Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Ô nhiễm môi trường hoạt động sản xuất nông nghiệp.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.84 MB, 18 trang )

I.

MỞ ĐẦU

Xã hội loài người đang tiến gần hơn đến sự phát triển bền vững đó là việc
vừa phát triển kinh tế hiện đại song song với bảo vệ môi trường sinh thái. Tuy
nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn đang hoành hành ở khắp mọi nơi.
Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi, kéo theo đó là sự phát sinh không ít
vấn đề mà đặc biệt là tình trạng ô nhiễm môi trường. Người dân nông thôn còn
đang phải quan tâm nhiều đến cuộc sống mưu sinh. Khi đời sống chưa thực sự
đảm bảo thì việc bảo vệ môi trường chỉ là thứ yếu. Các nguồn chủ yếu gây ra
hiện tượng ô nhiễm môi trường ở nông thôn đầu tiên phải kể đến là việc lạm
dụng và sử dụng không hợp lý các loại hoá chất trong sản xuất nông nghiệp; việc
xử lý chất thải của các làng nghề thủ công truyền thống chưa triệt để; nhận thức,
ý thức bảo vệ môi trường của người dân sinh sống ở nông thôn còn hạn chế. Tiếp
đó là sự quan tâm chưa đúng mức của các cấp, các ngành. Ô nhiễm môi trường
đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng, tác động xấu đến hệ sinh thái nông
nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người dân. Vì vậy, bảo vệ môi
trường nông thôn đang là một vấn đề cấp bách.
II. NỘI DUNG
Ô nhiễm môi trường hiện nay có rất nhiều nguồn gây ô nhiễm, song chủ
yếu là các nguồn chính sau đây:
1. Ô nhiễm môi trường hoạt động sản xuất nông nghiệp.
1.1. Thực trạng.
Những năm gần đây, do thâm canh tăng vụ, tăng diện tích cũng như do
thay đổi cơ cấu giống cây trồng nên tình hình sâu bệnh diễn biến phức tạp hơn.
Vì vậy số lượng và chủng loại thuốc BVTV sử dụng cũng tăng lên. Nếu như
trước năm 1985, khối lượng thuốc BVTV dùng hàng năm khoảng 6.500 9.000 tấn thành phẩm quy đổi và lượng thuốc sử dụng bình quân khoảng 0,3
kg hoạt chất/ha thì thời gian từ năm 1991 đến nay lượng thuốc sử dụng biến
động từ 25.000 - 38.000 tấn và lượng thuốc sử dụng cũng tăng lên 0,67 - 1,01
kg hoạt chất/ha.


Tình trạng các thuốc BVTV tồn đọng không sử dụng, nhập lậu bị thu giữ
đang ngày càng tăng lên về số lượng và chủng loại. Điều đáng lo ngại là hầu hết
các loại thuốc BVTV tồn đọng này được lưu giữ trong các kho chứa tồi tàn hoặc
bị chôn vùi dưới đất không đúng kỹ thuật nên nguy cơ thấm và rò rỉ vào môi
trường là rất đáng báo động.
Cùng với vấn đề bảo vệ thực vật thì tổng khối lượng chất thải chăn nuôi
bình quân khoảng hơn 73 triệu tấn/năm (trong đó chất thải của trâu chiếm 21,9%,

1


bò chiếm 32,5%, lợn chiếm 33,4%) cũng là nguồn gây ô nhiễm lớn. Nhiều xí
nghiệp chăn nuôi, xí nghiệp chế biến thực phẩm nằm lẫn trong khu dân cư, sản
xuất còn nhỏ lẻ, manh mún thiếu các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Không chỉ trồng trọt, chăn nuôi mà tình trạng phát triển nuôi trồng thủy sản tự
phát, thiếu quy hoạch, thức ăn thừa không được xử lý, việc sử dụng kháng sinh
tùy tiện cũng dẫn tới ô nhiễm môi trường xảy ra nghiêm trọng ở một số nơi.
1.2. Nguyên nhân
 Trước hết phải kể đến nguyên nhân từ nhận thức, ý thức, tập quán canh tác
của người dân.
Việc sử dụng hóa chất trong nông nghiệp như phân hóa học, thuốc bảo vệ
thực vật (BVTV) gồm: Thuốc trừ sâu, thuốc trừ nấm, thuốc diệt chuột, thuốc trừ
bệnh; thuốc trừ cỏ một cách tràn lan, không tuân thủ thời gian cách ly sau khi
phun thuốc và cả việc vứt bao bì thuốc BVTV.
Kết quả kiểm tra dư lượng thuốc BVTV cũng cho thấy, có 33/373 mẫu rau
chiếm 13,46% vượt mức dư lượng cho phép.Mặt khác, kết quả điều tra 156 hộ
nông dân ở Tiền Giang, 200 hộ ở Đan Phượng (Hà Tây) và 200 hộ ở Từ Liêm
(Hà Nội) cho thấy, có 80% số hộ vứt luôn bao bì thuốc tại ruộng, mương nước
nơi sử dụng. Thói quen rửa bình bơm và dụng cụ pha chế thuốc BVTV không
đúng nơi quy định.

Sử dụng phân bón thừa thãi gây tồn đọng trong đất, nước, ảnh hưởng đến
sức khoẻ con người. Việc sử dụng “phân chuồng tươi” liều lượng lớn, không
tuân thủ quy trình kỹ thuật, các mẫu đất, nước, rau quả được nghiên cứu đều còn
tồn dư lượng Fecal Coliorm. Khi lạm dụng phân hóa học, đặc biệt là phân đạm,
khiến tồn dư Nitrate, có thể dẫn đến 2 bệnh hiểm nghèo là kìm hãm sự phát triển
của trẻ dưới 1 tuổi, làm trẻ xanh xao, gầy yếu và ung thư dạ dày, ung thư vòm
họng ở người lớn (Theo GD&KH).
 Sự thờ ơ của các cấp chính quyền địa phương trong việc xử lý vi phạm
gây ô nhiễm.
 Việc khắc phục, xử lý ô nhiễm chưa nhận được sự quan tâm từ các ban
ngành chức năng.
1.3. Hậu quả
Gây ô nhiễm nguồn nước: Thuốc trừ sâu gây ô nhiễm nguồn nước, gây
ngộ độc cho động vật thủy sinh. Một số loại thuốc trừ sâu thường biến đổi sau
khi sử dụng thành một hoặc nhiều chất chuyển hóa bền vững và độc hơn loại
thuốc trừ sâu sử dụng ban đầu.

2


\
Ô nghiễm nước do thuốc BVTV
Gây ô nhiễm đất: Thuốc trừ sâu gây tồn đọng trong đất làm đất bị nhiễm
độc, gây chết các vi sinh vật có lợi trong đất; đất trở nên chua hóa nhanh, chai
cứng, giảm năng suất cây trồng.
Gây ô nhiễm không khí: Mùi thuốc trừ sâu từ đồng ruộng lan tỏa trong
không khí được gió đưa vào các khu dân cư, người dân hít phải thuốc sâu dễ bị
nhức đầu, ho, viêm đường hô hấp…
Ngộ độc do rau không an toàn: Thuốc trừ sâu là những chất thuộc nhóm
lân hữu cơ rất độc, dễ gây ngộ độc cấp tính. Việc tăng liều lượng thuốc, tăng số

lần phun thuốc, dùng thuốc BVTV không theo hướng dẫn cũng như lạm dụng
thuốc BVTV đã gây ra hiện tượng kháng thuốc, làm thuốc mất hiệu lực hoặc để
lại tồn dư thuốc BVTV quá mức cho phép trong nông sản, thực phẩm sẽ dẫn đến
tình trạng ngộ độc thực phẩm, làm giảm sức cạnh tranh của nông sản, hàng hóa
trên thị trường là nguy cơ tiềm ẩn đe dọa đến sức khỏe cộng đồng.

3


Tưới rau bằng hóa chất độc hại

1.4. Biện pháp khắc phục.
- Giải quyết hài hòa giữa việc quản lý, sử dụng thuốc BVTV để bảo vệ sản
xuất nông nghiệp với việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và môi trường là một đòi
hỏi và thách thức lớn đối với các cơ quan quản lý nhà nước. Để đạt được mục
tiêu đó cần có một số giải pháp sau:
- Nhà nước cần có chế độ ưu đãi, hỗ trợ cho các chương trình sản xuất và
ứng dụng các sản phẩm hữu cơ, vi sinh vào công tác phòng trừ sinh vật gây hại
tài nguyên thực vật; chọn lọc các loại thuốc, dạng thuốc BVTV an toàn có tính
chọn lọc cao, phân giải nhanh trong môi trường; duy trì và mở rộng việc áp dụng
IPM vì chương trình này không chỉ tiết kiệm chi phí cho việc mua thuốc BVTV
mà còn góp phần làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường; tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra xử lý vi phạm trong lĩnh vực BVTV; phối hợp các lực lượng liên
ngành trong kiểm tra, kiểm soát việc nhập lậu thuốc BVTV; chú trọng việc thu
gom và xử lý bao bì thuốc BVTV sau sử dụng và kiên quyết đình chỉ các cơ sở
sản xuất, gia công thuốc BVTV có dây chuyền công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm.
- Đẩy mạnh việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong trồng trọt, nâng
cao hiểu biết của người nông dân trong việc sử dụng thuốc BVTV an toàn và
hiệu quả, từ đó giảm lượng thuốc BVTV sử dụng; nghiên cứu ứng dụng và phát
triển các dạng thuốc BVTV mới thân thiện với môi trường, ít ảnh hưởng đến sức

khỏe cộng đồng; xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh sản xuất các sản
phẩm nông nghiệp sạch không dùng phân bón hóa học và thuốc BVTV nhằm
nâng cao chất lượng nông sản phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu.
- Đẩy mạnh các biện pháp tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao năng lực
quản lý môi trường, nâng cao nhận thức về trách nhiệm và nghĩa vụ của những
người sản xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc BVTV trong việc bảo vệ sức khỏe
cộng đồng và môi trường.
4


Pháp lệnh Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật đã quy định rõ: “Tổ chức, cá
nhân sử dụng thuốc BVTV phải bảo đảm an toàn cho người, vật nuôi, vệ sinh an
toàn thực phẩm, môi trường và chịu trách nhiệm về việc sử dụng thuốc BVTV
không đúng quy định gây ra” (Khoản 3, Điều 32). Ngoài ra, mục tiêu của
“Chương trình hành động bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trong
lĩnh vực bảo vệ và kiểm dịch thực vật đến năm 2010” của ngành BVTV đã nêu
rõ: Xây dựng chính sách hỗ trợ các sản phẩm, nông sản an toàn, từng bước đưa
ra khỏi danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng các hoạt chất có độ độc cao,
tồn dư lâu trong sản phẩm và môi trường, ưu tiên cho phép đăng ký vào danh
mục các chế phẩm sinh học thảo mộc, xây dựng và phát triển vùng sản xuất nông
sản an toàn...

Một số loại thuốc BVTV
Với việc ban hành Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng trên rau,
chè cùng với các biện pháp có hiệu quả về quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu và sử
dụng thuốc BVTV cũng như việc thực hiện tốt các quy định của Pháp lệnh Bảo
vệ và Kiểm dịch thực vật, hy vọng rằng chúng ta sẽ xây dựng được một nền
nông nghiệp sạch và bền vững, hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng xấu của
thuốc BVTV đến sức khỏe cộng đồng và môi trường.
5



1. Ô nhiễm môi trường nông thôn do rác thải sinh hoạt.
2.1 Thực trạng
Khi nói đến rác, nhiều người thường nghĩ đó là vấn đề cấp bách của đô thị
hay các thành phố lớn. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, nhất là kỹ thuật sản xuất, đóng gói bao bì, nhiều loại giấy, hộp đóng
gói chủ yếu bằng ni lông, nhựa, thiếc…rất tiện lợi góp phần làm thay đổi phong
cách và tập quán sống của nhiều người dân cư nông thôn đến thành thị.
Về nông thôn, chúng ta dễ dàng nhận thấy ven làng, các bờ sông, con
ngòi, các túi rác, có khi là cả một tải rác hay đống rác “tự do nhảy dù” chẳng có
người nào thu gom, mới đầu còn là một túi rác nhỏ, dần dà chúng “tập kết” thành
đống lớn dần lên qua từng ngày tạo nên cảnh quan “lạ mắt” ven đường làng,
mương máng, có khi còn làm tắc dòng chảy. Bên cạnh đó rác thải ở các chợ quê
đã đến hồi báo động, các đống rác được chất đống lưu cữu rất nhiều ngày, ngay
gần khu dân cư, bốc mùi ô uế.

Rác đầy trên sông
Mỗi năm, trong cả nước có hàng chục tấn rác thải sinh thải sinh hoạt phát
sinh và theo dự báo thì tổng lượng chất thải đó vẫn tiếp tục tăng lên nhanh chóng
trong thập kỷ tới. Theo ông Trương Đình Bắc - Trưởng phòng Sức khoẻ và môi
trường, cho biết nếu ở các đô thị lớn, trung bình một người thải ra 1kg rác/ngày
thì vùng nông thôn cũng từ 0,5-0,6kg rác/ngày. Bình quân mỗi người thải ra 0,7

6


kg rác/ngày. Như vậy, với khoảng 50 triệu dân vùng nông thôn, mỗi ngày có gần
50 triệu tấn rác cần được thu gom. Tuy nhiên trên thực tế chỉ thu được khoảng
50%.


Túi nilon rải đầy ven đường đi
Tình trạng vứt rác bừa bãi của một bộ phận người dân nông thôn không
chỉ làm ảnh hưởng đến cảnh quan nông thôn tác động xấu đến môi trường sống
của người dân mà còn huỷ hoại môi trường trong lành của làng quê. Do đó, đã
nảy sinh nhiều vấn đề về môi trường nông thôn.
2.1. Nguyên nhân.
 Do quá trình xây dựng và quy hoạch và đầu tư xây dựng khu dân cư chưa chú
trọng vấn đề xử lý môi trường.

Chợ ở nông thôn
7


 Do ý thức trách nhiệm của người dân trong việc thu gom và xử lý rác tại các
vùng nông thôn còn rất khiêm tốn. Tỷ lệ thu gom rác thải lớn nhất chỉ đạt
19,8%-29,2% như các huyện Thuận Thành (Bắc Ninh), Ứng Hoà (Hà Tây)
còn tại Giao Thuỷ (Nam Định), Bình Xuyên (Vĩnh Phúc) tỷ lệ thu gom chỉ đạt
từ 3,6-3,7% thực tế.
Một vấn đề chúng ta không khỏi quan tâm hiện nay là hầu hết lượng rác này
lại không được phân loại và xử lý, hình thức thường được sử dụng nhất hiện nay
đó là đốt hoặc chôn lấp như ở làng Vân (Hưng Yên). Không những thế việc hình
thành các bãi rác, chôn lấp, chôn lấp rác thải chưa chú ý đến khoảng cách đối với
các khu dân cư, quy mô bãi chôn rác chưa phù hợp với điều kiện tự nhiên, năng
lực thu gom rác yếu, công nghệ xử lý rác còn lạc hậu nên khó tránh khỏi tình
trạng ô nhiễm môi trường (Quảng Trị).
 Công tác quản lý bảo vệ môi trường của chính quyền địa phương chưa chặt
chẽ như: Quy định chưa rõ ràng, thiếu cán bộ quản lý và thanh tra chuyên
ngành bảo vệ môi trường nên không hướng dẫn kịp thời, đầy đủ những nội
dung về bảo vệ môi trường để mọi người nắm và tự giác chấp hành (An

Giang). Ở một số nơi cán bộ địa phương cũng chưa chú trọng việc giáo dục,
tuyên truyền cho người dân biết và chấp hành.
 Do không có kinh phí cho việc xử lý rác thải sinh hoạt nên việc xử lý rác thải
chưa được thực hiện như ở thị trấn Liên Quan (Thạch Thất), mặc dù đã ký hợp
đồng với công ty MT- ĐT Xuân Mai nhưng mỗi năm cũng chỉ được tổ chức
thu gom, xử lý rác thải được 3-4đợt; Xã Quang Tiến (Sóc Sơn) người dân
tham gia đóng góp để trả công cho việc thu gom rác, nhưng xã gặp khó khăn
về kinh phí vận chuyển nên rác “tồn đọng” tập kết ở gần khu dân cư.
Theo chúng tôi nguyên nhân chính của ô nhiễm môi trường ở nông thôn do
rác thải sinh hoạt là vì thói quen của người dân đã bao đời nay là “nhắm thấy tiện
là quăng” nên quanh nhà là bãi chứa rác và thiếu ý thức của người dân trong việc
xử lý rác.
2.2. Hậu quả.
Rác thải sinh hoạt, đặc biệt là nhựa phế liệu, dân trở thành gánh nặng cho
xã hội. Ai cũng biết đó là rác thải, là thứ bỏ đi. Nhưng không phải ai cũng biết,
rác thải ngày càng nhiều và là hiểm hoạ đối với con người và nguy hại gây ô
nhiễm môi trường.
Ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước mặt, nước ngầm: Hầu hết các dòng
sông, mương tiêu huỷ nước, hồ ao ở nông thôn hiện nay đều bị ô nhiễm từ nhẹ tới


nặng, tạo điều kiện cho các sinh vật và tảo lam phát triển làm cho nguồn nước
ngọt dần trở lên khan hiếm.
VD:
Giao Thuỷ, Nam Định, nước ngầm nhiễm asen: hiểm hoạ cho 200.000
nghìn dân sống ở khu vực nông thôn của huyện. Họ đang phải đôí mặt với tình
trạng sử dụng nước sinh hoạt không đảm bảo vệ sinh. Trung tâm quan trắc và
phân tích tài nguyên môi trường Nam định cho hay, khi tiến hành điều tra vào
tháng 6-2007 và tháng 5-2008 tại các xã, thị trấn trong huyện đều thấy các mẫu
nước ngầm có chứa asen vượt tiêu chuẩn 09/Bộ y tế và một số mẫu vượt TCVN

5942-1995 về nước mặt và TCVN 5944-1995 về nước ngầm.
Ô nhiễm không khí: Thải rác vào môi trường, lượng rác này không được
xử lý hợp vệ sinh sẽ phân huỷ mùi hôi thối gây bệnh về da, mắt viêm xoang
đường hô hấp…người dân không được hưởng bầu không khí trong lành cần thiết
cho sự sống.
Từ các nguyên nhân trên đã gây ra ảnh hưởng đến sức khoẻ và chất lượng
cuộc sống của người dân. Tình trạng ô nhiễm môi trường nước tác động trực tiếp
đến sức khoẻ, là nguyên nhân gây các bệnh như tiêu chảy, tả, thương hàn, giun
sán...Các bệnh này gây suy dinh dưỡng, thiếu máu, thiếu sắt, kém phát triển gây
tử vong nhất là ở trẻ em. Có đến 88% trường hợp bệnh tiêu chảy là do thiếu nước
sạch, VSMT kém .
2.3. Giải pháp và hướng khắc phục.


Thông tin- giáo dục- truyền thông và tham gia của cộng đồng:

Về ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường trong các khu dân cư nói riêng và
trong toàn xã hội nói chung. Để việc thu gom và xử lý tốt rác thải sinh hoạt tốt có
mấy cách sau:
Chôn rác tại chỗ: cách này thích hợp đối với mọi gia đình. Ở một góc vườn xa
nhà ở, đào một cái hố nhỏ, chừng vài mét vuông, sâu 50-60 cm. Rác thu gom được
hằng ngày đổ vào đó. Chừng vài ngày đến nửa tháng, khi thấy đã nhiều thì rắc một ít
vôi bột lên trên để sát trùng. Chừng vài ba tháng, hố đã đầy ta phủ ít vôi bột lên trên
và lấp hố lại bằng đất bộ khô và đào hố khác sử dụng. hố đó sưau vài tháng, rác hoai
có thể để bón cho cây trồng trong vườn hay ngoài đồng, hoặc có thể trồng một cây
ăn trái gì đó ở dưới hố. Chú ý nên phân loại chất rắn, thuỷ tinh hay sắt để xử lý
riêng. Nếu từng gia đình nông thôn có vườn làm được điều này thì sức ép về rác thải
cũng đỡ phần nào.



thanh niên, dân quân tập chung dọn vệ sinh
Trường hợp ở những nơi làng xóm đã “đô thị hoá” còn ít, hoặc không có
vườn, những gia đình hoặc những nơi công cộng như chợ làng, trường học, nhà
văn hoá nên có một thùng đựng rác, quét dọn hằng ngày hay sau mỗi buổi họp,
buổi sinh hoạt rác đổ vào thùng rác, rồi tổ chức có xe cải tiến đi thu gom tất cả
các rác đó đưa đến nơi quy định.
+ Cách ủ rác làm phân:
Vì đây là cách xử lý để làm phân nên phương pháp đơn giản như sau:
Khi rác đã đổ trong hố thành một lớp dày chừng 30-40 cm thì rắc từ 2-3 kg supe
lân hay apatit, 1-2 kg vôi bột. có thể cho thêm 1kg urê hay 10 kg phân bắc hay gà
vịt để tăng thêm đạm. Khi lớp rác đã cao tới 1,5-2 m thì rắc lên một lớp bột dày
10 đến 15 cm phủ rơm rạ và tưới nước. Sau 40 đến 50 ngày đống phân nóng lên,
khối lượng xẹp thì dỡ lớp rơm rạ ra, dẫm chặt và phủ đất 10- 15 cm và tưới nước
đủ ẩm. Mặt trên đống phân, chính giữa lên lõm xuống và moi lỗ để nước ngấm


vào rác. Chừng 1-2 tháng thì có thể đem đi bón ruộng, hố đó lại tiếp nhận rác
mới. đúng với khẩu hiệu “sạch làng, tốt ruộng”
Hiện nay, phần lớn dân cư nông thôn còn thiếu hiểu biết về vệ sinh,nước
sạch và bệnh tật, sức khoẻ; về môi trường sống xung quanh mình cần phải được
cải thiện và có thể cải thiện được.
Kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực cho thấy nếu người nông dân nhận thức
rõ được vấn đề thì với sự giúp đỡ của chính phủ, họ có thể vươn lên khắc phục
khó khăn, cải thiện được môi trường sống cho mình tốt hơn.
Vì vậy, các hoạt động thông tin - giáo dục - truyền thông có tầm quan trọng
lớn lao đối với thành công của mọi chiến lược phát triển và vai trò cơ bản của nhà
nước trong tương lai là tập trung vào các hoạt động Thông tin- Giáo dục-Truyền
thông và quản lý. Tăng cường tập huấn, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ
cho cán bộ thực hiện công tác quản lý môi trường từ cấp tỉnh đến cơ sở thực hiện
tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.



Về quy hoạch cơ sở hạ tầng.

Để đảm bảo vệ sinh môi trường, trong quy hoạch cơ sở hạ tầng kỹ thuật
khu dân cư cần:
Vạch ra được phương hướng xứ lý rác thải.
Chọn mô hình xử lý rác thải phù hợp.
Phối hợp lực lượng Cảnh sát Môi trường, tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhất là các nhà máy xí nghiệp có hàm
lượng rác thải,..để kịp thời phát hiện, nhắc nhở ngăn chặn và xử lý nghiêm những
hành vi vi phạm…
3. Ô nhiễm làng nghề.
Làng nghề đã hình thành và phát triển từ rất lâu đời trong nông thôn Việt
Nam và đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Từ khi thực hiện cơ chế thị
trường, các làng nghề thủ công truyền thống ở nhiều địa phương cũng dần được
phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Sản phẩm của các làng nghề không chỉ phục vụ
nhu cầu trong nước mà còn vươn ra thị trường nước ngoài, thu về nguồn lợi lớn,
cải thiện đời sống của tầng lớp dân cư nông thôn. Tuy nhiên, song song với sự
phát triển đó, là tồn tại nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Do sự ý thức của con
người trong quá trình sản xuất không xử lý triệt để các chất thải ra môi trường
sống xung quanh gây nên tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng.
Sự ô nhiễm của môi trường ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ đời sống của
con người. Người dân ở các làng nghề mắc bệnh rất cao, đặc biệt là những người
trực tiếp sản xuất do thường xuyên phải tiếp xúc với khói bụi, hoá chất. Bệnh tật


của người lao động phổ biến là đau lưng, đau cột sống, hội chứng dạ dày, viêm
phế quản, dị ứng ngoài da và đau mắt. Vì thế, ô nhiễm làng nghề đang là một vấn
đề nan giải.

3.1. Thực trạng.
Trong vòng 10 năm qua tốc độ tăng trưởng của các làng nghề ở nông thôn
tăng khá nhanh, trung bình 8%/năm tính theo giá trị đầu ra. Song nếu chỉ nhìn ở
khía cạnh tăng trưởng, lợi ích mà không tính đến việc bảo vệ môi trường, xử lý ô
nhiễm thì chưa thể tính đến sự phát triển bền vững lâu dài của làng nghề. Nhiều
khi chỉ vì lợi ích trước mắt mà người ta quên đi vấn đề bảo vệ môi trường sống
của mình.
Theo số liệu công bố mới đây của Cục Cảnh sát môi trường, Bộ Công an,
có tới hơn 90% làng nghề vi phạm Luật Bảo vệ môi trường và các quy định an
toàn vệ sinh lao động.
Một khảo sát mới đây nhất của Viện Khoa học và Công nghệ môi trường
thuộc Trường đại học Bách khoa Hà Nội, các chuyên gia đã đưa ra những con số
báo động về hiện trạng môi trường tại các làng nghề: 100% mẫu nước thải ở các
làng nghề có thông số vượt quá tiêu chuẩn cho phép; nước mặt, nước ngầm đều
có dấu hiệu ô nhiễm. Ô nhiễm không khí chủ yếu tập trung ở các làng nghề sản
xuất vật liệu xây dựng, gốm, sứ, nhựa... ước tính tại lượng ô nhiễm không khí do
đốt than để nung vôi, nung gốm, sứ từ hàng trăm lò thủ công lên tới hàng triệu
m3 khí độc.
Kết quả phân tích mẫu nước thải, khí thải ở các làng nghề của ngành chức
năng cho thấy, hầu hết đều vượt tiêu chuẩn cho phép gấp nhiều lần. Riêng nồng
độ bụi vượt từ 113 đến 230 lần, hàm lượng một số kim loại trong nước thải, vượt
tới hàng chục lần cho phép. Không những ảnh hưởng đến cuộc sống, sức khoẻ
của người dân, ô nhiễm làng nghề còn làm ô nhiễm luôn cả nguồn nước nước
mặt, đến nỗi một số nơi, cỏ cây, hoặc tôm cá dưới ao không thể sống nổi.
Hiện cả nước có 1.450 làng nghề chủ yếu tập trung ở đồng bằng sông
Hồng (67,3%), miền Trung (20,5%) và miền Nam (12,2%), chia theo 6 loại hình:


Chế biến lương thực thực phẩm, dược liệu 197 làng (chiếm 13,6%);




Ươm tơ, dệt vải, đồ da 173 làng (chiếm gần 12%);



Thủ công mỹ nghệ, thêu ren 618 làng (chiếm 42,6%);



Sản xuất vật liệu xây dựng 31 làng (chiếm 2,14%),



Còn lại các làng nghề khác 341 làng.


Hầu hết các làng nghề đều sử dụng than củi và than đá nên gây ra ô nhiễm
không khí như bụi, hơi nước, SO2, CO2, CO và NOx là hết sức phổ biến. Trong
đó các khi COx, NOx là các tác nhân gây hiệu ứng nhà kính. Ngoài ra, các khí
độc hại này còn được sinh ra trong quá trình phân hủy yếm khí các hợp chất hữu
cơ có trong nước thải, chất thải hữu cơ dạng rắn như H2S, NH3, CH4...
Các chất thải độc hại khó phân hủy cũng là một vấn đề môi trường nóng
bỏng đặt ra cho các làng nghề, nhất là các làng nghề tái chế kim loại và dệt
nhuộm, thuộc da. Kết quả phân tích chất lượng nước thải cho thấy: Hàm lượng
độc hại đang ở mức đáng báo động, vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Tại các
làng nghề tái chế kim loại có nơi hàm lượng Pb2+ vượt tiêu chuẩn cho phép tới
4,1 lần, Cu2+- vượt quá 3,25 lần. Hàm lượng Phenol trong nước thải tại làng
nghề tái chế giấy cũng vượt quá tiêu chuẩn cho phép 10 lần.
Tại hầu hết các làng nghề chỉ tiêu BOD, COD, SS đều lớn hơn rất nhiều so

với tiêu chuẩn, các chất gây ô nhiễm này không được xử lý sẽ phát sinh ra nhiều
dạng khí gây ô nhiễm môi trường như CH4, H2S, NH3...Các chất thải rắn nguy
hại không được các làng nghề xử lý đến nơi đến chốn mà chỉ được thu gom rất
thủ công và đem chôn lấp đơn giản ở các bãi chôn lấp hở, thậm chí là bị thải bỏ
và đốt bừa bãi ngay trên các con đê làng hoặc đổ xuống dòng sông cũng đang là
nguồn gây ô nhiễm đất, các chất thải rắn.
3.2. Nguyên nhân.
 Do các làng nghề hình thành và phát triển tự phát, quy mô nhỏ lẻ, chưa có quy
hoạch.
 Trang thiết bị, công nghệ sản xuất của các làng nghề còn rất lạc hậu
 Người dân còn chưa ý thức được việc phải giữ gìn, bảo vệ môi trường.
 Quá tận dụng sức lao động giá rẻ thay vì phải đầu tư đổi mới công nghệ
 Không có biện pháp nào xử lý ô nhiễm.
 Do giá thành sản phẩm nên người ta vẫn phải sử dụng các phương pháp thủ
công gây ô nhiễm môi trường cao.
 Hệ thống cống rãnh thoát nước bị lấp bởi chất thải rắn,gây ngập úng mỗi khi
mưa xuống.
 Tình trạng ô nhiễm của tất cả các làng nghề mới chỉ được khảo sát và đưa ra
những con số đáng báo động, nhưng chưa có giải pháp khắc phục cụ thể, hiệu
quả từ các ban ngành chức năng.


3.3. Hậu quả.
Ô nhiễm môi trường làng nghề chính là “thủ phạm” làm gia tăng tỷ lệ
người mắc bệnh đang lao động và sinh sống tại chính làng nghề đó, và tỷ lệ này
đang có xu hướng tăng trong những năm gần đây. Trong đó, ô nhiễm môi trường
tại các làng nghề tái chế phế liệu gây tác hại nghiêm trọng nhất tới sức khỏe cộng
đồng, các bệnh phổ biến là bệnh hô hấp, bệnh ngoài da, thần kinh và đặc biệt là
ung thư. Số người lao động có sức khỏe yếu kém (loại 4 hoặc 5) chiếm tỷ lệ rất
cao.


số người mắc bệnh đang gia tăng nhanh tróng
Theo đánh giá của các chuyên gia môi trường, ở hầu hết các làng nghề
không chỉ sức khoẻ của những người sản xuất, mà cả người dân xung quanh đang
bị chất thải rắn và nước thải xâm hại. Tác động không nhỏ sức khỏe người lao
động, các bệnh nghề nghiệp như đường hô hấp, đau mắt, suy nhược thần kinh,
bệnh ngoài da, đường ruột ... ngày càng gia tăng. Nước ngầm ở nhiều nơi bị ô
nhiễm nặng về mặt sinh học và hóa học làm suy giảm chất lượng cuộc sống ở
nông thôn. Một số làng nghề có đặc thù sản xuất dẫn tới các bệnh mãn tính nguy
hiểm như ung thư, quái thai, nhiễm độc kim loại nặng. Thậm chí, nhiều dòng
sông chảy qua các làng nghề cũng bị ô nhiễm nặng, nhiều ruộng lúa, cây trồng bị
giảm năng suất do ô nhiễm khí từ các làng nghề.


Mặt nước bị thu hẹp dần và ngày càng mất vệ sinh. Một số ít làng đã xây dựng
được hệ thống cống rãnh thoát nước trước đây thì nay do bị lấp bởi chất thải rắn,
gây ngập úng mỗi khi mưa xuống.
3.4. Biện pháp và phương hướng khắc phục
Trước tiên về qui hoạch, cần chú trọng tới qui hoạch mặt bằng chung và hạ
tầng cơ sở, trong đó cần bố trí thỏa đáng diện tích cho việc thu gom và xử lý chất
thải, diện tích cây xanh, đầu tư giải quyết hệ thống đường sá trong ngoài thôn
xóm cũng như hệ thống cấp thoát nước.
Về tổ chức quản lý sản xuất, cần chú ý xây dựng, cải tạo nhà xưởng, tổ
chức không gian thông thoáng tự nhiên tại nơi lao động, trang bị các dụng cụ an
toàn lao động, thiết bị thu gom bụi, hút khí tại các vị trí xả khí độc hại, tránh ô
nhiễm nhiệt do các lò nung, hầm sấy.
Về công nghệ và thiết bị sản xuất, việc quan trọng cần giải quyết kịp thời
là thay thế các thiết bị cũ kỹ, áp dụng công nghệ mới ít chất thải, hạn chế tiếng ồn
và rung, sử dụng các công nghệ phù hợp có khả năng giảm thiểu các chất độc hại.
Việc đề ra các giải pháp bảo vệ và cải thiện môi trường cho các làng nghề

phải căn cứ cụ thể vào các điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của địa phương.
Điều đó có nghĩa là phải đa dạng hóa các giải pháp bảo vệ môi trường tại các
làng nghề mà điều chính yếu là phải đạt được giải pháp tận dụng các ưu thế và
khắc phục được các hạn chế của từng làng nghề. Song dù ở địa phương nào và
đối với nghề gì thì giải pháp thu gom và xử lý chất thải đều phải đặt lên hàng đầu.
Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách chuyển đổi cơ cấu sản xuất, khuyến
khích phát triển ngành nghề nông thôn theo quy hoạch, tập trung các khu sản
xuất, kế hoạch gắn với bảo vệ môi trường, với bảo vệ, tôn tạo những di sản văn
hoá ở địa phương. Cạnh đó là hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ môi trường,
đưa vấn đề môi trường vào các dự án, vào hệ thống giáo dục...Nhưng cấp thiết,
có lẽ là 3 vấn đề:
 Một là cần có pháp lệnh về thuế môi trường.
 Hai là tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý đến đầu đến đũa các cơ sở gây
ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
 Ba là đa dạng hoá đầu tư cho bảo vệ môi trường.


Cơ quan chức năng đang kiểm tra một cơ sở sản xuất.
 Các ngành chức năng địa phương hỗ trợ thay đổi công nghệ, quy hoạch
khu sản xuất với hệ thống xử lý nước thải, rác thải…
Hiện nay, chuyện bảo vệ môi trường có ý nghĩa quan trọng, không chỉ là
sức khoẻ, là môi trường sống của cộng đồng mà nó còn có ý nghĩa sống còn với
chính ngay các sản phẩm của làng nghề. Muốn nâng cao tính “đua chen” của sản
phẩm, dù là thị trường nội địa hay quốc tế, vấn đề sản xuất sạch được người tiêu
dùng đặc biệt quan tâm.
III. Ý KIẾN
Chúng ta đang phải chứng kiến sức tàn phá ghê gớm của ô nhiễm môi
trường tới không chỉ cảnh quan nông thôn Việt Nam mà còn đối với sức khỏe của
chính những người dân. Hãy nhìn những làng quê đang bóc đi cái vẻ hồn hậu,
chất phác vốn có để khoác lên mình tấm áo kệch cỡm của một tên trọc phú. Hậu

quả của nó: Ô nhiễm đổ lên những cánh đồng, những dòng sông quê còn bệnh tật
đang đổ lên đầu những người dân nông thôn. Còn họ, những người nông dân thì
chỉ biết đứng nhìn.
Tài nguyên đất ở các vùng nông thôn vẫn đang tiếp tục bị suy thoái trầm
trọng, làm biến đổi các tính chất đất và không còn tính năng sản xuất. Các loại
hình thoái hoá đất chủ đạo ở nước ta là: Xói mòn, rửa trôi, sạt và trượt lở đất; suy
thoái vật lý (mất cấu trúc, đất bị chặt, bí, thấm nước kém); suy thoái hoá học
(mặn hoá, chua hoá, phèn hoá); mất chất dinh dưỡng khoáng và chất hữu cơ; đất
bị chua; xuất hiện nhiều độc tố hại cây trồng như Fe3+, Al3+ và Mn2+; hoang
mạc hoá; ô nhiễm đất cục bộ do chất độc hóa học, khu công nghiệp và làng nghề;
suy thoái và ô nhiễm đất ở khu khai thác mỏ.


Nguồn tài nguyên nước đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Hàng loạt những
dòng sông quê kêu cứu vì mức độ ô nhiễm đã gấp nhiều lần so với tiêu chuẩn cho
phép. Những nguồn nước ngầm cung cấp cho người dân nhiễm sắt, nhiễm chì,
nhiễm phèn, nhiễm thuốc bảo vệ thực vật và vô vàn loại chất độc hóa học do các
khu công nghiệp, các làng nghề thải ra vào lòng đất. Ở những dòng sông, những
ao hồ ở các vùng quê, những loài vật thủy sinh như tôm, cua, cá, ốc ếch và thậm
chí ngay một loài sống dai như đỉa thì đến bây giờ, chỉ còn thấy lại trong kí ức
của những già ở các vùng thôn quê.
Trên khắp các vùng nông thôn mọc lên những làng ung thư, làng bệnh tật.
Những thứ bệnh “nan y” vốn dĩ chỉ có những người lười vận động, phải chịu
nhiều chất độc hại mà thường chỉ ở các thành phố mới mắc phải thì nay trút
xuống vai những người nông dân nhọc nhằn, nghèo khó. Không hiếm những
người nông dân phải bán cả gia sản để về thành phố chữa chạy và cũng không ít
những người khác phải ngậm ngùi chờ chết vì không có tiền để chống lại những
căn bệnh tử thần.
Đã nhiều năm nay, báo chí nói nhiều đến việc ô nhiễm môi trường ở nông
thôn, những hiểm họa từ ô nhiễm môi trường mà những người nông dân đang

phải gánh chịu nhưng thực tế, không ai làm gì để giải quyết tình trạng đó. Chúng
không giảm đi, mà càng ngày càng tăng lên với mức độ nghiêm trọng hơn rất
nhiều lần.
Để có những chuyển biến tích cực hơn trong xử lý rác ở nông thôn góp
phần làm đẹp môi trường, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
nhiều chủ trương, chính sách, chương trình nhằm bảo vệ môi trường như Chương
trình Mục tiêu Quốc gia về nước sạch và môi trường nông thôn,… Thiết nghĩ
trong thời gian tới cần đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện những chủ trương, chính
sách đã có, tăng cường công tác tuyên truyền,cổ động, giáo dục nhân dân bằng
nhiều hình thức khác nhau về tác hại của rác thải đến sức khoẻ, đến môi trường
sinh thái: Nâng cao vai trò và trách nhiệm của các cấp chính quyền, các tổ chức
đoàn thể xã hội ở cơ sở trong việc hướng dẫn nhân dân thải rác đúng nơi, đúng
chỗ và xử lý rác đúng cách. Một trong những cách đơn giản là mỗi người phải có
ý thức không vung vãi rác thải mà bỏ vào túi nilon hoăc thùng rác, khi nào đầy
thì đổ đúng chỗ. Mỗi nhà hoặc một số nhà cùng chung nhau dành một chút đất
gần nhà để đào một cái hố rộng vài mét vuông chứa rác. Khi nào đầy hố thì lấp
đất lại và đào hố kế bên hoặc có thể gom rác khô thành đống để đốt. Làm như
vậy rác sẽ được xử lý, đất vẫn còn và lại có cả nguồn phân hữu cơ từ rác cung
cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng: thành lập các tổ, nhóm kiểm tra môi trường
và thường xuyên kiểm tra chéo giữa các tổ, có biểu dương, có phê bình để
khuyến khích phong trào và chấn chỉnh những việc chưa tốt. có như vậy ô nhiễm
môi trường do rác thải mối được hạn chế, nông thôn sẽ sạch sẽ và văn minh hơn.


IV. KẾT LUẬN
“Ô nhiễm môi trường nông thôn” là một vấn đề cấp bách và thiết thực. Qua
phân tích một vài vấn đề trên chắc hẳn chúng ta đã thấy được phần nào thực trạng
và những hậu quả của ô nhiễm môi trường nông thôn Việt Nam hiện nay và
những yếu tố ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống con người. Từ đó, chúng ta
nhận rõ được ý thức trách nhiệm to lớn của bản thân trong công tác bảo vệ môi

trường; đồng thời thúc đẩy sự nghiên cứu tìm tòi các biện pháp xử lí chất thải độc
hại gây ô nhiễm môi trường nhưng song song với nó vẫn phát huy khả năng sản
xuất, cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Ý nghĩa quan trọng hơn rút ra từ bài
tiểu luận đó là: con người luôn phải bảo vệ môi trường nói chung, hãy giữ
cho trái đất luôn xanh – sạch – đẹp.



×