3 - 1997); Tương đồng mô hình cốt truyện dân gian và những sáng tạo
trong Truyền kỳ mạn lục của PGS. TS Nguyễn Hữu Sơn (Tạp chí Nghiên
cứu văn học, năm 2011); Mối quan hệ giữa diễn ngôn đạo đức và diễn ngôn
tình yêu, tính dục trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Luận văn thạc sĩ
của Nguyễn Thanh Bình, ĐHKHXH&NV, năm 2016);… Các công trình
nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục đã khai thác sâu vào khuynh hướng sáng
tác, cảm hứng chính sự, thế giới nghệ thuật, quan niệm về con người và đặc
biệt là so sánh Truyền kỳ mạn lục với các tác phẩm cùng trường thể loại để
4


thấy những nét đặc sắc trong nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Từ đó,
thấy được những giá trị đỉnh cao của áng “thiên cổ kỳ bút” này.
Bên cạnh những vấn đề lí luận chung của tác phẩm, hình ảnh người phụ
nữ trong Truyền kỳ mạn lục cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều
công trình khoa học, cụ thể như: Nhân vật nữ trong thể truyền kỳ qua hai tác
phẩm Truyền kỳ mạn lục và Truyền kỳ tân phả (Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn
của Kim Seona năm 1995 - ĐHKHXH & NV, Hà Nội); Số phận người phụ
nữ và các phương thức thể hiện số phận ấy trong Truyền kỳ mạn lục (Luận
văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Dương năm 1996 - ĐHSPI HN); Nghiên
cứu người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Luận văn Thạc
sĩ của Nguyễn Công Tho năm 2005 - ĐHSPI HN); Hệ thống nhân vật nữ
trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Luận văn Thạc sĩ của Nông

Phương Thanh năm 2011 - ĐHSPTN); Yếu tố kỳ ảo trong việc thể hiện khát
vọng của người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục (Luận văn Thạc sĩ của
Nguyễn Thị Hải Yến năm 2011 - ĐHSPTN); Người phụ nữ trong Truyền kỳ
mạn lục nhìn từ quan điểm giới (Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Nhung năm
2010 - ĐHSPTN); Hình tượng ma nữ trong Truyền kỳ mạn lục (Luận văn
thạc sĩ của Mai Thị Lệ Quyên, ĐHKHXH&NV, năm 2016);…Các công trình
nghiên cứu về người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục chủ yếu phân tích hệ
thống nhân vật, làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn, số phận khổ đau, khát vọng hạnh
phúc không thành của họ. Thực tế cho thấy, chưa có công trình nào nghiên
cứu Truyền kỳ mạn lục với mục đích lấy những lời nói trực tiếp của các nhân
vật nữ làm đối tượng nghiên cứu chính để từ đó làm nổi bật một quan niệm có
tính tổng thể trong văn học trung đại như quan niệm về chữ “thân”.
Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Quan niệm về “thân”
qua phát ngôn của các nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ lý
thuyết diễn ngôn” để góp phần hoàn thiện thêm cái nhìn đa chiều về tác
phẩm và những đóng góp to lớn của Nguyễn Dữ khi viết về người phụ nữ
trong xã hội phong kiến.
5


3. Mục đích nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu quan niệm về
chữ “thân” được thể hiện dưới dạng phát ngôn về tình yêu, hạnh phúc lứa
đôi, hạnh phúc gia đình, quan niệm sinh - tử, nhu cầu bản năng của các nhân
vật phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ lý thuyết diễn ngôn hiện đại. Qua
đó, giúp người đọc thấy được sự mới mẻ, táo bạo và ý nghĩa nhân sinh tiến bộ
của quan niệm ấy so với bối cảnh xã hội đương thời, góp thêm một góc nhìn
mới về áng “thiên cổ kỳ bút” này.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài

như: quan niệm về chữ “thân” trong thời kỳ văn học trung đại; khái niệm
diễn ngôn như một công cụ lý thuyết trong nghiên cứu tác phẩm văn học; thân
thế, thời đại của Nguyễn Dữ và hệ thống nhân vật nữ trong tác phẩm Truyền
kỳ mạn lục; vấn đề người phụ nữ trong văn xuôi tự sự Việt Nam từ TK X đến
TK XVI.
- Khảo sát, thống kê những phát ngôn trực tiếp về tình yêu, nhu cầu
tính dục, nhu cầu vật chất, quan niệm sinh - tử của một số nhân vật nữ trong
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.
- Phân tích, luận giải quan niệm tình yêu đôi lứa, hạnh phúc gia đình,
nhu cầu bản năng, quan niệm sinh - tử và số phận của một số nhân vật nữ theo
lý thuyết diễn ngôn hiện đại để thấy được quan niệm về chữ “thân” trong tác
phẩm. Từ đó, chỉ ra tính chất mới mẻ, táo bạo trong ngòi bút nhân đạo của
Nguyễn Dữ.
5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên cứu phát
ngôn của các nhân vật phụ nữ đại diện cho quan niệm về hạnh phúc gia đình,
khát vọng tình yêu đôi lứa và khát vọng giải phóng tình cảm tự nhiên. Từ đó,
chỉ ra được quan niệm về chữ “thân” có phần mới mẻ, táo bạo trong tác
6


phẩm: nàng Nhị Khanh trong “Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu”, Vũ Thị
Thiết trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, nàng Giáng Hương trong
“Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên”, nàng Lệ Nương trong “Chuyện Lệ Nương”,
nàng Nhị Khanh trong “Chuyện cây gạo”, hai hồn hoa Đào Hồng nương và Liễu
Nhu nương trong “Chuyện kì ngộ ở trại Tây”.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Khi thực hiện luận văn này, chúng tôi dùng bản: Truyền kỳ mạn lục - bản
dịch của Trúc Khê - Ngô Văn Triện, lời giới thiệu của Bùi Kỷ, NXB Văn học ấn

hành tại Hà Nội (1971). Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, chúng tôi tập
trung làm nổi bật quan niệm về chữ “thân” qua những phát ngôn thể hiện quan
niệm về tình yêu của các nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục thông qua các
truyện: “Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu”, “Chuyện người con gái Nam
Xương”, “Chuyện cây gạo”, “Chuyện kì ngộ ở trại Tây”, “Chuyện Từ Thức lấy
vợ tiên”, “Chuyện Lệ Nương”… Ở đây, chúng tôi sử dụng phát ngôn của nhân
vật như một biểu hiện quan trọng của lý thuyết diễn ngôn.
Bên cạnh đó, chúng tôi mở rộng phạm vi tìm hiểu một vài tác phẩm văn
học và tư liệu văn hoá để so sánh khi cần thiết như: Việt điện u linh của Lý Tế
Xuyên, Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp, Truyền kỳ tân phả của Đoàn
Thị Điểm, Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn, Đoạn trường tân thanh
của Nguyễn Du,… Ngoài ra, chúng tôi cũng tiến hành tìm hiểu những tác
phẩm thơ hiện, đương đại về tình yêu của các nhà thơ Xuân Diệu, Vi Thùy
Linh… và một số tài liệu nghiên cứu về diễn ngôn của các nhà lý luận phê
bình văn học.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu chính sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê: khảo sát, thống kê các phát ngôn về
quan niệm tình yêu và hạnh phúc gia đình, nhu cầu vật chất, quan niệm sinh tử của các nhân vật phụ nữ, chú trọng các phát ngôn gắn với quan niệm về
chữ “thân”.
7


- Phương pháp tiếp cận liên ngành: vận dụng những kiến thức liên
ngành về Phật giáo, Nho giáo, văn học, văn hóa, lịch sử,… để tìm hiểu vấn đề
cần nghiên cứu.
- Phương pháp hệ thống: xây dựng các hệ thống phát ngôn theo từng
tuyến nhân vật bằng lí thuyết diễn ngôn.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích nhân vật, phân tích ngôn

ngữ, phân tích các khái niệm diễn ngôn, mã thể loại, mã hệ tư tưởng,…
- Phương pháp tiếp cận văn hóa: đọc tác phẩm từ góc nhìn văn hóa, chỉ
ra tư tưởng của Nguyễn Dữ thể hiện ở việc xây dựng cốt truyện, nhân vật và
lời bình trong bối cảnh văn hóa Việt Nam thời trung đại.
7. Dự kiến đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên tập trung tìm hiểu quan niệm về chữ
“thân” được thể hiện dưới dạng phát ngôn về tình yêu, hạnh phúc lứa đôi,
hạnh phúc gia đình, quan niệm sinh - tử, nhu cầu bản năng của các nhân vật
phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ lý thuyết diễn ngôn hiện đại. Cụ thể
là luận văn đi sâu phân tích phát ngôn của hai tuyến nhân vật phụ nữ có tính
cách, quan niệm sống và yêu gần như trái ngược nhau: Một bên là người phụ
nữ truyền thống tuân thủ đạo đức Nho giáo với quan niệm về tình yêu thủy
chung và khát khao hạnh phúc gia đình bình dị, đề cao cái tâm trong sáng và
coi nhẹ chữ thân; còn một bên là người phụ nữ phá cách với khát vọng hưởng
thụ hạnh phúc ân ái mãnh liệt, đề cao chữ thân và phần nào coi nhẹ chữ tâm.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa cung cấp phương pháp
luận và kiến thức văn học cần thiết cho việc tham khảo trong nghiên cứu và
giảng dạy ở nhà trường các cấp. Đồng thời, đây cũng là một cách tiếp cận mới
cho các tác phẩm văn học, mở ra hướng đánh giá giá trị nhân văn của văn học
từ góc nhìn lí thuyết diễn ngôn.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục; Nội dung
chính của luận văn được triển khai trong ba chương:

8


Chương 1: Những vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài.
Chương 2: Quan niệm về “thân” qua phát ngôn của các nhân vật phụ
nữ truyền thống theo quan điểm Nho giáo trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ lý

thuyết diễn ngôn.
Chương 3: Quan niệm về “thân” qua phát ngôn của các nhân vật phụ
nữ phi truyền thống theo quan điểm Nho giáo trong Truyền kỳ mạn lục nhìn
từ lý thuyết diễn ngôn.

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Diễn ngôn và các mã cơ bản của diễn ngôn trong tiếp cận tác phẩm
văn học
1.1.1. Khái niệm diễn ngôn
Khái niệm diễn ngôn ra đời từ rất sớm và ngày càng được sử dụng
trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu của khoa học nhân văn và xã hội học. Diễn
ngôn (với nghĩa từ nguyên là discourse) có bản chất là dạng thức trao đổi
thông tin (communication), vận hành theo mối quan hệ logic từ đâu ra và
hướng đến đâu (from... and to...). Theo cách hiểu thông thường, đó là sự
tiếp nhận qua lại giữa chủ thể truyền thông tin và đối tượng nhận thông tin
của quá trình trao đổi. Khi trở thành thuật ngữ của ngôn ngữ học, diễn ngôn
vẫn hàm chứa bản chất cơ bản của nghĩa từ nguyên, bao gồm quan hệ giữa
chủ thể diễn ngôn, khách thể diễn ngôn và nội dung diễn ngôn. Từ thế kỉ
XX, trong bối cảnh sự chuyển hướng mạnh mẽ của hệ lý thuyết, diễn ngôn
đã được bổ sung thêm những hàm nghĩa mới, gắn liền với một mô hình
nghiên cứu văn hóa văn học, trở thành một trong những thuật ngữ mang
tính chất chìa khóa trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Theo bài viết "Ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn" của tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Minh [Nguồn trích dẫn: nghĩa mới của diễn ngôn có cội nguồn
sâu xa từ trong các trước tác của ba nhà tư tưởng lớn của thế kỉ XX: F.de
Saussure, M.Bakhtin và M.Foucault.

Thứ nhất, đối với các nhà cấu trúc chủ nghĩa, diễn ngôn được hiểu là
cấu trúc của ngôn ngữ/ lời nói, đó là những nguyên tắc tổ chức, sắp xếp ngôn
từ trong hệ thống theo một quy luật riêng. Nét nghĩa này bắt nguồn từ trong
cuốn giáo trình “Ngôn ngữ học đại cương” của Saussure, được sử dụng rộng

10


rãi trong thời cực thịnh của chủ nghĩa cấu trúc với tên tuổi của nhiều nhà
nghiên cứu cấu trúc chủ nghĩa như: R.Barthes, Todorov, Gennette…
Thứ hai, đối với nhà nghiên cứu M.Bakhtin, diễn ngôn được định nghĩa
như là một loại lời nói thấm đẫm hệ tư tưởng. Hướng này xuất hiện khi Bakhtin
thấy hạn chế của ngữ học Saussure, đồng thời cũng thấy hạn chế của các nhà lý
luận thuộc phái hình thức chủ nghĩa: không thừa nhận mối quan hệ giữa văn học
và ý thức hệ xã hội. Ông là người đề xuất hướng nghiên cứu “siêu ngôn ngữ
học”, phản đối lối nghiên cứu ngôn từ tách khỏi đời sống xã hội và ý thức hệ.
Theo Bakhtin, diễn ngôn luôn thấm đẫm tư tưởng, cảm xúc, thái độ chủ quan
của người nói, hay nói cách khác, nó luôn tồn tại dưới dạng kép: lời nói - hệ tư
tưởng. Như vậy, diễn ngôn có bản chất là đối thoại.
Trung tâm điểm của cách tiếp cận thứ ba về diễn ngôn là những tư
tưởng của M.Foucault. Theo ông, diễn ngôn vừa là công cụ, vừa là hệ quả
của quyền lực. Tri thức mà chúng ta có cũng là sản phẩm được tạo thành từ
các diễn ngôn, đồng thời, là kết quả của những mâu thuẫn quyền lực. Tất cả
những tư tưởng này của Foucault cho thấy ông chủ yếu đi sâu nghiên cứu
những yếu tố chi phối việc kiến tạo và vận hành các diễn ngôn.
Từ đó, trong bài viết "Ba cách tiếp cận khái niệm diễn ngôn", tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Minh kết luận: “Diễn ngôn có thể hiểu là cấu trúc của
ngôn ngữ (lời nói), diễn ngôn là lời nói - tư tưởng hệ và diễn ngôn như là
công cụ để kiến tạo tri thức và thực hành quyền lực. [Nguồn trích dẫn:
/>Theo luận án tiến sĩ “Sự chuyển đổi diễn ngôn lý luận, phê bình văn

học Việt Nam từ thời kỳ đổi mới đến nay” của tác giả Trần Thị Ngọc Anh,
quan niệm diễn ngôn được hiểu là “hệ thống siêu ngôn ngữ được hiện diện
qua văn bản hoặc phi văn bản về một chủ đề nào đó trong đời sống như chính
trị, quân sự, đạo đức, kinh tế, nghệ thuật, văn học… Mỗi chủ đề tạo thành
một đơn vị diễn ngôn. Tổng hòa các đơn vị diễn ngôn tạo thành hệ thống diễn
ngôn trong xã hội. Hệ thống diễn ngôn này chịu sự tác động của cơ chế quyền
11


lực và trạng thái tri thức mà quy định thực tiễn phát ngôn của con người bằng
những nguyên tắc căn bản trong dùng từ, diễn đạt, kiến tạo văn bản và kết
hợp các hệ thuật ngữ của một giai đoạn lịch sử hoặc một thời đại. Diễn ngôn
do đó chính là bản thể tư tưởng của con người trong thực tiễn luận bàn, diễn
giải về các vấn đề trong đời sống cũng như học thuật một cách có chiến lược,
tuân theo trật tự và mang tính liên văn bản” [1.35].
Từ quan niệm trên của tác giả Trần Thị Ngọc Anh, có thể thấy khi được
vận dụng vào nghiên cứu khoa học xã hội, việc vận hành diễn ngôn phụ thuộc
vào yếu tố chủ quan của chủ thể: tư tưởng, thái độ, tài năng... và các yếu tố
khách quan: luật định xã hội, luật tục cộng đồng... Nó gắn liền trước hết với
khái niệm ý thức hệ. Do đó, có thể hiểu một cách ngắn gọn: diễn ngôn bao
hàm lời nói, tức là nó có tồn tại dưới dạng phát ngôn chủ quan của một cá
nhân. Tuy nhiên, diễn ngôn lại phụ thuộc vào ngữ cảnh giao tiếp và có khả
năng phát triển nâng tầm để trở thành tuyên ngôn cho một giai cấp nhất định,
cho một thời đại cụ thể. Một diễn ngôn được cho là phù hợp với thời đại khi
nội dung của nó trùng khớp với tư tưởng chung của xã hội đương thời. Chính
vì vậy, không nên chỉ xem xét diễn ngôn trên phương diện ngôn ngữ mà còn
cần khai thác diễn ngôn như một công cụ để nghiên cứu các tác phẩm văn
học. Các tác giả xây dựng hình tượng nhân vật trong tác phẩm thông qua việc
miêu tả ngoại hình, hành động, tâm lý và lời thoại của nhân vật… Với nhiều
tác phẩm văn học, lời thoại của nhân vật cũng chứa đựng những quan điểm,

thái độ của tác giả, hay nói cách khác, xây dựng phát ngôn của nhân vật là
cách thức để tác giả bộc lộ tư tưởng, thái độ về một vấn đề nào đó.
Trên cơ sở tổng hợp những quan niệm khác nhau của các học giả khi
nghiên cứu diễn ngôn trong lĩnh vực văn chương, có thể thấy trong nghiên
cứu văn học có ít nhất hai mã chi phối việc tạo lập và vận hành các diễn
ngôn: mã thể loại và mã hệ tư tưởng.
Trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi sử dụng lý thuyết diễn ngôn để
nghiên cứu các phát ngôn (bao gồm có lời độc thoại, đối thoại và các sáng tác
12


thơ) của nhân vật, dựa trên mã thể loại truyền kì và mã hệ tư tưởng phong kiến.
Tuy nhiên, cần xác định rõ rằng trong đề tài khoa học này, diễn ngôn không phải
là một khái niệm của ngôn ngữ học mà nó là công cụ lý thuyết để nghiên cứu
văn học. Chúng tôi sử dụng diễn ngôn như một phương tiện văn học để phân tích
quan niệm về chữ “thân” qua các phát ngôn về tình yêu của một số nhân vật nữ
trong tác phẩm.
1.1.2. Khái niệm về mã và mã hệ tư tưởng, mã thể loại của lý thuyết diễn ngôn
1.1.2.1. Khái niệm về mã
Mã (code) là một khái niệm được sử dụng nhiều trong lĩnh vực ngôn ngữ
học, công nghệ thông tin, kí hiệu học và nghiên cứu văn học. Theo nghĩa thông
thường nhất, mã là nguyên tắc xác lập mối quan hệ giữa thông tin và kí hiệu.
Trong lĩnh vực ngôn ngữ học, Saussure là người đầu tiên sử dụng khái
niệm mã. Thứ nhất, mã có một vai trò rất quan trọng trong quá trình giao tiếp,
bởi nhờ nó mà người nhận có thể hiểu được thông điệp của người gửi. Vì thế,
mã là yếu tố xác lập nên mối quan hệ giữa người phát và người nhận, giữa
thông điệp và ý nghĩa thông điệp. Thứ hai, mã là một ngôn ngữ, bởi nó có
những đơn vị và qui tắc tổ chức các đơn vị ấy thành một hệ thống, giúp truyền
đạt thông tin.
Hiểu như vậy, thì văn bản cũng có mã của nó, đó là hệ thống ngữ pháp

chi phối việc tạo lập văn bản, là chìa khóa để giải mã thông điệp giữa người
gửi và người nhận trong giao tiếp. Ngôn ngữ cũng được coi là một mã, vì nó
là nguyên tắc xác lập quan hệ giữa thông tin và kí hiệu dạng lời nói hoặc chữ
viết, phải nắm được những qui tắc của ngôn ngữ, người ta mới có thể giao
tiếp. Văn hóa, văn học đều có một hệ thống mã, mà dựa vào đó, người ta có
thể tiếp cận được các tác phẩm và thích nghi với một nền văn hóa.
1.1.2.2. Mã hệ tư tưởng
Thuật ngữ hệ tư tưởng (ideology) có lịch sử tồn tại trên dưới hai trăm
năm, từng là đối tượng bàn luận của khoa học luận (Tracy và các nhà bách
khoa thư), triết học (Marx, Enghen), kí hiệu học (M.Bakhtin, R.Barthes và
13


nhiều nhân vật khác). Các từ điển triết học hiện có đều cho rằng, Antoine
Louis Claude Destutt de Tracy (1754 - 1836) - nhà triết học, chính trị học,
kinh tế học người Pháp - là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này vào năm
1801, trong tác phẩm nổi tiếng: “Cơ sở tư tưởng hệ”. Trong cách sử dụng của
Tracy thời ấy thì hệ tư tưởng là khoa học về tư tưởng. Tuy nhiên, hệ tư tưởng
với nội hàm này chưa thực sự chính xác.
Sau Tracy, vấn đề hệ tư tưởng trở thành đối tượng luận bàn của triết học và
cách luận giải về phạm trù này thay đổi theo nhiều hướng (trong triết học của
H.Tain, triết học Heghen) nhưng đáng chú ý hơn cả là những ý kiến của các nhà
khoa học chủ nghĩa Mác. Những luận điểm cơ bản về hệ tư tưởng được Marx và
Enghen trình bày trong Hệ tư tưởng Đức (1845 - 1846): hệ tư tưởng là tập hợp
những tư tưởng và quan điểm dưới dạng lí thuyết, mang tính hệ thống, phản ánh
quan hệ của các nhóm xã hội (tầng lớp, giai cấp) với thế giới hiện thực và quan
hệ giữa các nhóm xã hội với nhau. Như vậy, hệ tư tưởng không phải là tư tưởng
của cá nhân, cũng không bó hẹp chỉ là tư tưởng của một giai cấp, mà được hiểu
theo nghĩa rộng, là tất cả những nền tảng tri thức, tâm lí, văn hóa... chung cho một
nhóm người nào đó. Trên cơ sở này, có thể kể đến hệ tư tưởng của chủ nghĩa dân

tộc, hệ tư tưởng của chủ nghĩa nữ quyền, hệ tư tưởng của chủ nghĩa thực dân…
Chính vì vậy, hệ tư tưởng có xu hướng loại bỏ những khám phá mang
tính chất cá nhân bằng cách tạo ra những khuôn mẫu của chủ thể và khiến cho
những khuôn mẫu này được công nhận là hợp thức. Ví dụ: Hệ tư tưởng nam
quyền đã chi phối xã hội Việt Nam thời phong kiến, quy định trong nền văn
hóa trung đại Việt Nam, chỉ có những bậc quân vương, danh thần, lương
tướng, quân tử mới được phát ngôn. Những phát ngôn không theo những
khuôn mẫu này (không phải của quân vương, danh thần, quân tử…) đều
không được công nhận là hợp thức. Cũng như vậy, trong hệ tư tưởng thực
dân, dân bản xứ ở các thuộc địa bị tước mất tiếng nói, chỉ có kẻ đi khai hóa,
chinh phục mới được quyền phát ngôn. Còn hệ tư tưởng nữ quyền, hậu thực
dân… lại khiến cho những kẻ vốn bị tước đoạt quyền phát ngôn như người
14


phụ nữ, dân bản xứ ở các nước thuộc địa được cất lên tiếng nói và khẳng định
quyền được tự do ngôn luận của mình. Như vậy, có thể thấy hệ tư tưởng chi
phối mạnh mẽ tới chủ thể của diễn ngôn, mục đích và nội dung diễn ngôn.
Ngoài ra, hệ tư tưởng được thể hiện trong hình thái của một bức tranh
thế giới mang tính chất khuôn mẫu, thể hiện cách thức quan sát và miêu tả thế
giới chung cho cả cộng đồng. Ví dụ: hệ tư tưởng chủ nghĩa thực dân thể hiện
“bức tranh thế giới thuộc địa” như một xứ sở mông muội, tăm tối, lạc hậu cần
được khai hóa và con người ở vùng thuộc địa đều man dại, cần được cải tạo.
Còn trong thời kỳ phong kiến ở Việt Nam, hệ tư tưởng nam quyền chịu tác
động của Nho giáo lại thể hiện ở cách ngợi ca người đàn ông như đấng nam
nhi đại trượng phu “đầu đội trời, chân đạp đất” với khí phách anh hùng; song
song đó là miêu tả người phụ nữ như một đối tượng thụ động, yếu đuối, dễ sai
khiến, xếp ngang hàng với hạng “tiểu nhân”.
Như vậy có thể thấy, văn học nghệ thuật tự bản thân nó là diễn ngôn hệ
tư tưởng vì văn học cũng là một diễn ngôn, mà mọi diễn ngôn, theo Bakhtin,

đều tồn tại dưới dạng kép: lời nói - hệ tư tưởng. Trong khuôn khổ đề tài này,
chúng tôi đặt Truyền kỳ mạn lục trong mã hệ tư tưởng của thời đại mà tác
phẩm ra đời - thế kỉ XVI của thời kì phong kiến Việt Nam. Điều đó có nghĩa
là mã hệ tư tưởng của tác phẩm này là hệ tư tưởng nam quyền chịu tác động
của quan điểm đạo đức Nho giáo.
1.1.2.3. Mã thể loại
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thể loại văn học là “dạng thức của tác
phẩm văn học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát
triển lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm,
về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của mối
quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống ấy” [9.299].
Theo GS.TS Trần Đình Sử trong cuốn Lí luận văn học tập 2 - Tác
phẩm và thể loại văn học, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, thể loại văn học
được định nghĩa như sau: “Thể loại tác phẩm văn học là khái niệm chỉ quy
15


luật loại hình của tác phẩm, trong đó ứng với một loại nội dung nhất định có
một loại hình thức nhất định, tạo cho các tác phẩm một hình thức tồn tại
chỉnh thể” [28.220].
Như vậy, có thể hiểu, thể loại là hình thức chỉnh thể của tác phẩm văn
học, trong đó có sự thống nhất và quy định lẫn nhau của các loại đề tài, chủ
đề, cảm hứng, hình thức nhân vật, kết cấu, lời văn.
Là sản phẩm của sự phát triển văn học dân tộc, thể loại văn học mang
tính dân tộc sâu sắc, gắn liền với ngôn ngữ, tâm lí và truyền thống văn hóa
mỗi dân tộc. Truyện truyền kì Việt Nam có nguồn gốc từ truyện kì ảo Trung
Quốc cổ trung đại, được hình thành và phát triển nội sinh gắn liền với nền
văn hóa và văn học dân tộc, đặc biệt là văn học dân gian và văn xuôi tự sự
Việt Nam. Văn hóa dân tộc như cái nôi nuôi dưỡng truyện truyền kì Việt
Nam trong suốt quá trình hình thành, phát triển và cũng chính yếu tố văn hóa

dân gian đã giúp thể loại truyện này ở Việt Nam có điểm khác với truyện
truyền kì ở các nước đồng văn trong khu vực. Có thể nói, sự phát triển của
loại hình này từ tác phẩm truyện u linh (Việt điện u linh tập - Lý Tế Xuyên)
sang chích quái (Lĩnh Nam chích quái - Trần Thế Pháp) đến truyền kỳ
(Truyền kỳ mạn lục - Nguyễn Dữ) đều được quy định chặt chẽ bởi những
điều kiện chính trị, văn hóa, xã hội Việt Nam. Trong quá trình này, xuất hiện
hàng loạt các nhân tố mới, đặc biệt là sự xuất hiện của các tác gia có phong
cách viết truyện riêng, từ chỗ sao chép đến chỗ tạo ra được những tác phẩm
thực sự mang dấu ấn cá nhân và tinh thần dân tộc. Những sáng tác của họ có
khả năng phản ánh nhiều vấn đề quan trọng của đời sống hiện thực và có ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển của văn học dân tộc. Như vậy, nghiên
cứu một thể loại văn học phải chú ý đến tính lịch sử, tính thời đại, tính dân
tộc và tính biến đổi của nó.
Mỗi thể loại bao giờ cũng có một cấu trúc tương đối ổn định và vững
chắc, làm thành bộ khung bất biến, có vai trò chi phối việc tổ chức các văn
bản cụ thể. Cấu trúc ấy là sự khái quát hóa các thông tin thành một hệ thống
16


các đơn vị, qui tắc nhất định, gọi là mã thể loại. Ví dụ, mã thể loại thơ trữ tình
bao gồm một loạt các đơn vị như: nhân vật trữ tình, hệ thống các hình ảnh,
biểu tượng, vần, nhịp… Các đơn vị này được tổ chức để làm nổi bật thế giới
chủ quan của cảm xúc, tưởng tượng, liên tưởng. Mã thể loại của tiểu thuyết
bao gồm hàng loạt các đơn vị như sự kiện, nhân vật, cốt truyện, chi tiết,… Tất
cả các yếu tố ấy được tổ chức để làm nổi bật một thế giới đang vận động,
chưa hoàn kết.
Ngoài ra, mã thể loại còn gọi là ngôn ngữ thể loại, là yếu tố trung gian
trong cuộc giao tiếp nghệ thuật giữa người viết và người đọc, giúp cho cuộc
giao tiếp ấy được thuận lợi, thông suốt. Khi sáng tác một tác phẩm, bao giờ
nhà văn cũng phải lựa chọn và sử dụng một số mã thể loại nhất định, và khi

tiếp nhận, người đọc cũng cần dựa vào mã thể loại để lí giải tác phẩm. Như
vậy, để đọc - hiểu một tác phẩm văn học, trước hết chúng ta phải nắm vững
được đặc trưng thể loại của tác phẩm đó như nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ…
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ được viết theo thể truyền kì nên
việc vận dụng các yếu tố nghệ thuật của mã thể loại này trong nghiên cứu
nhân vật là việc làm cần thiết. Bằng con đường ảo hóa, tác giả Nguyễn Dữ đã
thể hiện tầm nhìn vượt thời đại của mình và người đọc sẽ không thể hiểu được
toàn bộ giá trị tác phẩm nếu không nắm được đặc trưng cơ bản của mã truyền
kì. Nghệ thuật ảo hóa trong Truyền kỳ mạn lục được thể hiện qua: nhân vật kì
ảo (ma, quỷ, thần tiên,...), không gian kì ảo (thế giới cõi mộng, cõi tiên, âm
phủ, thủy cung, thiên đường…), các chi tiết kì ảo (cuộc hội ngộ giữa người ma, người - tiên, người chết đi sống lại, tượng đất biết cử động…). Với nhà
văn Nguyễn Dữ, việc sử dụng mã thể loại truyền kì là một bước đệm cần thiết
để ông bộc lộ những quan niệm nhân sinh tiến bộ, xây dựng những hình
tượng nhân vật độc đáo. Chính vì vậy, muốn lí giải nội dung ý nghĩa của các
truyện trong Truyền kỳ mạn lục, người đọc không thể tách rời mối quan hệ
giữa mã tư tưởng chung của thời đại, tư tưởng riêng của tác giả và mã thể loại
truyền kì của tác phẩm này.
17


1.2. Đôi nét về quan niệm “thân”
1.2.1. Quan niệm của các tôn giáo về “thân”
Bất cứ tôn giáo nào ra đời cũng được quy định bởi một bối cảnh lịch sử
nhất định. Các hiện tượng tôn giáo đều nhằm đáp ứng nhu cầu tâm lí tín
ngưỡng của một bộ phận cộng đồng. Mỗi tôn giáo lại có những quan niệm
nhất định về các phạm trù liên quan đến con người và đời sống xã hội. Ở Việt
Nam, các học thuyết Phật, Nho, Đạo bàn luận không ít đến các vấn đề bản thể
luận như: đạo, đức, tâm, tính, tình và đặc biệt là “thân”.
Theo quan niệm của Phật giáo, thân là nguồn gốc của nỗi khổ bởi nó
gắn với nhu cầu vật chất, bắt buộc con người phải tìm cách thỏa mãn mà dẫn

tới khổ đau. Như vậy trong quan niệm Phật giáo, thân gắn liền với chữ dục.
Phật giáo nhìn dục như sự kết hợp giữa thèm khát và khổ đau. Sự thèm khát
làm phát sinh một loạt dục vọng: chiếm giữ, ghen tuông , tức giận, oán hờn …
Chúng thay nhau hành hạ con người và khiến người ta bị mù quáng. Đó là các
thứ dục vọng gây ra tội lỗi. Thế nhưng tội lỗi phát sinh từ đâu? Phật giáo chỉ
ra rằng tội lỗi của con người chính là phát sinh từ trong tâm thức. Điểm then
chốt trong giáo lý Phật giáo là thân xác gánh chịu sự kiểm soát của tâm thức.
Chính sự ham muốn của tâm thức là nguyên nhân làm bùng lên dục vọng
và dục vọng là nguyên nhân của khổ đau. Phật giáo cho rằng khổ của kiếp
người là do bị dục kích động tạo ra nghiệp báo, khiến cho phải luân hồi hết
kiếp này đến kiếp khác trong bể trầm luân. Phải diệt dục thì mới diệt được khổ.
Theo giáo lý của Phật giáo, tính dục liên hệ trực tiếp đến sự cảm nhận
của thân xác. Từ đó, Phật giáo kêu gọi con người nên diệt trừ sắc dục. Theo
quan niệm của đạo Phật, nói đến sắc dục là nhấn mạnh vào sự đắm sắc của
nam nữ, tình ái si mê, ân ái qua bao kiếp buộc ràng nhau không có kỳ chấm
dứt. Từ đó, sắc dục gây nên bao tai họa cho con người: “Người đuổi theo sắc
dục không biết chán như người uống nước muối, càng uống càng khát, càng
đắm mê thì hoạ hại càng lắm, tự đem mình vào chỗ hang hùm miệng sói mà
vẫn không sợ” [Nguồn trích dẫn: Sắc dục
18


làm cho bản thân chóng tàn cỗi, bệnh tật lại thêm nhiều, phiền não khổ đau,
triền miên u uất. Vì sắc dục, một người hiền lương có thể trở thành tướng
cướp; một người con hiếu thuận có thể trở nên ngỗ nghịch, làm khổ mẹ cha;
một người chồng tốt, một người vợ đảm đang có thể đánh mất lòng chung
thuỷ khiến gia đình ly tán, con cái bơ vơ.
Nhận thức rõ hoạ hại của sắc dục, Đức Phật dạy các đệ tử phải tỉnh táo,
đừng để đắm luyến vào cái bẫy của sắc đẹp. Ngài khẳng định sức mạnh của
sắc dục như sau: “Sự ham muốn không gì hơn sắc đẹp, sự ham muốn sắc đẹp

ngoài nó không có gì lớn bằng, cũng may chỉ có một mình nó mà thôi. Nếu có
cái gì thứ hai bằng nó thì người khắp thiên hạ không ai có thể tu hành được”
[Nguồn trích dẫn: ].
Còn trong quan niệm của Nho giáo, “thân” cũng là đại diện cho bản
năng tính dục - bản năng rất lớn của con người. Nho giáo chỉ ra bản năng tính
dục là điều xấu mà con người cần phải tránh xa. Chu Hy từng nói: “Vạn ác
dâm vi thủ” - hàng vạn điều ác thì dâm đứng đầu. Chính vì thế, vấn đề tính
dục trong thời kỳ phong kiến Việt Nam với hệ tư tưởng Nho giáo là điều
“cấm kị”, là thứ xấu xa luôn gắn liền với hình ảnh người phụ nữ. Cái nhìn của
xã hội phong kiến về người đàn ông thường là ca ngợi mẫu hình nam nhi,
quân tử, anh hùng, trượng phu. Ngược lại, vai trò của người phụ nữ bị hạ thấp
và trở nên hết sức mờ nhạt. Khổng Tử dạy rằng: “Duy đương nữ tử dữ tiểu
nhân nan giáo dã” (Chỉ có đàn bà và kẻ tiểu nhân là khó dạy vậy). Khổng Tử
và hệ tư tưởng Nho giáo đã xếp người phụ nữ cùng hạng với kẻ tiểu nhân
thấp kém, hèn mạt. Dưới tác động của tư tưởng Nho giáo và những chuẩn
mực đạo đức hà khắc, người phụ nữ Việt Nam đã phải chịu đựng cuộc sống
âm thầm, lặng lẽ, bị coi nhẹ và sống kiếp tầm gửi phụ thuộc vào đàn ông. Họ
không có quyền cất lên tiếng nói cho quyền lợi, nhu cầu của chính mình.
Không chỉ vậy, các học giả kinh điển của Nho giáo đều thống nhất ở quan
điểm cho rằng sắc dục đồi bại bắt nguồn từ sắc đẹp của người phụ nữ, là yêu
khí làm kẻ nam nhi thân bại danh liệt. Vì thế, Tuân Tử dạy rằng: “Ham sắc
19


×