Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bảo hiểm nhân thọ mang lại lợi ích gì cho mỗi cá nhân , gia đình, xã hội? Cho ví dụ minh hoạ .

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.17 KB, 13 trang )

Mục lục

LỜI MỞ ĐẦU
Trong mọi thời kỳ, con người được xem là lực lương lao động chủ yếu, là
yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế- xã hội. song trong cuộc sống lao động, sinh
hoạt hàng ngày, con người không tránh khỏi những rủi ro: tai nạn, ốm đau, bệnh
tật, già yếu, …. Và tác động đến cuộc sống mỗi người. Vì vậy, việc mà mội người
quan tâm là khắc phục và hạn chế những rủi ro không lường trước đó nhằm đảm
bảo cuộc sống cho bản thân cững như người thân. Trên thực tế có rất nhiều biện
pháp được áp dụng như: phòng tránh, cứu trợ, tiết kiệm… nhưng bảo hiểm luôn là
biện pháp hữu hiệu nhất.
Thực tế cho thấy BHXH và BHYT ra đời từ lâu nhưng có phần hạn chế trong
phạm vi bảo hiểm, chưa đáp ứng đủ các nhu cầu của xã hội. bên cạnh vấn đề về
sức khỏe thì con người còn nhiều vấn đề khác cần quan tâm: thất nghiệp, thu nhập
giảm hay đến tuổi về hưu….vấn đề lúc này là phải tìm ra nguồn công cụ giúp mọi
người dành ra phần thu nhập và tiết kiệm chi tiêu hiện tại của mình để đảm bảo
cuộc sống khi hết tuổi lao động.

1


Và BHNT ra đời nhằm mục đích này, nó nằm trong bảo hiểm con người và
bảo hiểm thương mại, là hình thức bổ sung cho BHXH và BHYT nhằm đảm bảo
cuộc sống cho mọi người dân trong xã hội trước những ruiu ro trong cuộc sống
sinh hoạt cũng như lao động hàng ngày đối với thân thể, tỉnh mạng, sự giảm sút
hay mất thu nhập và đáp ứng những nhu cầu khác của người tham gia bảo hiểm. nó
có phạm vi đối tượng tham gia rộng hơn, ngườn quỹ do người tham gia động góp
và số tiền bảo hiểm phụ thuộc vào những quy định mà 2 bên đã thỏa thuận trên hợp
đồng, đồng thời là hình thức tự nguyện.
Với đề tài” Bảo hiểm nhân thọ mang lại lợi ích gì cho mỗi các nhân , gđ,
xã hội? Cho ví dụ minh hoạ ?” chúng ta cùng tìm hiểu những thông tin cơ bản về


BHNT cũng như những lợi ích mà nó màn lại cho người tham gia

Phần 1: cơ sở lý thuyết về bảo hiểm nhân thọ
1. Cơ sở lý thuyết về bảo hiểm nhân thọ
1.1 Khái niệm.
-Bảo hiểm nhân thọ là quá trình bảo hiểm các loại rủi ro có liên quan đến sinh
mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người.
-Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa công ty bảo hiểm với người tham gia bảo
hiểm mà trong đó công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền bảo hiểm (số tiền
bảo hiểm) cho người tham gia khi người tham gia có những sự kiện đã định trước
còn người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm đầy đủ và đúng thời
hạn.
1.2 Những đặc điểm cơ bản của bảo hiểm nhân thọ.
- BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro:
Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với BH phi
nhân thọ, tham gia BHNT người mua có trách nhiệm nộp phí BH cho người BH
theo định kỳ đồng thời người bảo hiểm cũng có trách nhiệm trả một số tiền lớn
(STBH) cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận khi có các sự kiện
bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm này trả khi người được bảo hiểm sống đến một
độ tuổi nhất định, hoặc cho người thừa hưởng khi người được bảo hiểm tử vong
trong thời hạn được bảo hiểm. Số tiền này không thể bù đắp về mặt tình cảm
nhưng bù đắp phần nào những tổn thất về mặt tài chính.
2


Tính tiết kiệm trong bảo hiểm thể hiện ở ngay trong từng cá nhân, gia đình một
cách thường xuyên, có kế hoạch và có kỷ luật. Tiết kiệm bằng cách mua bảo hiểm
khác với các loại hình tiết kiệm khác ở chỗ, người bảo hiểm không những tích luỹ
về mặt tài chính mà còn mang tính bảo vệ cho bản thân, khi có rủi ro xảy ra cho
bản thân thì vẫn được đảm bảo về mặt tại chính, dó chính là đặc điểm cơ bản của

BHNT mà các loại hình tiết kiệm khác không có dược. Điều này giải thích tại sao
nói bảo hiểm vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính bảo vệ.
-BHNT đáp ứng được nhất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo
hiểm:
Khác với nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một mục đích là
góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia BH gặp rủi ro, BHNT do vừa
mang tính bảo vệ vừa mang tính tiết kiệm đã đáp ứng được nhiều mục đích khác
nhau của con người, mỗi mục đích được thể hiện khá rõ trong từng sản phẩm bảo
hiểm. Hợp đồng BHNT đôi khi còn có vai trò như một vật thế chấp để vay vốn
hoặc BHNT tín dụng thường được bán cho các đối tượng đi vay để họ mua xe hơi,
đồ dùng gia đình hoặc dùng cho các mục đích cá nhân khác…Chính vì đáp ứng
được nhiều mục đích khác nhau nên loại hình bảo hiểm này có thị trường ngày
càng rộng và được rất nhiều người quan tâm.
-Các hợp đồng trong BHNT rất đa dạng và phức tạp:
Tính đa dạng và phức tạp trong các hợp đồng BHNT thể hiện ở ngay các sản
phẩm của nó. Mỗi sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cũng có nhiều loại hợp đồng khác
nhau, chẳng hạn BHNT hỗn hợp có các hợp đồng 5 năm, 10 năm. Mỗi hợp đồng
với mỗi thời hạn khác nhau, lại có sự khác nhau vể số tiền bảo hiểm, phương thức
đóng phí, độ tuổi của người tham gia…Ngay cả trong một bản hợp đồng, mối quan
hệ giữa các bên cũng rất phức tạp. Khác với các bản hợp đồng bảo hiêm phi nhân
thọ, trong mỗi hợp đồng BHNT có thể có 4 bên tham gia (ngưòi bảo hiểm, người
được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và người được thụ hưởng quyền lợi bảo
hiểm).
- Phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, vì vậy quá trình định phí
khá phức tạp:
Để đưa được sản phẩm BHNT đến với người tiêu dùng, người BH đã phải bỏ ra
rất nhiều chi phí để tạo ra sản phẩm bao gồm: chi phí khai thác, chi phí quản lý hợp
đồng… Tuy nhiên những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên phí BHNT,
còn phần chủ yếu là phụ thuộc vào:




Độ tuổi của người tham gia bảo hiểm
Tuổi thọ bình quân của con người

3









Số tiền bảo hiểm
Thời hạn tham gia bảo hiểm
Phương thức thanh toán
Lãi suất đầu tư
Tỉ lệ lạm phát, thiểu phát của đồng tiền
………..

Đối với sản phẩm BHNT, để định giá phí BHNT thì phải dựa trên từng vùng địa
lý, từng quốc gia, từng chế độ xã hội, tình hình kinh tế chính trị của mỗi nước khác
nhau là khác nhau. Hơn nữa còn phải nắm vững đặc trưng cơ bản của từng loại sản
phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích chiều hướng phát triển chung của mỗi loại
sản phẩm trên thị trường…
-BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế – xã hội nhất định:
Ở các nước kinh tế phát triển, BHNT ra đời và phát triển hàng trăm năm nay.
Ngược lại có một số quốc gia trên thế giới hiện nay vẫn chưa triển khai được

BHNT, mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của nó. Để lý giải vấn đề này,
hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, cơ sở chủ yếu để BHNT ra đời và phát triển
là điều kiện kinh tế xã hội phát triển .
+Những điều kiện về kinh tế như: tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội
(GDP), tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân một đầu người dân, mức thu nhập
của dân cư, tỷ lệ lạm phát của đồng tiền, tỷ giá hối đoái….
+Những điểu kiện về xã hội bao gồm: Điều kiện về dân số, tuổi thọ bình quân của
người dân, trình độ học vấn, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh.
Ngoài điều kiện kinh tế – xã hội thì môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp BHNT.
2. Các loại hình Bảo hiểm nhận thọ
2.1. Phân loại theo phương thức tham gia bảo hiểm
2.1.1. Bảo hiểm cá nhân
Bảo hiểm cá nhân là tên gọi chung cho các loại sản phẩm bảo hiểm khác
nhau để bảo vệ bạn khỏi những rủi ro và sự cố có thể tạo ra các khoản thiệt hại tài
chính mà bạn không khả năng tự trang trải. Loại hình bảo hiểm này liên quan đến
những rủi ro mà cá nhân bạn có thể phải đối mặt như tai nạn, bệnh tật, tử vong và
thiệt hại đối với tài sản bạn sở hữu hoặc tài sản gây ra với bên thứ ba.
Về bản chất, bảo hiểm cá nhân sẽ bảo vệ bạn một cách toàn diện nhất, từ
những tài sản mà bạn sở hữu như nhà cửa, xe cộ cho đến những hoạt động sinh
4


hoạt, giải trí như đi du lịch và cả sức khỏe của bạn nữa. Trang bị bảo hiểm cá nhân
là lựa chọn sáng suốt để giúp bạn bảo vệ bản thân và người thân khỏi những rủi ro
không đáng có trong cuộc sống.
Người tham gia bảo hiểm cá nhân có thể tham gia cùng lúc một hay nhiều
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khác nhau, hoặc người tham gia bảo hiểm có thể áp
dụng các điều khoản bổ sung cho các loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ cơ bản
trong trường hợp họ cảm thấy cần thiết phải tham gia.


2.1.2. Bảo hiểm nhóm
Bảo hiểm nhóm là loại bảo hiểm theo hình thức tham gia tập thể có kèm theo
danh sách cá nhân là người được bảo hiểm. Loại hình bảo hiểm này thường được
các công ty, doanh nghiệp đăng kí cho nhân viên khi tham gia các hoạt động,
chuyến đi xa để có thể tránh được mọi rủi ro gặp phải.
Đặc điểm của bảo hiểm nhóm:
+ Bảo hiểm nhóm mang nhiều đặc điểm tương tự như hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ dành cho cá nhân nhưng có đặc điểm khác biệt dễ nhận thấy nhất là: hợp
đồng bảo hiểm nhóm bảo hiểm cho một nhóm người, thay vì chỉ bảo hiểm cho một
người hay người trong một gia đình như trong hợp đồng bảo hiểm cá nhân.
“Nhóm” ở đây phải thỏa mãn điều kiện là một nhóm người được thành lập không
vì mục đích tham gia bảo hiểm.
+ Phí trong hợp đồng bảo hiểm nhóm: Phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo
hiểm nhóm được đóng góp thế nào phụ thuộc vào việc hợp đồng đó thuộc loại nào.
Trong hợp đồng bảo hiểm nhóm không cùng đóng phí, toàn bộ số phí do người sử
dụng lao động đóng, nhân viên (người được bảo hiểm nhóm) không phải đóng phí.
Trong hợp đồng bảo hiểm nhóm cùng đóng phí, các thành viên (người được bảo
hiểm nhóm) phải đóng toàn bộ hoặc một phần nào đó phí bảo hiểm, phần còn lại
do người sử dụng lao động nộp.
+ Các bên tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm nhóm. Tham gia ký kết hợp
đồng bảo hiểm nhóm gồm có hai bên là: Công ty bảo hiểm và người tham gia hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ. Trong đó, người tham gia hợp đồng bảo hiểm nhóm là
người hoặc tổ chức quyết định mua loại hình bảo hiểm nhóm cho các thành viên
thuộc nhóm mình. Đây chính là người đàm phán về điều khoản hợp đồng với công
ty bảo hiểm.
+ Những người có thể tham gia bảo hiểm nhóm. Theo nguyên tắc, những
người thuộc các nhóm nhân viên trong một doanh nghiệp (hoặc một đơn vị, tổ
chức), nhóm công đoàn lao động, nhóm người vay – người cho vay có thể tham gia
5



bảo hiểm nhóm. Hợp đồng bảo hiểm nhóm sẽ cung cấp quyền lợi cho những người
thuộc nhóm đó. Đơn bảo hiểm chung cho các cá nhân trong một nhóm và những
người sống phụ thuộc của họ.

-

-

2.2. Phân loại theo rủi ro bảo hiểm
2.2.1. Bảo hiểm tử kì
 Bảo hiểm tử kỳ còn gọi là BH tạm thời hay BH sinh mạng có thời hạn.
Đây là loại hình BH được kí kết bảo hiểm cho cái chết xảy ra trong thời gian đã
quy định của hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì người
được BH không nhận được bất kỳ một khoản tiền nào. Điều đó cũng có nghĩa là
người BH không phải thanh toán số tiền BH cho người được BH. Ngựơc lại, nếu
có cái chết xảy ra trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng, người BH có trách
nhiệm thanh toán số tiền BH cho người thụ hưởng quyền lợi BH được chỉ định.
Loại hình BH này được đa dạng hoá thành các loại hình sau:
• Bảo hiểm tử kỳ cố định
• Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục
• Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi
• Bảo hiểm tử kỳ giảm dần
• Bảo hiểm tử kỳ tăng dần
• Bảo hiểm thu nhập gia đình
• Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên
• Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện
- Đặc điểm:
• Thời hạn BH xác định

• Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời
• Mức phí BH thấp vì không phải lập nên quỹ tiết kiệm cho người được
-

-

BH.
Mục đích:
• Đảm bảo các chi phí mai táng, chôn cất
• Bảo trợ cho gia đình và người thân trong một thời gian ngắn
• Thanh toán các khoản nợ nần về những khoản vay hoặc thế chấp của
người được BH

2.2.2. Bảo hiểm sinh kì

Bảo hiểm sinh kỳ :
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người bảo hiểm cam kết chi trả những
khoản tiền đều đặn trong một khoản thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời

6




người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến hạn thanh
toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào.
Một số loại hình bảo hiểm :
• Bảo hiểm sinh kỳ thuần túy có số tiền BH trả sau
Bảo hiểm niên kim: niên kim trả ngay, niên kim trả sau, niên kim cố định, niên kim
biến đổi, …

- Đặc điểm:
• Trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm trong thời gian xác định hoặc
cho đến khi chết.
• Phí bảo hiểm đóng một lần
• Nếu trợ cấp định kỳ đến khi chết thì thời gian không xác định.
- Mục đích:
• Đảm bảo thu nhập cố định khi về hưu hay khi tuổi cao sức yếu.
• Giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cái khi tuổi
già.
Bảo trợ mức sống trong những năm tháng còn lại của cuộc đời
2.2.3. Bảo hiểm trọn đời

Bảo hiểm trọn đời hay còn gọi là Bảo hiểm trường sinh.
- Bảo hiểm trọn đời là loại hình BHNT mà thời gian bảo hiểm không xác định
và số tiền bảo hiểm được chi trả cho người thừa kế khi người được bảo hiểm
chết. Ngoài ra trong một số trường hợp, loại hình bảo hiểm này còn đảm bảo
chi trả cho người được bảo hiểm ngay khi họ sống đến 99 tuổi (như
Prudential). Loại hình này thường có các loại hợp đồng sau:
+ Bảo hiểm nhân thọ trọn đời phi lợi nhuận
+ BHNT trọn đời có tham gia chia lợi nhận
+ BHNT trọn đời đóng phí liên tục
+ BHNT trọn đời đóng phí một lần
+ BHNT trọn đời quy định số lần đóng phí
Đặc điểm:
• Số tiền BH trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết
• Thời hạn BH không xác định
• Phí BH có thể đóng một lần hoặc đóng định kỳ và không thay đổi trong
suốt quá trình bảo hiểm
Phí BH cao hơn so với sinh mạng có thời hạn vì rủi ro chết chắc chắn xảy ra nên số
tiền BH chắc chắn phải chi trả

-



7


-

Mục đích:
• Đảm bảo chi phí mai táng, chôn cất
• Đảm bảo thu nhập để ổn định cuộc sống gia đình
• Giữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau.

2.3. Phân loại theo hợp đồng
Trong bảo hiểm con người thì bảo hiểm nhân thọ được sử dụng để chỉ loại
hình bảo hiểm con người có tính chất dài hạn.
Ngoài các loại hình bảo hiểm nhân thọ nêu trên, còn có những sản phẩm đi
kèm cho sản phẩm chính đó là sản phẩm bổ xung, có những sản phẩm có thời hạn
chỉ 1 năm, hết 1 năm lại tái tục hợp đồng ví dụ như: Trợ cấp nằm viện, chi phí phẫu
thuật, bảo hiểm thương tật bộ phận vĩnh viễn do tai nạn…
3. Vai trò của bảo hiểm
Bản chất của Bảo Hiểm nói chung và BHNT nói riêng như chúng ta đã biết,
không chỉ nhằm ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra, gây tổn thất về người và tài
sản của xã hội, mà còn nhằm tạo ra dự phòng tài chính cần và đủ để bồi thường tổn
thất ấy,góp phần ổn định sản xuất, đời sống kinh tế-xã hội, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Vì vậy BHNT phát triển rất nhanh, doanh thu phí bảo hiểm ngày càng tăng.
Vai trò của BHNT không chỉ thể hiện trong từng gia đình và đối với từng cá nhân
trong việc góp phần ổn định cuộc sống, giảm bớt khó khăn vể tài chính khi gặp
phải rủi ro, mà còn thể hiện rõ trên phạm vi toàn xã hội. Trên phạm vi xã hội,

BHNTgóp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, huy động vốn trong nước từ những
nguồn tiền mặt nhàn rỗi nằm trong dân cư, kìm hãm lạm phát…từ đó góp phần
thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển. Những vai trò to lớn của BHNT được biểu
hiện cụ thể dưới những hình thức sau:
Thứ nhất: BHNT là biện pháp đầu tư hợp lý cho giáo dục và góp phần tạo nên một
tập quán, một phong cách sống mới.
Đối với những nước đang phát triển, đầu tư cho giáo dục là rất quan trọng và phải
coi là nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên khi chi phí cho giáo dục ngày một tăng
thì nguồn lực của các nước này lại rất hạn hẹp, bên cạnh các biện pháp hỗ trợ giáo
dục mang tính nhất thời, không ổn định, tham gia Bảo hiểm An sinh giáo dục là
một biện pháp hợp lý để đầu tư cho việc học hành của con em nhờ tiết kiệm
thường xuyên của gia đình. Đây cũng là giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu
công bằng xã hội vì đầu tư cho tương lai con em mình không chỉ là trách nhiệm
của xã hội mà còn là trách nhiệm của từng gia đình. Ngoài ra, tham gia BHNT còn
8


thể hiện một nếp sống đẹp thông qua việc tạo cho mỗi người thói quen biết tiết
kiệm, biết lo lắng cho tương lai của người thân, đồng thời giáo dục con em mình
cũng biết tiết kiệm và sống có trách nhiệm đối với người khác. Tham gia BHNT
vừa tạo quyền lợi cho chính mình vừa tạo quyền lợi cho người thân đồng thời đóng
góp vào sự phát triển của xã hội. Con người là nhân tố quyết định sự phát triển.Có
thể nói, BHNT đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết một số vấn đề xã hội
như giáo dục, xoá đói giảm nghèo, giảm thất nghiệp bù đắp tổn thất, bất hạnh trong
cuộc sống, góp phần giảm gánh nặng trách nhiệm xã hội đối với người lao động,
người cao tuổi...
Thứ hai: BHNT góp phần ổn định tài chính cho người tham gia hoặc người được
hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Rủi ro là cái không thể lường trước trong cuộc sống mỗi con người, xã hội càng
phát triển càng có nhiều cơ hội nhưng cũng đồng nghĩa với có nhiều rủi ro đe doạ

cuộc sống con người dẫn đến những bất ổn về tài chính cho cá nhân gia đình cũng
như xã hội. Khi rủi ro chẳng may xảy ra, nếu tham gia BHNT thì bản thân hoặc
người thân, gia đình của bạn sẽ được đảm bảo về mặt tài chính bù đắp phần nào
những tổn thất do rủi ro gây ra. Còn khi rủi ro không xảy ra, thông qua một số loại
hình sản phẩm khác như bảo hiểm trợ cấp hưu trí, bảo hiểm hỗn hợp... người tham
gia vẫn nhận được số tiền bảo hiểm cùng với lãi để sử dụng cho nhu cầu ngày càng
cao của con người.
Thứ ba: BHNT tạo ra một số lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động.
Với dân số 90 triệu dân lại là dân số trẻ, hàng năm riêng số lượng sinh viên ra
trường cũng là cả một thách thức đối với xã hội, việc làm luôn là vấn đề nóng bỏng
khi mà lượng người không có việc làm ngày càng nhiều và trong đó ngoài những
người không có trình độ thì cũng có rất nhiều người có trình độ không được sử
dụng đúng mục đích. Hoạt động BHNT cần một mạng lới rất lớn các đại lý khai
thác bảo hiểm, đội ngũ nhân viên tin học, tài chính, kế toán, quản lý kinh tế... Vì
vậy, phát triển BHNT đã góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm bớt số
lượng người thất nghiệp, bớt đi gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
Thứ tư: BHNT góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và tăng thêm
quyền lợi cho người lao động.

9


Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, hàng năm ngân sách Nhà nước phải chi ra một
lượng tiền khá lớn để chi trả cho các cá nhân, công ty gặp rủi ro với hình thức trợ
cấp (trợ cấp ốm dau trợ cấp mất việc làm..). Các khoản chi này vừa làm thâm hụt
ngân sách Nhà nước, đôi khi lại còn gây tâm lý ỷ lại không cố gắng vì đã có người
khác chịu trách nhiệm giúp mình đối với cả cá nhân cũng như tổ chức. Ngày nay
khi BHNT ra đời, người tham gia đã có thể tự bảo vệ cho mình, chủ động đối phó
với các rủi ro đồng thời tạo ra một khoản tiết kiệm (không may rủi ro xảy ra, bên
cạnh các chế độ bảo hiểm y tế, BHXH người lao động còn được hưởng quyền lợi

từ BHNT nếu họ tham gia). Bên cạnh đó, tham gia bảo hiểm hưu trí tự nguyện
người lao động còn được hưởng khoản trợ cấp hưu trí, tự lo được cho bản thân
giảm gánh nặng cho gia đình cũng như xã hội.
Thứ năm: BHNT là công cụ thu hút vốn đầu tư hữu hiệu.
Phí trong BHNT khá lớn, nhờ vào những đặc trưng cũng như quyền lợi to lớn khi
tham gia BHNT mà ngày nay người ta ngày càng quan tâm đến BHNT, từ đó mà
lượng vốn được huy động từ dân chúng được tăng lên. Ngoài ra, khi các công ty
BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường BH Việt Nam nguồn vốn do họ đầu tư
vào cũng sẽ rất lớn. Thêm vào đó, do đặc điểm của BHNT là mang tính dài hạn,
nguồn vốn huy động được có thể đem đầu tư trong một thời gian dài đây là được
coi là nguồn vốn tuyệt vời nhất cho các dự án kinh tế lớn.
Thứ sáu:Tạo lập các quỹ đầu tư.
Các công ty bảo hiểm là những nhà đầu tư cung cấp nguồn vốn dài hạn cho chính
phủ và các ngành công nghiệp thông qua huy động quỹ từ các cổ đông và người
tham gia bảo hiểm. Đặc biệt đầu tư tài sản là một lĩnh vực mà các công ty bảo hiểm
nhân thọ rất quan tâm, điều này có được nhờ tính chất kinh doanh của họ. Các hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ có hiệu lực nhiều năm, trong thời gian này người tham gia
bảo hiểm đóng những khoản phí đều đặn. Sau khi trích lập quỹ dự trữ để trả cho
các hợp đồng đáo hạn và trả cho những tổn thất, hang năm các công ty BHNT luôn
có những khoản tiền nhàn rỗi rất lớn. Với các khoản tiền nhàn rỗi và vốn tự có của
mình,trước kia họ thường đầu tư vào trái phiếu Chính phủ hoặc các chứng khoán
có lãi suất cố định. Ngày nay, để bắt kịp tốc độ lạm phát và chi phí gia tăng, cũng
như kiếm lời từ thị trường chứng khón đăng nóng hổi,các công ty bảo hiểm đã mở
rộg các hình thức đầu tư, đầu tư vào cổ phiếu , đầu tư xây dựng và kinh doanh bất

10


động sản, cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bảo trợ cho các dự án phát triển
sản phẩm và công nghệ mới.

Nhờ có nguồn vốn của các công ty bảo hiểm, nguồn vón của xã hội được gia tăng
dáng kể. Điều này giúp cho các doanh nghiệp có thể đa dạng khoản vay và giảm
chi phí vốn, qua đố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ bảy: Đẩy mạnh tín dụng
Bảo hiểm là một công cụ hữu hiệu của các tổ chức tín dụng trong viếc hạn chế rủi
ro thu hồi các khoản nợ thong qua việc yêu cầu người đi vay phải tham gia bảo
hiểm tài sản thế chấp hoặc tham gia bảo hiểm nhân thọ bản than họ với giá trị hợp
đồng tương đương với khoản vay. Với điều kiện người hưởng lợi là các tổ chức
cho vay, trong trường hợp người được vay chết hoặc bị thương tật không có khả
năng thanh toán nợ thì các tổ chức tín dụng vân có thể thu hồi nợ trên cơ sở bồi
thường của các công ty bảo hiểm.

Phần 2: ví dụ minh họa lợi ích của bảo hiểm nhân thọ đối với mỗi cá nhân, gia
đình và xã hội ( Bảo hiểm bảo việt)
2.1 Đối với cá nhân,gia định
Năm 2008, anh Nguyễn Văn An đang là lao động chính của gia đình có 2 con
nhỏ và 1 vợ hiện đang làm nông dân có thu nhập thấp và không ổn định. Hiện nay,
anh An có tham gia bảo hiểm nhân thọ cụ thể là loại hình bảo hiểm tử kì với thông
số như sau:
Thời hạn hợp đồng là 20 năm
Số tiền được thanh toán vào cuối năm xảy ra sự kiện tử vong là 600 triệu
Anh An khi tham gia bảo hiểm là 35 tuổi
Theo số liệu thống kê về số lượng nam giới tử vong ở độ tuổi từ 35 đến 55 của
tổng cục thống kê cùng với mức lãi suất kĩ thuật 6 % / năm, tỷ lệ phụ phí là 30%,
công ty bảo hiểm tính được mức phí mà anh An phải trả một lần là 20,520 triệu
đồng.
-

-


Đến năm 2018, lúc này anh An 45 tuổi và không may bị tai nạn giao thông tử
vong khi đi trên đường về nhà. Sau đó, gia đình anh An đã làm những thủ tục giấy
tờ cần thiết gửi lên cơ quan bảo hiểm để xác nhận. Cuối năm 2018, công ty bảo

11


hiểm đã trả toàn bộ 500 triệu đồng và chi phí mai táng, chôn cất cho vợ con anh An
đúng như hợp đồng.
Qua ví dụ trên có thể thấy trong trường hợp này bảo hiểm nhân thọ đã mang
lại lợi ích to lớn cho cá nhân và gia đình anh An. Vì Anh An đang là lao động chính
trong gia đình thời điểm anh tử vong 2 con vẫn đang đi học, do đó nhu cầu tài
chính là rất cần. Việc đóng bảo hiểm đã giúp vợ con anh có tiền để tiếp tục trang
trải cuộc sống và bớt đi gánh nặng tài chính rất nhiều so với không tham gia bảo
hiểm.
2.2. Đối với xã hội
Năm 2010, công ty Bảo Việt bắt đầu mới được người dân xã Quảng Thọ,
huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình biết đến, sản phẩm đầu tiên ngừoi dân ở
đây biết đến là bảo hiểm tử kỳ. Người dân sau khi được tiếp cận với loại bảo hiểm
này thì vô cùng hứng khởi, do tính chất công việc thường xuyên phải ra khơi,
chống chịu sóng gió nên có đến 2/3 số dân làng chài của xã đã nhận thức được lợi
ích của bảo hiểm tử kỳ nên đã tham gia bảo hiểm này với độ tuổi đều nhau . Hiện
nay, trong xã mọi người tham gia bảo hiểm tử kỳ với các thông số như sau:
-

Thời hạn hợp đồng là 5 năm.
Số tiền được thanh toán vào cuối năm xảy ra sự kiện tử vong là 300 triệu
Số tiền bảo hiểm được thanh toán khi hết hạn hợp đồng nếu ngừơi được bảo hiểm
còn sống là 80tr đồng
Tuổi của người được bảo hiểm khi tham gia bảo hiểm là 35 tuổi

Giới tính của người được tham gia bảo hiểm là Nam
Lãi suất kỹ thuật: 5%/năm
Tỷ lệ phụ phí là 25% trên tổng phí bảo hiểm
Theo số liệu thống kê về số lượng nam còn sống theo lứa tuổi thể hiện qua bảng
sau:
Tuổi
35
36
37
38
39
40
Số còn 94809
94589
94354
94101
93828
93532
sống
Ngày 30/9/2013, một siêu bão đi qua tỉnh Quảng Bình mang tên Wutip đã gây
thiệt hại nặng nề về ngừơi và của cho tỉnh Quảng Bình nói chung và xã Quảng Thọ
nói riêng. Cụ thể là 2 cột phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam bị gãy và đè vào
nhà dân , gió kèm theo mưa lớn đã khiến 14 người chết, 30 người bị thương. Trong
số 30 người chết có 22 người đã tham gia bảo hiểm.
12


Sau khi cơn bão đi qua, công ty Bảo Việt đã nhanh chóng đến tận xã để
hướng dẫn những người đã tham gia bảo hiểm làm những thủ tục cần thiết gửi lên
công ty Bảo Việt để xác nhận. Cuối năm 2013, công ty Bảo Việt đã trả toàn bộ

250tr đồng/ người chết và hỗ trợ chi phí mai tang cho gia đình nạn nhân.
Thêm vào đó, Bảo Việt còn ủng hộ tỉnh Quảng Bình số tiền 200trđ để khắc
phục sự cố thiên tai gây ra.
Qua ví dụ trên có thể thấy trong trường hợp này bảo hiểm nhân thọ đã mang
lại lợi ích to lớn không chỉ cho cá nhân người bị nạn mà còn góp phần gánh vác 1
phần khó khăn cho xã hội.

13



×