Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Quan điểm của mac lenin về bản chất của con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.21 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Lời nói đầu
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MAC-LÊNIN VỀ BẢN CHẤT CON
NGƯỜI...................................................................................................................3
I. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội..........3
1. Quan niệm về con người trong triết học trước Mác.....................................3
2. Quan niệm triết học Mác-Lê nin về bản chất con người.............................5
II. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa giữa quan hệ xã
hội.......................................................................................................................8
III. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử..........................................9
Chương II: VÌ SAO PHẢI GIÁO DỤC CON NGƯỜI TOÀN DIỆN?...............11
Chương III: GIÁO DỤC CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
..............................................................................................................................14
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người............................................................14
II. Vấn đề xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay................................15
1. Điều kiện lịch sử hình thành con người Việt Nam....................................15
2. Mặt tích cực và mặt hạn chế của con người Việt Nam..............................15
3. Cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với
con người Việt Nam.......................................................................................16
4. Xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng
hiện nay..........................................................................................................16
Phần kết luận.....................................................................................................18
Tài liệu tham khảo............................................................................................19


LỜI NÓI ĐẦU
Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn luôn tác động vào giới tự
nhiên và cải tạo chúng theo nhu cầu của mình. Việc lao động tạo ra của cải vật
chất phục vụ cho cuộc sống của mình là khả năng đặc biệt của con người để
phân biệt con người với các động vật khác. Như vậy vấn đề nghiên cứu hoạt
động động của con người và sự phát triển con người là một vấn đề đáng quan


tâm nhất là trong triết học. Cũng chính từ đó trong bài tiểu luận này xin đưa ra
một số quan điểm cơ bản về bản chất con người và mối quan hệ giữa con người
với xã hội, từ đó đưa ra một vài quan điểm về việc giáo dục con người toàn diện
ở đất nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, do còn những hạn chế khách quan và chủ quan nên khó tránh
khỏi những thiếu sót cần được bổ sung, rất mong được sự nhận xét và đóng góp
chân thành của thầy cô để bài tiểu luận được hoàn chỉnh hơn. Xin cảm ơn.


CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MAC-LÊNIN VỀ BẢN
CHẤT CON NGƯỜI
I. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội
1. Quan niệm về con người trong triết học trước Mác
- Quan điểm về con người trong triết học phương Đông:
Trước triết học Mác-Lênin, vấn đề bản chất con người vẫn chưa được lý
giải một cách khoa học. Không những chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo mà cả chủ
nghĩa duy vật siêu hình cũng không nhận thức đúng bản chất con người.
Các trường phái triết học tôn giáo ở phương Đông như Phật giáo, Hồi giáo
giải thích vấn đề con người một đấng thần linh tối cao hoặc từ một lực lượng
siêu nhiên chứa đựng yếu tố duy tâm hoặc nhị nguyên luận.
+ Khổng Tử cho rằng “ Thiên mệnh” là đấng tối cao chi phối quyết định
bản chất con người, ở con người (bậc quân tử) đức “Nhân” chính là giá trị cao
nhất.
+ Mạnh Tử lại quy tính thiện của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh
hưởng của tập quán, phong tục xấu nên con người bị nhiễm cái xấu, xa rời cái
tốt. Vì vậy muốn giữ được đạo đức của mình phải tu dưỡng, rèn luyện thường
xuyên.
+ Đổng Trọng Thư cho rằng con người và trời có thể thông hiểu lẫn nhau
(thiên nhiên cảm ứng) với mục đích ứng dụng những quan điểm Nho giáo vào
đời sống xã hội. Đổng Trọng Thư đã làm nghèo nàn đi nhiều giá trị nhân bản,

quy cuộc đời con người vào vai trò quyết định của “thiên mệnh”.
+ Phái đạo gia với đại diện là Lão Tử, quan niệm rằng con người sinh ra từ
“Đạo”. Do vậy con người phải “vô tri”, theo lẽ tự nhiên, thuần phát, trong cuộc
sống không hành động giả tạo, gò ép, trái với tự nhiên. Đó không phải là cái thụ


động, bất động mà là hành động theo bản tính tự nhiên của Đạo. Quan điểm này
thể hiện tư tưởng duy tâm chủ quan của triết học Đạo gia.
- Quan niệm về con người trong triết học Phương Tây trước Mác:
Nói chung các tôn giáo đều cho rằng con người do thượng đế, thần thánh
sinh ra, cuộc sống con người do đấng cao sắp đặt, an bài. Đặc biệt giáo lý Ki Tô
giáo quan niệm cho rằng về bản chất con người là kẻ có tội, con người mang tội
“tổ tông”. Con người không chỉ có thể xác mà còn có linh hồn. Thể xác tại tạm
thời, nó sẽ mất đi nhưng linh hồn thì còn lại. Do vậy, con người phải cứu lấy linh
hồn của mình. Linh hồn hay tinh thần là phần cao quý trong con người, thể xác
là phần thấp hèn, phần gần gũi với súc vật, là phần đáng kinh nhất trong cuộc
sống con người. Do đó, phải thường xuyên chăm sóc phần linh hồn.
Triết học Hy Lạp cổ đại, con người được xem là khởi đầu của tư duy triết
học. Con người và thế giới xung quanh phản chiếu lẫn nhau. Con người là tiểu
vũ trụ trong vũ trụ bao la. Prôtag, một nhà triết học ngụy biện cho rằng “con
người là thước đo của vũ trụ”. Arixtốt cho rằng, chỉ có linh hồn, tư duy, trí nhớ,
ý chí, năng khiếu nghệ thuật là làm cho con người nổi bật lên, con người là bậc
thang cao nhất của vũ trụ.
Thời trung cổ, với sự thống nhất của thần học đối với triết học mà xuất
hiện quan niệm con người là sản phẩm của Thượng đế sáng tạo nên. Mọi mặt
cuộc sống con người, niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người đều do
Thượng đế sắp đặt. Lý trí anh minh sáng suốt của Thượng đế cao hơn trí tuệ nhỏ
nhoi của con người. Con người trở nên nhỏ bé trước cuộc sống, nhưng đành
bằng lòng, can phận với cuộc sống tạm bợ trên trần thế, vì hạnh phúc vĩnh cửu là
ở thiên đường.

Thời phục hưng – cận đại, triết học đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý tính
của con người, xem con người như một thực thể có trí tuệ. Đó là yếu tố quan
trong nhằm giải thoát con người khỏi thế lực thần học thời Trung Cổ áp đặt cho


con người, tiến tới giải phóng con người khỏi khống trị của cường quyền và thần
quyền.
Triết học cổ điển Đức, Cantơ và Hêghen đã quan niệm con người theo
quan điểm duy tâm. Hêghen, đại biểu vĩ đại của chủ nghĩa duy tâm khách quan,
cho rằng chính sự vận động theo những quy luật khách quan của “ý niệm tuyệt
đối” đến mực độ nhất định nó sẽ tha hóa thành giới tự nhiên và con người. Vì
vậy, con người chính là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Bước “diễu hành” của “ý
niệm tuyệt đối” thông qua trình tự ý thức của con người đã đưa con người trở về
với giá trị tinh thần, giá trị bản thân cao nhất trong đời sống của con người.
Phoiơbắc, nhà triết học duy vật vĩ đại nhất trong triết học cổ điển Đức đã
phê phán mạnh mẽ quan điểm duy tâm và tìm cách giải thích nguồn gốc, bản
chất con người theo quan điểm suy vật. Ông đã từng khẳng định: không phải
chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của chúa, mà chính con người tạo ra chúa
theo hình ảnh của con người.
Triết học trước Mác, khi quan niệm về con người dù đứng trên nền tảng
thế giới quan nào cũng không phản ánh đúng bản chất của con người. Họ đều
xem xét con người một cách trừu tượng: tuyệt đối hóa tinh thần hoặc thể xác con
người, tuyệt đối hóa mặt tự nhiên sinh học mà không thấy được mặt xã hội trong
đời sống con người. Tuy nhiên, một số trường phái triết học, một số nhà triết học
cũng đạt được những thành tựu nhất định trong việc phân tích, quan sát con
người, đề cao lý tính, xác lập các giá trị về nhân bản học để hướng con người tới
tự do.
2. Quan niệm triết học Mác-Lê nin về bản chất con người
Kế thừa quan niệm đúng đắn về con người trong lịch sử triết học, Mác với
quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng đã phân biệt rõ hai mặt

sinh vật và xã hội thống nhất trong con người hiện thực.


Mặt sinh học trong con người: con người là một thực thể tự nhiên, là sản
phẩm của tự nhiên, nhưng là sản phẩm cao nhất của tự nhiên. Vừa là sản phẩm,
vừa là chủ thể của tự nhiên.
Tiêu đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là giới tự
nhiên. Con người là động vật cao cấp, là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của
quá trình tiến hóa lâu dài của giới sinh vật. Con người là bộ phận của tự nhiên,
giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người. Cũng giống như các loài động vật
khác, con người phải tìm kiếm mọi điều kiện cần thiết ăn, uống, ở...cho mình
trong tự nhiên, con người cũng phải đấu tranh với thú dữ, với thiên nhiên khốc
liệt để sinh tồn. Chính trong quá trình đó, con người được hình thành và phát
triển cái thân thể vô cơ của mình. Học thuyết tiến hóa của Đác uyn đã chứng
minh rõ điều đó là đúng. Các giai đoạn mang tính sinh học mà con người trải qua
quy định bản tính sinh học của con người. Như vậy, con người trước hết là một
tồn tại sinh học, những thuộc tính sinh học, quá trình tâm - sinh lý nói lên bản
chất sinh học ở con người.
Hiện nay, xuất hiện một số giả thuyết cố tìm cách chứng minh học thuyết
của Đác uyn là không có cơ sở. Họ cho rằng, con người hiện nay là sự lai tạp
giữa người ngoài hành tinh với con người ở trên trái đất, y học đã tạo ra được
con người trong ống nghiệm và thực tế đã thành công như trước kia chúa đã tạo
ra con người bằng cách đó...Điều này hoàn toàn sai lầm và phản khoa học. Trên
thực tế, con người hiện đại có cấu trúc cơ thể không khác gì con người con người
cách đây 50 vạn năm. Nhưng về mặt xã hội thì con người hiện đại có bước tiến
xa hơn về năng lực, sự sáng tạo, lối sống.
Mặt xã hội trong con người: là một thực thể tự nhiên, con người cũng như
các loài động vật khác có những nhu cầu về sinh lý và cũng có các hoạt động
mang tính bản năng: đói phải ăn, khát phải uống, sinh hoạt tình dục...Nhưng giải
quyết những nhu cầu đó ở con người có bước tiến xa hơn so với động vật, kể cả



so với khi con người mới thoát thai khỏi động vật. Chính quá trình sinh thành,
phát triển và mất đi của con người quy định tính sinh học trong đời sống con
người. Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố
duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con
người với thế giới loài vật là mặt xã hội. Trong lịch sử đã có những quan niệm
khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng
công cụ lao động, là “một động vật có tính xã hội” hoặc con người động vật có
tư duy.
Những quan niệm nêu trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh
nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của
bản chất xã hội ấy. Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận
thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã
hội của nó, mà trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất.
C.Mác và Ph.Awngghen đã nêu lên vai trò lao động sản xuất của con
người: “Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói
chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự
phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt của mình-đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định.
Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp
sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải
biến toàn bộ thế giới tự nhiên: “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con
người thì tái sản xuất ra toàn bộ thế giới tự nhiên”.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất.
Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và
tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ tư duy;
xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản



chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng
đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển
của con người luôn bị quy định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống
nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như vậy về sự phù hợp cơ thể với
môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa, quy định
phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan
hệ xã hội giữa người với người, như là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật với cơ sở hạ tầng quyết định
kiến trúc thượng tầng...
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối
quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học
và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc ở; nhu cầu tái
sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh
thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ
giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội
trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của
con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài
vật. Nhu cầu sinh học phải được phân hóa để mang giá trị văn minh của con
người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu
sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau để tạo thành con
người viết hoa, con người tự nhiên-xã hội.
II. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa giữa quan
hệ xã hội


Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người

vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự
nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối
quan hệ đó, suy đến cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa
người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả mối quan hệ khác và mọi
hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên
luận đề nổi tiếng được viết trong Luận cương về Phoiơbắc :”bản chất con người
không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng thoát ly mọi
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định sống
trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều
kiện lịch sử đó, bằng mọi hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những
giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ.
Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó(như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời
đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội) con người mới
bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩ là
phủ nhận mặt tư nhiên trong đời sống con người; trái lại điều đó muốn nhấn
mạnh sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước hết là ở bản chất xã
hội và đấy cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết học trước Mác
không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất với ý
nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không thể là cái duy nhất. Do
đó cần phải thấy được các biểu hiện riếng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá
nhân cả về phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội.
III. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử


Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của

giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là: con người luôn luôn là chủ thể
của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho
rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục. Cái học thuyết
ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà
giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm Biện chứng của tự
nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử phát triển dần
dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không
phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra
lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn
của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của
từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một
cách có ý thức bấy nhiêu”.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát
triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự
nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm
phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích
của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của
chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự
tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã
hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt
động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp
với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người


thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ
lịch sử xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai

đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con ngườu trong mối quan
hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng không phải
thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín,
mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là
“tổng hòa các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch
sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua, bản chất con người cũng vận động
biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ
quy định tương ứng ( mặc dù không trùng khắp) với sự vận động và biến đổi của
bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hoàn cảnh ngày càng ngày mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính
là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh
hướng phát triển nhằm đạt tới giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định
hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực
và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực
tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và
năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất.
Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai
đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
CHƯƠNG II: VÌ SAO PHẢI GIÁO DỤC CON NGƯỜI TOÀN
DIỆN?
Con người Việt Nam bên cạnh những phẩm chất tiên tiến, cao đẹp, tạo nên
sức mạnh nội sinh, sức mạnh mềm, giá trị vượt trội; vẫn còn tồn tại những nét
tính cách thủ cựu, lạc hậu, những yếu tố tiêu cực, những khuynh hướng tư tưởng,


văn hóa lệch lạc…, đang trở thành vật cản kìm hãm sự phát triển nhanh và bền
vững của đất nước, làm tăng nguy cơ tụt hậu và chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Hơn thế nữa, sinh thời Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến giáo dục toàn
diện, với sự cân bằng cả về giáo dục đức lẫn tài và mối quan hệ giữa hai mặt đó

trong sự hoàn thiện nhân cách của con người mới – con người xã hội chủ nghĩa.
Người từng dạy: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt:
đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hoá, kỹ thuật, lao động và
sản xuất". Đồng thời Người còn chỉ rõ: “Việc giáo dục gồm có: đức, trí, thể,
mỹ”. Người quan niệm: "Về cách học, phải lấy tự học làm cốt". Điều này tương
đồng với quan điểm của Lênin: “Học, học nữa, học mãi”. Tư tưởng tự học của
Người có thể quy thành 5 vấn đề:
1 - Trong việc tự học, điều quan trọng hàng đầu là xác định rõ mục đích
học tập và xây dựng động cơ học tập đúng đắn.
2 - Phải tự mình lao động để tạo điều kiện cho việc tự học suốt đời.
3 - Muốn tự học thành công, phải có kế hoạch sắp xếp thời gian học tập,
phải bền bỉ, kiên trì thực hiện kế hoạch đến cùng, không lùi bước trước mọi trở
ngại.
4- Phải triệt để tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi phương tiện, mọi hình thức
để tự học.
5- Học đến đâu, ra sức luyện tập thực hành đến đó.
Thông qua tư tưởng của Người về giáo dục con người toàn diện, vấn đề
hiện nay là phải tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh để khuyến khích, cổ vũ,
phát huy mặt tích cực, khắc phục có hiệu quả mặt hạn chế, tiêu cực trong con
người Việt Nam; đồng thời tiếp thu bổ sung những điểm mà con người Việt Nam
còn thiếu để phát triển toàn diện hơn. Muốn vậy, chúng ta phải nhận thức đầy đủ,
sâu sắc quan điểm, tư tưởng của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam, phải biến nhận thức của Đảng thành nhận thức chung của toàn


xã hội; tư tưởng đó phải được thấm sâu đến mọi người, mọi đối tượng. Các cấp
ủy đảng, các ngành, đoàn thể, tổ chức, cộng đồng, gia đình và mỗi cá nhân cần
xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam; đồng thời phải coi đây là một
nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt. Từ đó, hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục,

đào tạo và các hoạt động khác vào việc xây dựng con người phát triển về trí tuệ,
đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật; làm
cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người phát triển và tự hoàn thiện
nhân cách; làm cho yếu tố con người thực sự trở thành nhân tố quyết định sự
phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Đây là cống hiến to lớn và quý báu của Người vào lý luận dạy - học của
nước ta mà trong suốt bao năm qua ngành Giáo dục và Đào tạo đã triển khai thực
hiện một cách hiệu quả. Ngày nay, xã hội chúng ta là một xã hội học tập, học tập
không ngừng. Đảng và Nhà nước đã xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu và
đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai của nước nhà; chỉ có đẩy mạnh giáo
dục – đào tạo mới có thể đưa đất nước sớm “sánh vai cùng các cường quốc năm
châu” như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong đợi. Riêng đối với ngành Giáo dục,
không những ngày càng đẩy mạnh đổi mới giáo dục, đổi mới phương pháp dạy
và học theo hướng lấy người học làm trung tâm mà việc học đi đôi với hành đã
thực sự được chú trọng, qua đó góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng
giáo dục – đào tạo nước nhà thời gian qua.
Trên cả nước, mạng lưới cơ sở giáo dục không ngừng được mở rộng; các
loại hình giáo dục ra đời đáp ứng như cầu xã hội; các trung tâm học tập cộng
đồng, các cơ sở giáo dục thường xuyên ngày càng được mở rộng với sự tham gia
của toàn xã hội. Công tác xã hội hoá chưa bao giờ được coi trọng và đẩy mạnh
như ngày nay. Để làm được điều đó, chính là nhờ chúng ta đã nhận thức đúng
đắn được quan điểm của Người về "Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng" để


phát triển tới quan điểm đúng đắn “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, “Đầu tư
cho giáo dục là đầu tư cho tương lai của đất nước, của dân tộc”.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục là một hệ thống
quan điểm rất phong phú và hoàn chỉnh. Nếu những quan điểm ấy đã được thực
hiện, từ đó đem lại những thành tựu và niền tự hào to lớn cho nền giáo dục mới
Việt Nam trong mấy thập niên cách mạng và kháng chiến thì trong thời đại ngày

nay, với sự phát triển không ngừng của đất nước cũng như của nhân loại ngày
càng đặt ra nhiều đòi hỏi lớn lao đối với nền giáo dục và đào tạo nước nhà, đòi
hỏi chúng ta lại càng phải đẩy mạnh nghiên cứu những quan điểm trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục, từ đó có những ứng dụng thích hợp, kịp thời,
nhằm đưa sự nghiệp giáo dục nước nhà tiến lên phía trước, đáp ứng sự mong đợi
của toàn xã hội và yêu cầu hội nhập, phát triển mà xã hội đã đặt ra.
Tìm hiểu và vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục,
chính là để mở ra con đường hội nhập và phát triển đúng đắn của Việt Nam
chúng ta giai đoạn hiện nay và cả sau này, với đường lối chiến lược “đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”. Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta xác định rõ
“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư
cho tương lai của đất nước, của dân tộc”, chính là sự kế thừa và phát huy những
tư tưởng đúng đắn, sáng suốt với tầm nhìn vượt trước thời đại của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về văn hóa giáo dục. Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh mãi mãi soi sáng chúng ta trên con đường xây dựng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trên nền tảng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; trong đó giáo dục và đào tạo luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Trong yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay, không gì
hơn là chúng ta bắt đầu học tập và vận dụng từ chính những tư tưởng đạo đức
của

Người

về

giáo

dục




đào

tạo.

[ />

option=com_content&view=article&id=2737:giao-dc-toan-din--to-ra-con-ngi-toan-din&catid=69:i-miphng-phap-dy-hc&Itemid=96]

CHƯƠNG III: GIÁO DỤC CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là tư tưởng về cả cá nhân, cộng
đồng, giai cấp, dân tộc và về cả nhân loại.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giả phóng giai cấp,

giải phóng nhân dân lao động là tư tưởng về sự kết hợp giữa dân tộc với giai
cấp, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghãi xã hội
Độc lập, tư do là quyền bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
Giải phóng dân tộc trước hết phải do chính các dân tộc thực hiện.
Giải phóng dân tộc phả gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng nhân
dân lao động.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vừa là mục tiêu, vừa là động

lực của cách mạng là tư tưởng sự nghiệp cách mạng, thành quả cách mạng
của dân, do dân và vì dân

Độc lập, tự do gắn với xã hội của dân, vì dân.
Quyền dân chủ của nhân dân.
Giải phóng con người bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
Trách nhiệm, công việc, chính quyền, đoàn thể, quyền hành của dân.
 Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người còn là tư tưởng về phát triển con
người toàn diện
Xây dựng con người phát triển toàn diện, tức là quá trình làm phát triển
hoàn toàn những năng lực sãn có của con ngườu
Tiêu chuẩn cơ bản hàng đầu của con người toàn diện là đức và tài, trong
đó đức là gốc.


Nguyên tắc cơ bản để xây dựng con người toàn diện là tu dưỡng, rèn luyện
trong hoạt động thực tiễn, thực hiện đồng bộ quá trình giáo dục và tự giáo dục
II. Vấn đề xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay
1. Điều kiện lịch sử hình thành con người Việt Nam
Sự tác động của môi trường – địa lý
Đời sống kinh tế
Lịch sử giữ nước
Môi trường văn hóa
2. Mặt tích cực và mặt hạn chế của con người Việt Nam
Mặt tích cực
+ Lòng yêu nước, ý chí tự cường dân tộc.
+ Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng động gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã
– tổ quốc.
+ Lòng nhân ái, khoan dung, trong nghĩa tình, đạo lý.
+ Đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động.
+ Tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống.
Mặt hạn chế:
+ Hạn chế của truyền thống dân chủ làng xã

+ Tập quán sản xuất tiểu nông; quá đề cao vai trò của kinh nghiệm
+ Tính hai mặt của một số truyền thống.
3. Cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với con
người Việt Nam
Tình hình thế giới với cuộc cách mạng khoa học, công nghệ và quá trình
toàn cầu hóa. Hòa bình, hợp tác, phát triển đang trở thành xu thế lớn của giai
đoạn hiện nay.


Tình hình trong nước với quá trình đổi mới; cơ sở vật chất, kỹ thuật của
nền kinh tế được tăng cường; chính trị, xã hội ổn định cùng với các nguy cơ
vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau.
4. Xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng
hiện nay
Hình thành và phát triển ở con người Việt Nam những đức tính cơ bản sau:
+

Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân

tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn,
lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+

Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. Có lối sống

lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, tôn trọng kỷ cương
phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường
sinh thái. Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng
tạo, năng suất hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.

Để đạt được những đức tính cơ bản trên, người Việt Nam tập trung đầu tư
phát triển vào những lĩnh vực chủ yếu sau:
+ Lĩnh vực kinh tế
+ Lĩnh vực chính trị
+ Lĩnh vực xã hội
+ Lĩnh vực giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ
+ Lĩnh vực văn hóa.


PHẦN KẾT LUẬN
Quan niệm triết học Mác - Lênin về con người là hoàn toàn đúng đắn.
Triết học Mác - Lê nin đã vạch ra được bản chất của con người và mói quan hệ
biện chứng giữa cá nhân và xã hội. Qua đó, giúp chúng ta nhận thức được một
cách đúng đắn về vai trò của con người trong cuộc sống.
Ở nước ta hiện nay, dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường đã làm cho
bộ mặt của nước ta thay đổi rõ rệt, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những phẩm chất tiên tiến, cao đẹp, tạo nên sức mạnh nội
sinh, sức mạnh mềm, giá trị vượt trội; vẫn còn tồn tại những nét tính cách thủ
cựu, lạc hậu, những yếu tố tiêu cực, những khuynh hướng tư tưởng, văn hóa lệch
lạc…, đang trở thành vật cản kìm hãm sự phát triển nhanh và bền vững của đất
nước, làm tăng nguy cơ tụt hậu và chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tức trái lại với
mối quan hệ biện chứng giữa con người và xã hội mà Mác đã vạch ra. Do đó
việc nắm vững lý luận về con người trong triết học Mác - Lênin là điều cần thiết
phát triển con người có ý thức cộng đồng, tích cực xây dựng cuộc sống và đất
nước.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chuyên đề triết học (tài liệu tham khảo dành cho học viên cao học không
chuyên), Đại học Thái Nguyên, 8/2019.

2. />3. />option=com_content&view=article&id=2737:giao-dc-toan-din--to-ra-con-ngitoan-din&catid=69:i-mi-phng-phap-dy-hc&Itemid=96
4. />



×