Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO
THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LÊ XUÂN QUẢNG

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO
THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LÊ XUÂN QUẢNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ THỊ NHUNG

HÀ NỘI – 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn đảm
bảo độ tin cậy. Những kết luận khoa học của Luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình khoa
học nào khác.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Tác giả

Lê Xuân Quảng


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu, được sự hướng dẫn, giảng dạy
của các thầy cô, tôi đã hoàn thành Luận văn thạc sĩ Luật học. Qua đây, tôi
xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng các thầy cô Trường đại học Mở Hà Nội, đã tận
tình giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt
thời gian học tập tại trường.
Đặc biệt, tôi xin gửi lòng biết ơn sâu sắc nhất đến TS. Vũ Thị Nhung,
người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và
thực hiện luận văn.


Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Tác giả

Lê Xuân Quảng


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 4
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn .............................................. 5
7. Kết cấu luận văn ........................................................................................ 6
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP
LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG HOẠT
ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI......................................................... 7
1.1.Khái quát chung về người tiêu dùng và yêu cầu bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại ......................................... 7
1.1.1.Người tiêu dùng và sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.. 7
1.1.2. Khái quát về hoạt động quảng cáo thương mại ................................. 15
1.1.3. Yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo
thương mại ................................................................................................... 20

1.2.Kinh nghiệm pháp luật các nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong hoạt động quảng cáo thương mại ....................................................... 22
1.2.1.Quy định pháp luật về quảng cáo thương mại của Vương quốc Anh 23
1.2.2.Quy định pháp luật về quảng cáo thương mại của Hoa Kỳ................ 24
1.2.3.Quy định pháp luật về quảng cáo thương mại của Trung Quốc .............. 25
1.2.4. Quy định pháp luật về quảng cáo thương mại của một số nước khác... 26
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ
BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG
QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY........................... 28
2.1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt


động quảng cáo thương mại......................................................................... 28
2.1.1.Khái quát về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt
động quảng cáo thương mại......................................................................... 28
2.1.2. Thực trạng các quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại .............................................. 32
2.2. Thực trạng thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
hoạt động quảng cáo thương mại ................................................................. 49
2.2.1.Thực tiễn hoạt động quảng cáo thương mại ảnh hưởng quyền lợi của
người tiêu dùng ............................................................................................ 49
2.2.2.Những vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật
quảng cáo với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ............................. 60
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢNG
CÁO THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM .......................................................... 67
3.1. Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại ....................................... 67
3.1.1.Nghiên cứu việc sửa đổi khái niệm “quảng cáo thương mại” theo hướng

phân biệt rõ với hoạt động “trưng bày giới thiệu hàng hoá, dịch vụ” ............ 67
3.1.2. Giải pháp đối với một số hoạt động quảng cáo bị cấm ..................... 68
3.1.3.Nghiên cứu xây dựng Nghị định riêng về xử lý vi phạm hành chính trong
hoạt động quảng cáo, trong đó bao gồm quảng cáo thương mại .................... 71
3.1.4.Nghiên cứu việc sửa đổi các quy định về trình tự, thủ tục thực hiện
quảng cáo thương mại theo xu hướng cải cách hành chính ........................ 72
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại............................. 73
3.2.1.Các giải pháp hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại............................. 73


3.2.2.Các giải pháp hoàn thiện các thiết chế liên quan nhằm bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng ....................................................................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81
NHỮNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN
VĂN ................................................................................................................ 85


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NTD

: Người tiêu dùng

BVQLNTD

: Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng


TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

iSEE

: Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường

ASA

: Cơ quan giám định các tiêu chuẩn quảng cáo

VINASTAS

: Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam

CI

: Tổ chức quốc tế người tiêu dùng


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các hoạt động xúc tiến thương mại ngày càng phát triển với nhiều hình
thức, quy mô khác nhau, kéo theo nhiều hệ quả nhất định. Quảng cáo thương
mại là một trong những hoạt động xúc tiến thương mại quan trọng giúp các

doanh nghiệp giới thiệu về hoạt động sản xuất hàng hoá, dịch vụ của mình.
Trong đời sống hiện nay, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp các hoạt động
quảng cáo diễn ra thường xuyên, phổ biến trên các phương tiện thông tin đại
chúng hoặc trong các phương tiện sinh hoạt thường ngày. Có thể nói, chưa
bao giờ hoạt động quảng cáo thương mại lại có vai trò quan trọng không chỉ
đối với các thương nhân, mà còn có tầm ảnh hưởng lớn đến cả người tiêu
dùng như hiện nay. Quảng cáo không chỉ đem lại lợi ích cho doanh nghiệp,
mà còn góp phần định hướng cho người tiêu dùng trong việc lựa chọn sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ.
Trong hoạt động thương mại, yếu tố lợi nhuận luôn được đặt lên hàng
đầu. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, các thương nhân đã vì lợi ích trước mắt
mà kinh doanh những hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng, quảng cáo sai sự
thật, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng (NTD). Thị trường
kinh doanh càng sôi động, thì các doanh nghiệp càng cố gắng tạo ra nhiều
hình thức thúc đẩy kinh doanh mạnh mẽ hơn, trong đó có việc tận dụng triệt
để ưu thế của hoạt động quảng cáo thương mại. Bất cứ một hoạt động kinh
doanh nào cũng cần đặt ra vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD. Bản thân hoạt động
quảng cáo thương mại là hoạt động mang tính chất mở, dễ bị lạm dụng để
thực hiện các hành vi bất chính. Hình thức tổ chức của hoạt động quảng cáo
khá đa dạng, khó kiểm soát và thẩm định chất lượng, nên số lượng các vụ việc
vi phạm pháp luật xảy ra khá nhiều trong thực tế. Thực tế, quá trình các
thương nhân thực hiện hoạt động quảng cáo đang tiềm ẩn những rủi ro cho lợi

1


ích khách hàng. Cùng với sự bùng nổ thông tin như hiện nay làm cho hoạt
động quảng cáo thương mại ngày càng khó kiểm soát, hàng loạt vụ việc xâm
hại đến quyền và lợi ích chính đáng của NTD xảy ra khiến cho vấn đề bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trở nên nóng bỏng. Bởi vậy, với việc lựa chọn đề

tài “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương
mại theo pháp luật Việt Nam”, tác giả muốn khẳng định tính cấp thiết và ý
nghĩa to lớn của công tác bảo vệ quyền lợi NTD trước những hoạt động quảng
cáo đang diễn ra phổ biến trong điều kiện kinh tế thị trường; mong muốn tìm
kiếm giải pháp nâng cao trách nhiệm và đạo đức kinh doanh của giới thương
nhân trong hoạt động quảng cáo thương mại phải xuất phát từ bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của NTD, cũng như trong các hoạt động thương mại nói
chung. Đây cũng là lý do mà tác giả lựa chọn đề tài để làm Luận văn Thạc sĩ
luật học.
2. Tình hình nghiên cứu

Dưới góc độ luật học, hầu hết các công trình nghiên cứu trước đây
thường tách riêng vấn đề quảng cáo thương mại và bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng để nghiên cứu độc lập. Gần đây, pháp luật về quảng cáo cũng như
pháp luật quảng cáo với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được đề
cập đến trong một số công trình nghiên cứu. Công trình lớn nhất là Luận án
Tiến sỹ luật học của tác giả Nguyễn Thị Dung: “Pháp luật về xúc tiến thương
mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - Lý luận, thực tiễn và giải pháp
hoàn thiện” (năm 2006). Cho đến nay, đây là công trình nghiên cứu có hệ
thống và đầy đủ nhất về cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề hoàn thiện pháp
luật về xúc tiến thương mại ở Việt Nam, trong đó, vấn đề pháp luật quảng cáo
với việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được phân tích và đưa ra
phương hướng hoàn thiện luật một cách khái quát nhất.
Bên cạnh đó, có thể kể đến những công trình khác như: “Pháp luật về
quảng cáo, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ luật học của

2


Hà Thu Trang, năm 2014; “Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh

trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ luật học của Vũ Vân
Anh, năm 2018; “Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay”,
Luận văn Thạc sĩ luật học của Bùi Thị Long, năm 2018; “Trách nhiệm của
thương nhân trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện
nay”, Luận văn Thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Thu Hiền, năm 2014; “Thực
thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của hệ thống các cơ quan nhà
nước tại Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ luật học của Nguyễn Hoàng Mỹ Linh,
năm 2014... Ngoài ra, còn có các bài viết như: “Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong pháp luật cạnh tranh” của ThS. Ngô Vĩnh Bạch Dương, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật; “Pháp luật và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng” của TS. Đặng Vũ Huân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11/2000.
Năm 2007, tác giả Đào Tuyết Vân đã có công trình nghiên cứu: “Pháp luật
quảng cáo với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùn” tập trung phân tích về
pháp luật quảng cáo nói chung đặt trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng...
Có thể nhận định rằng, các công trình nghiên cứu trên đây mới chỉ nêu
ra vấn đề pháp luật quảng cáo nói chung liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi
NTD mà chưa đi sâu phân tích và nghiên cứu về quảng cáo thương mại. Trên
thực tế, vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD trong hoạt động quảng cáo thương mại
ở Việt Nam còn khá mới mẻ, cho nên, việc nghiên cứu về quyền lợi NTD và
pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD ở lĩnh vực này chưa được quan tâm một cách
thoả đáng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn đặt ra mục đích nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận và thực
tiễn của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng
cáo thương mại, từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm bảo vệ hiệu quả quyền lợi
người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại ở Việt Nam.

3



Để đạt được mục đích nghiên cứu, Luận văn đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về bảo vệ người tiêu
dùng, về hoạt động quảng cáo thương mại; yêu cầu bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại; đồng thời, luận văn cũng
nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật của một số nước về bảo vệ người tiêu dùng
trong hoạt động quảng cáo thương mại.
Thứ hai, khái quát, phân tích và đánh giá thực trạng các quy định pháp
luật, thực trạng thực thi pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động
quảng cáo thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động
quảng cáo thương mại ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Quảng cáo thương mại là cầu nối giữa nhà kinh doanh với người tiêu
dùng, là một hoạt động xúc tiến thương mại của các thương nhân nhằm nâng
cao hiệu quả kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận. Điều này rất có thể xâm hại
quyền lợi của người tiêu dùng nếu như không được sự điều chỉnh và kiểm
soát chặt chẽ của pháp luật. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của luận văn này là
hệ thống các quy định pháp luật cũng như quá trình thực thi pháp luật về bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại ở Việt
Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là pháp luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng đặt trong mối tương quan với pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng
cáo thương mại do thương nhân tiến hành.
5. Phương pháp nghiên cứu


Để thực hiện nghiên cứu các vấn đề thuộc đề tài này, tác giả đã sử dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác -

4


Lênin, những quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, luận văn
cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp phân tích, bình luận, diễn giải, so sánh và phương pháp
lịch sử được sử dụng chủ yếu trong Chương 1 khi nghiên cứu các vấn đề lý
luận về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo
thương mại.
Phương pháp so sánh luật học, phân tích, tổng hợp, thống kê, đánh giá
được sử dụng chủ yếu trong Chương 2 khi khái quát, đánh giá thực trạng quy
định pháp luật và thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
hoạt động quảng cáo thương mại nhằm chỉ ra ưu điểm và hạn chế của pháp
luật trong lĩnh vực này.
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng ở Chương 3 khi xem
xét, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo
thương mại.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Về mặt lý luận, luận văn là công trình chuyên khảo góp phần xây dựng
các luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật, nhằm nâng cao tính minh
bạch, khả thi của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt
động quảng cáo thương mại; tạo hành lang pháp lý thuận lợi góp phần bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng; nâng cao hiệu quả quản
lý nhà nước, hoàn thiện cơ chế và các thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Về mặt thực tiễn, Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị cho công
tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập về vấn đề pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại.

5


7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại ở Việt Nam hiện
nay
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng
cáo thương mại ở Việt Nam.

6


Chương 1: KHÁI QUÁT NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP
LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG HOẠT
ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI
1.1.Khái quát chung về người tiêu dùng và yêu cầu bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại
1.1.1.Người tiêu dùng và sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

1.1.1.1.Khái niệm người tiêu dùng
Trên thế giới, pháp luật mỗi quốc gia chủ yếu dựa vào tư cách chủ thể
và mục đích sử dụng để quy định thế nào là người tiêu dùng. Hầu hết theo hai
quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất (nghĩa hẹp): Người tiêu dùng là cá nhân mua và sử
dụng hàng hóa hoặc dịch vụ. Như vậy, người tiêu dùng bao gồm người mua
hàng hóa (mua lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, quần áo, thiết bị máy
móc, đồ dùng sinh hoạt, phương tiện đi lại...) và người sử dụng dịch vụ (dịch
vụ bảo hiểm, vận tải, vui chơi, giải trí, khám chữa bệnh, sửa chữa, lắp đặt
thiết bị...). Cách quy định này thể hiện rõ luật bảo vệ người tiêu dùng chỉ bảo
vệ đối với người nhận hàng hóa, dịch vụ để sử dụng cho mục đích cá nhân, sử
dụng trong hộ gia đình, mà không vì mục đích thương mại hoặc sử dụng vào
quá trình sản xuất vì pháp nhân có những vị thế và điều kiện tốt hơn so với cá
nhân trong quan hệ với nhà cung cấp nên luật bảo vệ người tiêu dùng không
cần thiết phải can thiệp vào quan hệ tiêu dùng của họ. Cụ thể, trong bản
Hướng dẫn của Liên Hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng ban hành từ năm
1985 và đã được hiệu chỉnh vào năm 1999, khái niệm người tiêu dùng không
được giải thích một cách rõ ràng. Tuy nhiên, theo bản hướng dẫn này người
tiêu dùng được hưởng 8 quyền sau đây: (i) Quyền được thỏa mãn những nhu
cầu cơ bản, (ii) quyền được an toàn, (iii) quyền được thông tin, (iv) quyền
được lựa chọn, (v) quyền được lắng nghe, (vi) quyền được khiếu nại và bồi
thường, (vii) quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng, (viii) quyền được có

7


môi trường sống lành mạnh và bền vững [1, Tr.33]. Xem xét tổng thể nội
dung của 8 quyền, có thể thấy rằng, đây chỉ có thể là các quyền mà chỉ chủ
thể là cá nhân con người mới đầy đủ tư cách để thụ hưởng. Nói cách khác, 8
quyền năng này không thể trao trọn vẹn cho chủ thể là tổ chức. Điều này cũng

có nghĩa rằng, trong quan niệm của bản Hướng dẫn vừa nêu, người tiêu dùng
chỉ được hiểu là cá nhân người tiêu dùng.
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1993 của Trung Quốc tuy
không có điều khoản riêng giải thích khái niệm người tiêu dùng, nhưng tại
Điều 2 của Luật này có quy định: “Trường hợp người tiêu dùng, vì nhu cầu
cuộc sống, mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ thì các quyền và lợi ích hợp pháp
của mình sẽ được bảo vệ theo quy định của Luật này và trường hợp Luật này
không quy định thì sẽ được bảo vệ theo các quy định khác có liên quan của
pháp luật”[33]. Điều luật này đã ngụ ý, người tiêu dùng theo quan niệm của
pháp luật Trung Quốc chỉ là cá nhân (mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ vì nhu
cầu sinh hoạt của mình chứ không phải vì mục đích kinh doanh hoặc hoạt
động nghề nghiệp).
Các quy định về bảo vệ người tiêu dùng ở Hoa Kỳ được quy định trong
pháp luật của liên bang và pháp luật của các bang. Theo các chuyên gia pháp
luật của Hoa Kỳ, khái niệm người tiêu dùng cũng chỉ được quan niệm là cá
nhân người tiêu dùng. Cụ thể, “người tiêu dùng là cá nhân tham gia giao dịch
với mục đích chủ yếu vì nhu cầu cá nhân hoặc sinh hoạt hộ gia đình.”[34]
Điều 3 của Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 1999 của Malaysia giải
thích: “Người tiêu dùng là người mua hoặc sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ
cho mục đích sinh hoạt cá nhân hoặc sinh hoạt gia đình... và không gồm việc
mua hoặc sử dụng hàng hóa vì mục đích chính để bán lại hoặc đưa vào quá
trình sản xuất hàng hóa, dịch vụ khác hoặc để dùng cho việc sửa chữa, gắn
thêm vào hàng hóa khác.”[35]
Điều 3 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Thái Lan năm 1979 giải thích:

8


“Người tiêu dùng là người mua hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc được chào mua
hàng hóa hoặc dịch vụ từ một người kinh doanh, bao gồm người thực sự sử

dụng hàng hóa, tiêu thụ dịch vụ có nguồn gốc từ người kinh doanh mặc dù
người này không trực tiếp trả tiền cho việc sử dụng hàng hóa, tiêu thụ dịch vụ
đó”. Trong khi đó, cũng tại điều khoản này, “người kinh doanh” được giải
thích là người bán hàng, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu để bán hàng, người mua
hàng để bán lại, người cung cấp dịch vụ, người tiến hành việc quảng
cáo.”[36]
Quan điểm thứ hai (nghĩa rộng): Người tiêu dùng bao gồm cả cá nhân
và tổ chức mua và sử dụng hàng hóa vì mục đích tiêu dùng hoặc mục đích
thương mại. Người tiêu dùng ngoài mục đích mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ
để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thì còn có thể phục vụ cho mục đích tái sản xuất
kinh doanh (mua sản phẩm này để chế biến, sản xuất thành sản phẩm khác, ví
dụ như mua vải để may thành quần, áo và mang đi bán). Quan điểm này mở
rộng về đối tượng được bảo vệ theo luật bảo vệ người tiêu dùng. Trong số
này, phải kể đến Ấn Độ và Đài Loan (Trung Quốc). Luật Bảo vệ người tiêu
dùng của Ấn Độ năm 1986 có một số quy định như sau (Điều 2(1d) và
2(1m)): Điều 2(1d): “Người tiêu dùng là bất cứ người nào mua ... hàng hóa...
mà không có mục đích để bán lại hoặc vì mục đích thương mại khác”. Điều
2(1m) giải thích chữ “người” (nhân) ở đây được hiểu bao gồm: hãng (doanh
nghiệp), cá nhân, hộ gia đình, hợp tác xã, tổ chức xã hội.[37]
Quy định này đã khắc phục được hạn chế của cách quy định trên vì
không phải lúc nào pháp nhân cũng là người đủ khả năng để đối mặt được với
các vi phạm từ phía nhà sản xuất kinh doanh và hậu quả là nếu luật bảo vệ
người tiêu dùng không bảo vệ họ như đối với các cá nhân tiêu dùng khác thì
quyền lợi của một nhóm đối tượng khá lớn trong xã hội bị xâm phạm, gây
thiệt hại chung cho toàn xã hội.
Có thể nói, xu hướng chung mang tính thông lệ trong pháp luật bảo vệ

9



người tiêu dùng ở các quốc gia trên thế giới (nhất là các quốc gia phát triển và
các quốc gia thuộc khu vực ASEAN) là người tiêu dùng là cá nhân mua sắm
hàng hóa, dịch vụ không nhằm mục đích hoạt động kinh doanh, thương mại
hoặc hoạt động nghề nghiệp chuyên nghiệp.
Ở Việt Nam, theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng thì: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch
vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”. Đây là
định nghĩa phù hợp với hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người tiêu
dùng.
Về quyền của người tiêu dùng, theo Nghị quyết số 39/248 ngày
09/4/1985 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua “Bản hướng dẫn bảo
vệ Người tiêu dùng”, thì người tiêu dùng có tám quyền cơ bản sau:
(i) Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản: Là quyền được cung
cấp những sản phẩm và dịch vụ cơ bản, thiết yếu như các nhu cầu về lương
thực, thực phẩm, quần áo, nhà ở, đi lại, giáo dục, vui chơi, giải trí, chăm sóc
sức khỏe, dịch vụ công cộng...;
(ii) Quyền được an toàn: Là quyền được bảo vệ để không phải sử dụng
các sản phẩm hàng hóa, quy trình sản xuất và dịch vụ nguy hại cho sức khỏe
hoặc đời sống của người tiêu dùng;
(iii) Quyền được cung cấp thông tin: Người tiêu dùng được quyền có
các số liệu và dữ liệu cần thiết để trên cơ sở đó lựa chọn, chống gian dối, lừa
đảo, quảng cáo, ghi nhãn không rõ ràng, không chân thực;
(iv) Quyền được lựa chọn: Người tiêu dùng được tự do lựa chọn sản
phẩm và dịch vụ có giá cả, chất lượng phù hợp với yêu cầu của người tiêu
dùng;
(v) Quyền được đại diện: Người tiêu dùng được đưa ra các ý kiến với

đại diện của người tiêu dùng trong việc hoạch định các chính sách của Chính
phủ trong phát triển hàng hóa và dịch vụ;


10


(vi) Quyền được khiếu nại và bồi thường thiệt hại: Người tiêu dùng

được quyền khiếu nại với nhà sản xuất kinh doanh khi mua phải hàng hóa
kém chất lượng, không phù hợp và được giải quyết thỏa đáng những khiếu
nại, được bồi thường những thiệt hại do mua phải hàng hóa, dịch vụ không
đúng cam kết của doanh nghiệp, nhà sản xuất;
(vii) Quyền được giáo dục về tiêu dùng: Người tiêu dùng được quyền
có những kiến thức và kỹ năng cần thiết để yêu cầu được cung cấp thông tin,
được hướng dẫn sử dụng; có kiến thức để lựa chọn hàng hóa, dịch vụ; có kiến
thức về các quyền cũng như trách nhiệm của người tiêu dùng và cách thức
thực thi các quyền và trách nhiệm đó;
(viii) Quyền được sống trong một môi trường trong sạch và lành mạnh:
Người tiêu dùng có quyền sống và làm việc trong một môi trường không bị ô
nhiễm cả trong hiện tại và tương lai.
Các quốc gia đã căn cứ vào tám (8) quyền cơ bản của người tiêu dùng
nêu trong Bản hướng dẫn bảo vệ người tiêu dùng này của Liên Hợp quốc để
thể chế hoá thành văn bản pháp luật quốc gia phù hợp với tình hình kinh tế xã hội, phong tục tập quán cũng như đặc điểm riêng của quốc gia mình để
đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng được bảo vệ. Đồng thời, người tiêu
dùng cũng có năm (5) trách nhiệm: (i) Biết phê bình; (ii) Biết hành động; (iii)
Quan tâm đến xã hội; (iv) Hiểu biết về tiêu dùng; (v) Có ý thức cộng đồng
cao.
Ở nước ta, quyền lợi của người tiêu dùng được quy định trong nhiều
văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao, như Bộ luật Dân sự 2015, Bộ luật
Hình sự 2015, Luật Thương mại 2010, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật
2007, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007, Luật An toàn thực phẩm
2010... Và đặc biệt là Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 (Điều 8) đã
quy định cụ thể quyền của người tiêu dùng Việt Nam bao gồm:

- Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích

11


hợp pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức,
cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp.
- Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh

doanh hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc,
xuất xứ hàng hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến
giao dịch và thông tin cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng
đã mua, sử dụng.
- Lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,

dịch vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc
không tham gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch
với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
- Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá

cả, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch
và nội dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
- Tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền

lợi người tiêu dùng.
- Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu

chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả
hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã

công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết.
- Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để

bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật.
- Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa,

dịch vụ.
1.1.1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng có vai trò quan trọng,
mang tính quyết định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, một

12


thương hiệu. Có thể nói, người tiêu dùng chính là động lực để thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế và là trọng tâm của kế hoạch kinh tế. Nếu như sản
phẩm làm ra mà không có người tiêu thụ sẽ dẫn đến tình trạng khủng hoảng
thừa, nền kinh tế không phát triển và các doanh nghiệp không thể tồn tại. Với
xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhiều
sản phẩm hữu ích cùng với phương thức kinh doanh hiện đại đã ra đời và phát
triển đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, bên cạnh
đó, vì mục đích lợi nhuận nên một số doanh nghiệp, nhà sản xuất đã vi phạm
nghiêm trọng quyền lợi của người tiêu dùng khi đưa ra thị trường các sản
phẩm, hàng hóa không đảm bảo chất lượng, thậm chí có sản phẩm còn gây
nguy hại tới sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng.
Những vi phạm của nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ đối với người
tiêu dùng thường xảy ra như: Vi phạm về chất lượng hàng hóa, dịch vụ như
lưu thông hàng kém chất lượng, chất lượng hàng hóa không bảo đảm, vi phạm
vệ sinh an toàn thực phẩm (thường liên quan đến hàng giả, hàng nhái và hàng
thật kém chất lượng) và chất lượng dịch vụ không đáp ứng nhu cầu của người

tiêu dùng (như các dịch vụ về viễn thông, tài chính, bảo hiểm... với các loại
hình internet, điện thoại, giao dịch bằng thẻ ATM, chi trả tiền bảo hiểm...)
chưa đáp ứng được yêu cầu và kỳ vọng của người tiêu dùng. Vi phạm về bảo
hành hàng hóa (chủ yếu là các sản phẩm điện tử, điện lạnh, tin học). Nhiều
doanh nghiệp đưa việc bảo hành hàng hóa nhằm làm yên lòng người tiêu
dùng hoặc quảng cáo cho sản phẩm của mình. Phiếu bảo hành sơ sài, không
quy định cụ thể và không có giá trị pháp lý, có nhiều doanh nghiệp đổ lỗi cho
người tiêu dùng để không chấp nhận bảo hành hoặc sửa chữa qua loa, hoặc
kéo dài thời gian sửa chữa làm cho người tiêu dùng mất công sức, tốn thời
gian chờ đợi, đi lại... Vi phạm về giá, định lượng của hàng hóa (như việc tăng
giá sữa, giá gas, giá thuốc... hoặc đong thiếu xăng, thiếu gas...). Quảng cáo
khuyến mại không trung thực, lừa dối người tiêu dùng (thường sử dụng các

13


cụm từ “số 1 thế giới”, “chất lượng tuyệt hảo”, “chuyên gia hàng đầu”, “bán
giá gốc” hoặc “mua hàng có quà tặng” hay “mua một tặng một”, “bốc thăm
trúng thưởng”... Vi phạm quyền lựa chọn của người tiêu dùng, thường thấy
trong các hợp đồng cung cấp điện, nước, thông tin truyền thông, tín dụng...
trong các hợp đồng này nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ đã soạn thảo sẵn hợp
đồng, khách hàng chỉ việc ký và không có cơ hội để thỏa thuận về những điều
khoản trong hợp đồng (về giá, về bồi thường vi phạm hợp đồng...). Không
hướng dẫn cách sử dụng, bảo quản sản phẩm, hàng hóa dẫn đến người tiêu
dùng không biết cách bảo quản hàng hóa hoặc sử dụng sai mục đích ảnh
hưởng đến sự an toàn về tính mạng, sức khỏe của người tiêu dùng. Những vi
phạm về quyền lợi người tiêu dùng ngày càng gia tăng với mức độ nghiêm
trọng (đặc biệt là các vi phạm về chất lượng hàng hóa, gian lận định tính, định
lượng...), đó là những hành vi vi phạm đạo đức trong sản xuất kinh doanh,
cần lên án, đấu tranh chống lại những hành vi này nhằm bảo vệ quyền lợi của

người tiêu dùng nói riêng và lợi ích cho toàn xã hội nói chung để xây dựng xã
hội phát triển lành mạnh vì lợi ích cộng đồng.
1.1.1.3.Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng
Một là: Yếu tố lợi nhuận của các tổ chức sản xuất kinh doanh
Quan hệ kinh tế chủ yếu trong xã hội bên cạnh quan hệ giữa các nhà
sản xuất với nhau là quan hệ giữa NTD và nhà sản xuất kinh doanh. NTD là
lực lượng hết sức đông đảo, nhưng vì chưa nhận thức đầy đủ các quyền và
trách nhiệm của mình, không có đầy đủ kiến thức về mọi mặt và thường hành
động riêng lẻ nên trong mối quan hệ đó, NTD thường đứng ở thế yếu và chịu
nhiều thiệt thòi. Để tăng lợi nhuận, một số doanh nghiệp thường lợi dụng
những khe hở của pháp luật, công tác quản lí và lòng tin của NTD để thực
hiện những hành vi, thủ đoạn gian dối như cung cấp hàng hoá kém chất
lượng, đưa ra thông tin nhầm lẫn, ép giá... Khi đó, NTD thường mắc phải
những sai lầm trong việc lựa chọn tiêu dùng và có nguy cơ sử dụng hàng hoá,

14


dịch vụ thiếu độ an toàn.
Hai là: Hệ thống pháp lý chưa đầy đủ và cơ chế quản lý thiếu chặt chẽ
của cơ quan có thẩm quyền
Một khi hệ thống pháp lý chưa đầy đủ sẽ tạo những kẽ hở cho các cơ sở
sản xuất, kinh doanh không chân chính thực hiện những hoạt động gây ảnh
hưởng đến NTD. Sự quản lý, kiểm tra, giám sát của Nhà nước và các cơ quan
chức năng là rất cần thiết trong vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD. Nếu thiếu sự
tham gia này, quyền lợi NTD sẽ rất dễ bị xâm phạm bởi vì không có đủ chế
tài cũng như quy định để xử phạt các trường hợp vi phạm. Theo đó, người sản
xuất kinh doanh sẽ không ngần ngại lách luật và có những hành động vi phạm
tới quyền lợi NTD nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
Ba là: Sự hạn chế thông tin về quyền lợi, cách thức tiêu dùng của

người tiêu dùng
Người tiêu dùng nói chung thường không có đủ kiến thức cũng như
điều kiện cần thiết để có thể nhận biết được hàng hoá, dịch vụ có thực sự tốt
như những thông tin được công bố hay không. Nói cách khác, NTD luôn ở
vào vị trí bất lợi về thông tin sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Chính vì những lý
do trên, những nhà sản xuất, cung ứng hàng hoá dịch vụ có rất nhiều động cơ
có thể gây tổn hại đến quyền lợi NTD. Nếu sự quản lý của Nhà nước không
đủ mạnh và không hiệu quả, thì quyền lợi hợp pháp của NTD sẽ khó được
đảm bảo.
1.1.2. Khái quát về hoạt động quảng cáo thương mại
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm quảng cáo thương mại
Hiện nay phần lớn các quốc gia trên thế giới không định nghĩa về
“quảng cáo thương mại” mà chủ yếu chỉ giải thích thuật ngữ “quảng cáo”.
Điều này cũng dễ hiểu vì theo pháp luật các nước, quảng cáo là hoạt động
luôn gắn với yếu tố lợi nhuận, mang tính thương mại và gắn liền với thương
nhân, do vậy, không còn cái gọi là “quảng cáo phi lợi nhuận”. Trong tiếng

15


Anh, “quảng cáo” là từ “advertise”, từ này xuất phát từ tiếng Latinh
“adverture” có nghĩa là sự thu hút lòng người, sự gây chú ý và viện dẫn, do đó
từ “advertise” được giải nghĩa là sự gây chú ý ở người khác, thông báo cho
người khác một sự kiện gì đó [2, Tr.151]. Theo Từ điển tiếng Việt, “quảng
cáo là nói nhà buôn hay cơ quan kinh doanh làm cho mọi người biết đến hàng
của mình” [7, Tr.700]. Xét dưới góc độ học thuật, các nhà luật học phân tách
khái niệm quảng cáo và quảng cáo thương mại. Điều này xuất phát từ quan
niệm quảng cáo là một khái niệm rộng mà trong đó quảng cáo thương mại là
một loại hình quảng cáo. Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý
năm 2006, thì “quảng cáo thương mại” được hiểu là “hoạt động xúc tiến

thương mại của thương nhân nhằm giới thiệu với khách hàng về hoạt động
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ” [8, Tr.635].
Luật Thương mại 1997 đã từng định nghĩa về quảng cáo thương mại
trong Điều 186, theo quy định này, “quảng cáo thương mại là hành vi thương
mại của thương nhân nhằm giới thiệu hàng hoá để xúc tiến thương mại”. Tuy
nhiên, quy định này bộc lộ nhiều hạn chế trong nhận thức về hoạt động quảng
cáo cũng như hoạt động xúc tiến thương mại. Do đó, đến khi Luật Thương
mại 1997 được thay thế bằng Luật Thương mại 2005, định nghĩa này đã được
sửa đổi theo hướng xác định rõ quảng cáo thương mại là một hoạt động xúc
tiến thương mại, cụ thể là: “Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến
thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ của mình” (Điều 102 Luật Thương mại 2005).
Xét về bản chất, quảng cáo thương mại là một hoạt động thương mại,
do thương nhân tiến hành và phải thông qua phương tiện quảng cáo và sản
phẩm quảng cáo. Vì vậy, ngoài các đặc điểm của quảng cáo, quảng cáo
thương mại còn có những đặc điểm riêng biệt:
- Thứ nhất, quảng cáo thương mại trước hết là một hoạt động thương mại
Cũng như các hoạt động xúc tiến thương mại khác, quảng cáo thương

16


mại là một hoạt động mang tính bổ trợ, được thực hiện không phải để trực
tiếp tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ mà chỉ đóng vai trò thúc đẩy nhóm hành vi
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại được thực hiện thường
xuyên, liên tục. Do vậy, quảng cáo thương mại thường không mang lại lợi
nhuận trực tiếp cho thương nhân (trừ thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng
cáo thương mại), nhưng có thể nhận thấy vai trò quan trọng của hoạt động bổ
trợ này trong việc thúc đẩy hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ
trên thị trường diễn ra nhanh chóng và thuận lợi hơn rất nhiều. Nhờ vậy,

thương nhân sẽ bán được nhiều hàng hoá, cung ứng được nhiều dịch vụ hơn,
từ đó lợi nhuận thu được sẽ tăng lên.
-Thứ hai, quảng cáo thương mại là hoạt động thương mại do thương
nhân tiến hành
Thương nhân theo pháp luật Việt Nam bao gồm “tổ chức kinh tế được
thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng ký kinh doanh” (Điều 6 Luật Thương mại 2005). Hoạt động
quảng cáo thương mại có thể do các thương nhân cung cấp hàng hoá, dịch vụ
tự tiến hành để giới thiệu về hàng hoá, dịch vụ của mình hoặc cũng có thể
được tiến hành bởi các thương nhân chuyên kinh doanh dịch vụ quảng cáo
thương mại theo yêu cầu của thương nhân khác. So với Luật Thương mại năm
1997, chúng ta có thể nhận thấy, nội hàm của khái niệm “thương nhân” theo
Luật Thương mại 2005 đã được mở rộng bao trùm lên toàn bộ những chủ thể
có hoạt động thương mại. Điều này là cần thiết và phù hợp với thông lệ quốc
tế. Thương nhân tiến hành hoạt động quảng cáo thương mại theo pháp luật
Việt Nam được xác định bởi các tiêu chí: Có hoạt động thương mại một cách
độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh, trong đó, “có hoạt động
thương mại” được coi là đặc điểm quan trọng và đặc trưng để phân biệt
thương nhân với các chủ thể khác. Tính chất “độc lập, thường xuyên” trong
hoạt động thương mại của thương nhân, tuy không được Luật Thương mại

17


×