Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Đề tài chiến tranh trong sáng tác nguyễn thi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.3 KB, 45 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
BỘ MÔN: VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY

ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH
TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN THI

TP. HỒ CHÍ MINH THÁNG 9 NĂM 2018

1


MỤC LỤC

Chương 1: Những vấn đề chung
1.1 Khái quát văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975
1.2.1 Hoàn cảnh lịch sử xã hội
Cách mạng tháng Tám thành công mở ra trang sử mới cho dân tộc Việt Nam.
Nước Việt Nam ra đời chấm dứt hơn 80 năm nô lệ dưới ách xâm lược Pháp và tay
sai. Song ngay từ khi mới giành được chính quyền, dân tộc Việt Nam đã phải bắt
tay vào cuộc chiến đấu gay go, quyết liệt chống lại thù trong, giặc ngoài. Suốt “ba
mươi năm dân chủ cộng hòa”, nhân dân ta đã liên tục tiến hành hai cuộc kháng
chiến thần thánh chống xâm lược Pháp và xâm lược Mĩ. Từ đây, hai nhiệm vụ
trọng tâm của cách mạng Việt Nam là đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, nhằm giải quyết hai mối mâu thuẫn lịch sử lớn lao là mâu thuẫn
dân tộc và mâu thuẫn giai cấp.
Cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm kết thúc thắng lợi bằng chiến thắng
Điện Biên “chấn động địa cầu”. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, trên con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ
chống Mĩ xâm lược. Từ 1965, Mĩ leo thang đánh phá miền Bắc. Cả nước là chiến
trường. Bao trùm lên toàn bộ cuộc sống xã hội là một không khí hừng hực lửa


chiến đấu. Khẩu hiệu lớn nhất lúc này là “Tất cả cho tiền tuyến. Tất cả để đánh
thắng giặc Mĩ xâm lược”. Chân lý của thời đại này là “Không có gì quý hơn độc
lập tự do”. Cả nước là một mặt trận, vừa chiến đấu, vừa xây dựng. Tinh thần dân
tộc, lòng yêu nước được đặt lên hàng đầu. Tính cộng đồng, chủ nghĩa tập thể, vai
trò trách nhiệm công dân của “con người mới xã hội chủ nghĩa” được đề cao. Tất
cả đều trở thành chiến sĩ, dù người đó là bất kỳ ai, lứa tuổi nào, ngành nghề gì, tôn
giáo nào … Thiếu nhi có “chiến sĩ nhỏ”, nhà văn nghệ sĩ có “chiến sĩ văn nghệ”,
công nhân lấy nhà máy, hầm mỏ làm trận địa, người nông dân thì “cuốc cày làm
vũ khí, nhà nông là chiến sĩ, hậu phương thi đua với tiền phương”! … Tất cả vì sự
nghiệp chung là giải phóng dân tộc. Con người tạm gác lại những nhu cầu cá nhân,
2


riêng tư, hòa trong niềm vui chung để quên đi nỗi buồn riêng. Đó là những “con
người mới xã hội chủ nghĩa” với tinh thần “làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa” rất
đặc trưng của một thời đại. “Mình vì mọi người, mọi người vì mình” là phương
châm sống và hành động lúc bấy giờ. Không khí xã hội nhìn chung là lạc quan, tin
tưởng. Không có sự cách bức con người với con người. Có cảm giác rằng người ta
như được sống lại thời đại đẹp đẽ xa xưa khi “muôn dân ca hát vui thời thịnh trị”,
hay “tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sống chén rượu ngọt ngào”. Tất cả cùng
hòa chung trong dòng chảy mãnh liệt của cuộc chiến tranh giải phóng. Cả dân tộc
“xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Con người tuy
sống trong thiếu nghèo nhưng rất dư giàu tình thân, tin tưởng. Họ sẵn sàng hi sinh
cá nhân vì sự tồn vong của dân tộc. Đây là thời đại của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, của “lòng dân ý Đảng” nhất thể về tinh thần và ý chí. Đó chính là nguyên
nhân của mọi thắng lợi của cách mạng.
Đó là thời đại sản sinh ra những anh hùng. “Ra ngõ gặp anh hùng”! Anh hùng
trong cả những công việc bình thường, âm thầm nhất. Đây là một thời đại lịch sử
mà có thể người ta thấy còn có những hạn chế nhất định về quyền lợi của cá nhân,
riêng tư, song lại là một thời đại đầy lạc quan, tin tưởng, và con người được tôn

trọng, đề cao hơn trong tầm kích của thời đại.
1.2.2. Khái quát về đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam giai đoạn
1945 – 1975
Từ 1945 – 1975, đất nước ta đã trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mĩ. Sau đó vào các năm 1978 và 1979, nhân dân ta còn phải
đương đầu với hai cuộc chiến tranh ở biên giới Tây – Nam và biên giới phía Bắc
để bảo vệ chủ quyền Tổ quốc. Trong hoàn cảnh chiến tranh kéo dài , để thắng được
những kẻ thù lớn mạnh, chúng ta phải huy động mọi nguồn lực, trong đó có văn
học. Với sứ mệnh tuyên truyền, cổ vũ chiến đấu, với phương châm “phục vụ kháng
chiến”, văn chương thời chiến xem chiến tranh là “lửa thử vàng”, là môi trường tôi
luyện con người mới. Trong sinh hoạt văn nghệ, văn học viết về chiến tranh được
đón nhận nhiệt tình, vì nó trực tiếp khẳng định chính nghĩa dân tộc, củng cố niềm
tin cho con người.
Trong bài Mấy nét về đề tài chiến tranh và tiểu thuyết Đất trắng, Đặng Quốc
Nhật đã thống kê: “Nếu tính từ 1954 đến 1975, thì đề tài chiến tranh được đề cập
3


đến ở một số lượng tác phẩm khá lớn so với các mảng đề tài khác: 115 tập truyện
kí, 74 tập tiểu thuyết trong số 397 tập truyện kí, 173 tập tiểu thuyết đã in…”
Văn học phản ánh kháng chiến và phục vụ kháng chiến thường khai thác vào
những nguồn tình cảm lớn: yêu nước, căm thù giặc; tình đồng chí và tình quân dân.
Ví dụ ở giai đoạn chống Pháp là tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu; Nhớ Máu, Tình
Sông núi (Trần Mai Ninh); Đồng chí của Chính Hữu; Đất nước của Nguyễn Đình
Thi; Nụ cười kháng chiến của Tú Mỡ…
Từ năm 1955 trở đi là một loạt bài của Tố Hữu trong Gió lộng, Ra trận,
Máu và hoa; Quê hương của Giang Nam; Quả sấu non trên cao, Những đêm hành
quân của Xuân Diệu; Chiều bên sông Vàm Cỏ của Nguyễn Đình Thi; Trường ca
Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm; Trường Sơn đông; Trường Sơn Tây
của Phạm Tiến Duật …

Những nguồn tình cảm đó là những nguồn sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng
cách mạng. Văn học phản ánh kháng chiến và phục vụ kháng chiến tất nhiên nhân
vật trung tâm phải là người chiến sĩ vũ trang hay những lực lượng trực tiếp phục vụ
chiến trường.
Từ 1945 đến 1954, là giai đoạn văn học chào mừng thành công của cách
mạng tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa và sau đó,
phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp. Đó là những vệ quốc quân, dân quân du
kích, dân công trong Bầm ơi, Cá nước, Phá đường, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
của Tố Hữu... Cuộc kháng chiến chống Pháp còn được tái hiện trong mọi thể loại
văn xuôi: Về thể kí, có thể kể tới Trận phố Ràng, Một cuộc chuẩn bị của Trần
Đăng, Ở mặt trận Nam Trung Bộ, Ngược sông Thao của Tô Hoài, Chặt gọng kìm
đường số Bốn của Hoàng Lộc, Kí sự Cao – Lạng của Nguyễn Huy Tưởng… Về tùy
bút, Đường vui và Tình chiến dịch, Tùy bút kháng chiến của Nguyễn Tuân có một
vị trí khá quan trọng trong văn xuôi giai đoạn này. Truyện ngắn cũng để lại được
một số thành công đáng kể: Đôi mắt của Nam Cao, Làng của Kim Lân, Con đường
sống của Minh Lộc, Gặp gỡ của Bùi Hiển, Tây đầu đỏ và Bên rừng cù lao Dung
của Phạm Anh Tải, Truyện Tây Bắc của Tô Hoài,… Giai đoạn này thuyết còn hiếm
hoi, tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến là Xung kích của Nguyễn Đình Thi.
Giai đoạn 1955 – 1964, hòa bình được lập lại ở miền Bắc, văn học có điều
kiện để phát triển. Văn xuôi giai đoạn này khá đa dạng về đề tài. Bên cạnh bộ phận
4


quay lại tái hiện bức tranh lịch sử Cách mạng tháng Tám 1945 (Mười năm – Tô
Hoài, Vỡ bờ - Nguyễn Đình Thi, Cửa biển – Nguyên Hồng,…) , hoặc hướng vào
đời sống hiện tại, phản ánh sự thay đổi của đất nước, của con người trong công
cuộc xây dựng cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa, văn xuôi về chiến tranh vẫn chiếm
vị trí quan trọng cả về số lượng lẫn chất lượng tác phẩm. Cuộc kháng chiến chống
Pháp được nhiều nhà văn tiếp tục khai thác. Một số tác phẩm tiêu biểu: Đất nước
đứng lên – Nguyên Ngọc, Vượt Côn Đảo – Phùng Quán, Mùa hoa dẻ - Văn Linh,

Một truyện chép ở bệnh viện –Bùi Đức Ái, Đất lửa – Nguyễn Quang Sáng,…
Tới giai đoạn 1965 – 1975, văn học giai đoạn này phục vụ cuộc kháng chiến
chống Mĩ trên lập trường dân tộc dân chủ và xã hội chủ nghĩa. Là những người
lính kì cựu vừa rời vũ khí chống Pháp, lại cầm lấy súng lên đường đánh Mĩ, đó là
nhân vật nổi bật trong thơ chống Mĩ của Tố Hữu và Phạm Tiến Duật…, khi cuộc
kháng chiến chống Mỹ lan rộng ra cả nước, văn xuôi viết về chiến tranh cũng nở
rộ. Có được thành tựu đó là do đội ngũ nhà văn cách mạng vừa đạt tới độ chín, vừa
được bổ sung những cây bút trẻ, xông xáo. Xuất phát từ yêu cầu phản ánh và cổ vũ
kịp thời cho cuộc chiến, nhiều nhà văn từ miền Bắc đã tăng cường cho chiến
trường miền Nam và họ nhanh chóng có được thành tựu: các tập truyện và kí Bức
thư Cà Mau của Anh Đức, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc của
Nguyễn Trung Thành, các tập truyện kí Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Họ
sống và chiến đấu của Nguyễn Khải, các tập truyện ngắn Chiếc lược ngà, Bông
cẩm thạch của Nguyễn Quang Sáng,… Tiểu thuyết về chiến tranh trở thành bộ
phận chủ đạo của văn học giai đoạn này.
Trong chiến tranh, con người trước hết là con người công dân, con người
chính trị, mọi vấn đề cá nhân, đời tư, phải rút xuống hàng thứ yếu. Thậm chí tự xóa
bỏ đi trước yêu cầu chung của đất nước. Cá nhân chủ yếu sống với cộng đồng, giai
cấp, dân tộc, đối diện với kẻ thù chung ít có điều kiện sống với bản thân mình.
Quan hệ cha con, anh em, chồng vợ, tình yêu, tình bạn chỉ là những sắc thái khác
nhau của tình đồng chí, tình bạn chiến đấu. Người phụ nữ trước hết không phải
người vợ, người mẹ mà là người chiến sĩ – Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi).
Một nền văn học trong chiến tranh triền miên và ác liệt dù thế nào cũng bị
đặt vào hoàn cảnh không thuận lợi. Khó khăn lớn nhất bao trùm lên tất cả là chiến
tranh đã thu hút biết bao sinh lực và tinh hoa, đã hạn chế biết bao tài năng và biết
bao cây bút có tài và có đức, đã ngã xuống trước miệng súng, dưới bom đạn của
5


giặc: Trần Đăng, Nam Cao, Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân, … Cũng cần thấy hết

những khó khăn ấy để đánh giá cao đội ngũ nhà văn của nền văn học mới, một đội
ngũ anh hùng đã cùng với bộ đội, nhân dân trèo đèo lội suối, ngủ hầm, khoét núi,
ăn ngô, ăn sắn,.. để tìm hiểu và cảm thông với nhân dân, với bộ đội, để chiến đấu
và viết. Đây là thời kỳ mà những nhà văn – chiến sĩ không chỉ viết bằng mực trên
giấy mà nhiều khi còn lấy máu của mình viết vào trang sử dân tộc. Những cây bút
ấy qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đã tạo nên những thành tựu
được Đảng đánh giá, xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của những nền văn
học chống thực dân – đế quốc hiện nay.
Tất nhiên một dân tộc phải luôn luôn đứng lên bảo vệ tổ quốc, hết chống
Pháp lại chống Mỹ. Văn học của nó trước hết phải là một lưỡi gươm giết giặc: đề
tài trung tâm phải là cuộc chiến đấu vũ trang, nhân vật trung tâm là người lính
nhưng cuộc chiến đấu của chúng ta là một cuộc chiến đấu toàn dân toàn dân, toàn
diện, vừa chiến đấu vừa sản xuất, vừa xây dựng văn hóa giáo dục. Từ 1945 – 1975,
hiện thực cách mạng và đời sống lịch sử dân tộc là đối tượng phản ánh chủ yếu của
nhà văn. Vai trò của nhà văn cũng được nhìn nhận ở phương diện “chiến sĩ”. Con
người mới, những con người mang tầm vóc sử thi, luôn chiếm vị trí trung tâm
trong đời sống văn học. Có thể nói, khuynh hướng gắn liền với các cuộc chiến
tranh vệ quốc, là đặc điểm bao trùm cả nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945 –
1975.
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Thi
1.2.1. Cuộc đời của Nguyễn Thi
Nguyễn Thi tên khai sinh là Nguyễn Hoàng Ca (bút danh khác là Nguyễn
Ngọc Tấn), quê ở xã Quần Phương Thượng (nay là xã Hải anh), huyện Hải Hậu,
tỉnh Nam Định. Phụ thân là cụ Nguyễn Bội Quỳnh, một nhà nho sớm tham gia hoạt
động cách mạng. Trên đường hoạt động, dẫu biết ông đã có vợ, một nữ chiến sĩ
đem lòng yêu ông, ấy là bà Thành Thị Du. Sinh con rồi, con đường cách mạng
không thể bỏ, phải lặn lội trốn tránh đó đây, kế sinh nhai luôn thúc bách, ông bà
phải gồng lưng làm lụng nuôi mấy mạng người. Từ bé Nguyễn Hoàng Ca đã phải
bị đem gửi hết nhà này sang nhà khác. Miếng cơm nhà người thân, dẫu không phải
ai cũng ghẻ lạnh, nhưng thường có vị đắng và nước mắt.

Lên chín, cha mất vì bệnh lao, bà mẹ trẻ một mình không nuôi nổi con, lại
tiếp tục gửi nhờ cho người thân. Sau đó mẹ lại đi bước nữa, ông học hành dở
6


dang, lắm lúc tự lo kiếm sống, như nhiều đứa trẻ làng quê có chút tài hoa thuở ấy,
Nguyễn Hoàng Ca tham gia các ban Đồng ấu đi hát kiếm tiền. Năm 1943, mười
lăm tuổi, ông lên tàu vào Nam tìm tới ở nhờ người anh khác mẹ đã vào Sài Gòn
trước đó. Lại bắt đầu những ngày nhọc nhằn kiếm sống trong đói khổ và tủi nhục.
Nhưng đã tới tuổi có ý thức tự lập, ông tranh thủ thời gian đi học: học văn hóa, học
vẽ, học nhạc và đọc sách.
Cách mạng tháng 8-1945 nổ ra khi ông vào tuổi mười bảy. Một bình minh
mới đã tới với chàng trai nghèo đi kiếm sống mà cũng là đi tìm lẽ sống. Hoạt động
xã hội của thành phố vừa cách mạng lôi cuốn mọi tầng lớp thanh niên: sinh hoạt
đoàn thể, mít tinh, công tác xã hội, học hát. Ông nô nức tham gia mọi hoạt động
phong trào thanh niên như đã tìm tới chân trời hạnh phúc của mình. Nhưng không
đầy 100 ngày tự do, thực dân Pháp đã gây hấn trở lại.
Nguyễn Hoàng Ca theo một người bà con vào Nam từ trước Cách mạng tháng
Tám. Bắt đầu tham gia Cách mạng năm 17 tuổi; làm thơ, viết văn với bút danh
Nguyễn Ngọc Tấn; là đội viên đội Cảm tử quân trong những ngày tổng khởi nghĩa
ở Sài Gòn; được kết nạp Ðảng năm 1947 (19 tuổi). Năm 1953, Nguyễn Ngọc Tấn
cưới vợ. Sau đó, tập kết ra Bắc, công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội, (để lại
miền Nam người vợ trẻ đang mang thai).
Tháng 5-1962, Nguyễn Ngọc Tấn xung phong vào Nam, đổi bút danh thành
Nguyễn Thi (tên của đứa con trai, với người vợ sau, ở miền Bắc). Là thành viên
tích cực của lực lượng Văn nghệ Quân Giải phóng. Tháng 5-1968, theo một đơn vị
pháo binh tham dự đợt tổng tiến công Mậu Thân đợt 2 và đã anh dũng hy sinh trên
chiến trường vào ngày 09-5-1968 (tại đường Minh Phụng, quận 11 - Sài Gòn).
Trong 06 năm ở miền Nam, Nguyễn Thi có mặt tại hầu hết những điểm nóng
của chiến sự: Ấp Bắc, Củ Chi, Bến Tre,...

1.2.2. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Thi
• Có thể tìm hiểu theo hai thời kỳ chính:
Từ 1950 đến 1962: sáng tác trên miền Bắc, với bút danh Nguyễn Ngọc Tấn.
Các tác phẩm tiêu biểu: tập thơ Hương đồng nội, hai tập truyện ngắn: Trăng sáng,
Ðôi bạn.
7


Từ 1963 đến 1968: sáng tác ở miền Nam, với bút danh Nguyễn Thi. Những
tác phẩm tiêu biểu ở các thể loại: ký, truyện ngắn, truyện ký, tiểu thuyết được tập
hợp trong Truyện và ký Nguyễn Thi.
Ở chặng đầu sáng tác: Nguyễn Ngọc Tấn vừa làm thơ vừa viết truyện. Ðầu
1950, tập thơ Hương đồng nội ra đời, gồm 20 bài. Ðây là tiếng lòng của một người
đang chập chững trên bước đường văn chương, tập quan sát, miêu tả và tự thể
hiện- như một cậu học trò tập làm luận- nên giá trị nghệ thuật chưa cao.
Hai tập truyện ngắn Trăng sáng, Ðôi bạn tập trung vào ba mảng đề tài khá
quen thuộc bấy giờ: tấm lòng Nam-Bắc trong chia cắt, tình nghĩa quân dân (giữa
đồng bào miền Bắc với bộ đội miền Nam đi tập kết), tội ác của Mỹ Ngụy. Mỗi tập
gồm 07 truyện.
Thời kỳ này, truyện của Nguyễn Ngọc Tấn không có gì đặc biệt về đề tài. Sự
kiện được phản ánh cũng chưa mang tầm vóc lớn lao của lịch sử. Nhà văn chưa có
ý định, chưa đủ sức vẽ những bức hoành tráng về dân tộc và kháng chiến. Tuy
nhiên, những trang viết ban đầu ấy vẫn mang sức hấp dẫn, thuyết phục riêng có
được từ những đặc sắc nghệ thuật.
Nguyễn Ngọc Tấn đặc biệt chú ý thể hiện nội tâm nhân vật và nội tâm của
chính mình. Nhiều chi tiết có ý nghĩa tự truyện. Hiện thực chủ yếu là hiện thực tâm
hồn, rất chân thực, gần gũi.Văn phong giàu chất trữ tình, chất thơ; ít hành động, sự
việc, giàu tâm tình. Kết hợp với những hình ảnh so sánh thông minh, độc đáo tạo
nên những hứng thú thẩm mỹ bất ngờ: Sự nóng ruột giấu ở trong đôi mắt đảo lia
đảo lịa của cô tưởng có thể tóm ra mà đặt xuống bàn được (Một chuyến về phép);

Tin ấy như con rắn luồn từ ngõ này sang ngách khác (Về Nam).
• Đề tài chiến tranh trong các thể loại sáng tác của Nguyễn Thi:
* Truyện và ký Nguyễn Thi:
Ðây là một trong những thành tựu xuất sắc của nền văn học Cách mạng
miền Nam, gồm 11 tác phẩm (4 truyện ngắn, 1 tiểu thuyết, 2 ký, 1 ghi chép và 3
tùy bút).
Nguyễn Thi viết truyện ngắn không nhiều nhưng truyện nào cũng có giá trị,
đặc biệt: truyện về những nhân vật thanh thiếu niên và người phụ nữ. Bối cảnh là
8


nông thôn Nam Bộ những năm tháng ngột ngạt trước xuân Mậu Thân 1968. Ở đó,
một khi tội ác giặc càng chồng chất thì lòng căm thù và quyết tâm trả thù càng
ngùn ngụt bốc cao.
Chuyện xóm tôi (1964): Sáng tác đầu tiên với bút danh Nguyễn Thi. Nhân
vật chính là hai đứa trẻ tên Ðực và Bỉnh, sống chung trong một xóm nhỏ vùng Mỏ
Cày, Bến Tre. Cả hai có chung mối thâm thù: hai người cha đều bị tên ác ôn Tổng
Phòng giết cùng một ngày. Qua câu chuyện giữa hai đứa trẻ, tác giả muốn đi tìm
căn nguyên sâu xa sức mạnh quật khởi của người Việt Nam; tất cả bắt đầu từ lòng
căm thù và quyết tâm trả thù nhà, đền nợ nước.
Mùa xuân (1964): Như viết tiếp Chuyện xóm tôi, vẫn những nhân vật và bối
cảnh cũ nhưng không khí khởi nghĩa đã khẩn trương hơn nhiều với cảnh bộ đội về
làng, thanh niên nô nức lên đường tòng quân,... Truyện có cái nhìn bao quát hơn về
tình thế Cách mạng, về vai trò và khả năng của quần chúng.
Những đứa con trong gia đình (1966): Chuyện về hai chị em Chiến và Việt tiêu biểu cho thế hệ trẻ miền Nam - trong cuộc đối đầu tưởng chừng không cân sức
với giặc Mỹ và bọn tay sai ác ôn. Nặng thù nhà nợ nước, cả hai tranh nhau lên
đường tòng quân và đã trở thành những anh hùng trẻ tuổi. Truyện có nhiều trang
chân thực, cảm động (đêm trước ngày hai chị em lên đường; lúc Việt bị trọng
thương, một mình trên chiến trường; cảnh chị em khiêng bàn thờ ba má qua gửi
nhà chú Năm...). Kết cấu, ngôn ngữ khá tiêu biểu cho phong cách Nguyễn Thi.

Mẹ vắng nhà: Viết sau khi Người mẹ cầm súng ra đời, vẫn dựa trên những
tính cách của đám con chị Út Tịch. Nguyễn Thi muốn bổ sung thêm việc miêu tả
tính cách, sinh hoạt của chúng để cắt nghĩa những băn khoăn của độc giả: vì sao
một người mẹ đông con như vậy lại có thể rảnh rang, bình tĩnh theo du kích đánh
giặc suốt ngày đêm ? Truyện cho thấy: những đứa trẻ đã sống thật ấm áp trong sự
đùm bọc, cưu mang đầy tình nghĩa và trách nhiệm của bà con lối xóm, dù Ba Má
chúng luôn vắng nhà.
* Ký: được viết dưới nhiều dạng: ghi chép, tùy bút, truyện ký.
Tùy bút: thường ngắn gọn, súc tích chứ không tài hoa uyên bác như Nguyễn
Tuân, cũng không rắn rỏi hào hùng như Nguyễn Trung Thành. Câu văn bình dị,
thân mật, khiêm tốn; giọng điệu thiết tha; có sức vang vọng sâu xa trong tâm hồn
9


người đọc: Chúng phải chết trên những hố bom do chúng gây ra, trên những căn
hầm chúng lùa hơi độc, trên những vòm cây chúng làm trụi lá, trên những bờ kinh
xanh biếc này.
Tùy bút Nguyễn Thi đề cập và giải quyết hàng loạt mối quan hệ thuộc về thế
giới quan, nhân sinh quan thời chiến: sống - chết; riêng - chung; sướng - khổ; thể
hiện tấm lòng yêu nước và thủy chung của đồng bào Nam Bộ; khẳng định sức sống
mãnh liệt của dân tộc Việt Nam. Sức sống ấy bắt nguồn từ truyền thống nhân
nghĩa, vì: Khi nhân nghĩa bị xúc phạm thì nhân nghĩa lại mang sức quật khởi ghê
gớm...Một sự đổ nát trỗi dậy trăm vạn niềm tin.
Những tùy bút tiêu biểu: Ðại hội anh hùng, Những câu nói trong đại hội,
Dòng kinh quê hương.
Bút ký tiêu biểu: Những sự tích ở đất thép, tập trung thể hiện sự bình tĩnh,
gan dạ của chúng ta giữa sự lồng lộn tuyệt vọng của kẻ thù ở đất thép Củ Chi. Nhà
văn hình như không bằng lòng với thuyết lý chung chung về chủ nghĩa anh hùng
Cách mạng, nên đã xông xáo đi tìm hiểu và thể hiện thật cụ thể, sinh động nhận
thức của chính mình bằng hình tượng nghệ thuật.

Truyện ký tiêu biểu: Người mẹ cầm súng, Uớc mơ của đất
Người mẹ cầm súng: tác phẩm được Hội đồng Văn học nghệ thuật của Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tặng giải chính thức giải thưởng văn học
Nguyễn Ðình Chiểu năm 1960-1965. Nguyễn Thi viết tác phẩm này nhằm hai mục
đích. Thứ nhất, tập trung lý giải mối quan hệ giữa tư cách công dân (phải đảm bảo
chức năng xã hội) với tư cách người mẹ, người vợ (phải đảm bảo chức năng gia
đình). Ngay tiêu đề Người mẹ cầm súng cũng đã toát lên ý đồ nghệ thuật của tác
giả. Thứ hai, lý giải nguồn gốc tạo nên người anh hùng và quá trình phát triển hợp
lý những tính cách anh hùng: từ tự phát đến tự giác. Ðặc sắc nghệ thuật của tác
phẩm là điển hình hóa với chất Út Tịch - điển hình tính cách Nam bộ, tức là sức
mãnh liệt đến hồn nhiên của cá tính, thể hiện ở những hoàn cảnh, việc làm, câu nói
không lẫn với ai khác (ném ớt bột vào mặt con gái địa chủ, trèo lên ngọn dừa cao
đái xuống; những câu nói nổi tiếng như: còn cái lai quần cũng đánh, đánh Tây
sướng bằng tiên chứ cực gì,...)

10


Ước mơ của đất: những trang viết cuối cùng của nhà văn, kể lại cuộc đời
người nữ anh hùng Nguyễn Thị Hạnh. Tác phẩm còn ở dạng bản thảo.
* Tiểu thuyết:
Nguyễn Thi thường viết nhiều tác phẩm cùng một lúc nên hầu hết đều dở
dang khi nhà văn hy sinh. Tuy nhiên, với dung lượng hiện thực ngồn ngộn phong
phú, tươi rói sức sống cộng với tài năng đang độ sung sức của tác giả- những tác
phẩm dở dang ấy vẫn mang giá trị văn học to lớn. Các tác phẩm tiêu biểu: Ở xã
Trung Nghĩa, Sen trong đồng, Cô gái đất Ba Dừa.
Ở xã Trung Nghĩa viết về vùng đất sẽ là chiếc nôi cho phong trào Ðồng Khởi
sau này. Tác phẩm tuy mới 3 chương, chưa có đầu đề, nhưng chiếm vị trí đặc biệt
quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Thi. Nó đánh dấu một chặng
đường mới, khi mà nhà văn tích lũy dồi dào vốn sống, thuộc lòng tính cách Nam

Bộ, bắt đầu triển khai những chất liệu ấy trong một hình thức, một thể loại quy mô
hơn.
Ở xã Trung Nghĩa thể hiện tính hoành tráng của cả một giai đoạn lịch sử.
Không khí truyện được tập trung xây dựng ngay từ đầu, đó là sự căng thẳng trong
cái thế tức nước, báo hiệu cơn giông tố lịch sử tất yếu phải đến. Nhân vật truyện
gồm nhiều tuyến tương phản nhau, rất đa dạng. Những nhân vật chính được chạm
khắc thành hình tượng khó quên (ông Tư Trầm, chị Hai Khê, những tên quỷ sứ như
đại diện Hiếm, cảnh sát Âu). Nhà nghiên cứu Vũ Ðức Phúc có nhận xét: Cuốn tiểu
thuyết viết dở Ở xã Trung Nghĩa có thể so sánh với Tắt đèn. Lời văn của anh nhẹ
nhàng, giàu chất thơ mà rất sâu sắc, mỗi trang đều lôi cuốn người đọc. Sen trong
đồng cũng là một truyện dài dở dang. Nhân vật chính: cô Sáu giao liên. Từ trong
mất mát, tù đày và những khắc nghiệt của hoàn cảnh, trên con đường gian khổ tìm
đến với Cách mạng- phẩm chất anh hùng, bất khuất của người phụ nữ Nam bộ
được khẳng định: Mười tám tuổi, xa nhà đi tìm đến với Cách mạng. Mang theo
trong hành trang một trái thơm, một buồng chuối chín, một bộ đồ phèn trên người
và một bộ nữa rách te tua bỏ trong một cái tụng bàng.
Cô gái đất Ba Dừa tập trung khắc họa phẩm chất trung hậu, đảm đang của
người phụ nữ Việt Nam. Nhân vật chính: cô Ba. Bằng tính cách mạnh mẽ và tinh
thần của người Ðảng viên, cô đã vượt qua những khó khăn lớn trong cuộc sống gia
đình để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
11


Chương 2: Đề tài chiến tranh nhìn từ phương diện nội dung
2.1 Hình tượng con người trong sáng tác của Nguyễn Thi
2.1.1. Hình tượng người phụ nữ
Trong văn học 1945- 1975, người phụ nữ xuất hiện là những người mẹ, người
vợ, người yêu làm hậu phương vững chắc cho chồng con ra trận, họ cũng là những
người tham gia cách mạng ở địa phương, đảm đang việc gia đình. Họ thường được
miêu tả với phẩm chất anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Những người phụ

nữ có chồng, con ra trận là niềm tự hào, điều tất yếu. Các cô gái tiễn chồng hoặc
người yêu ra trận, tham gia thanh niên xung phong với niềm lạc quan phơi phới,
coi nhẹ gian khổ, hy sinh. Những khó khăn, mất mát nếu có cũng trở thành cội
nguồn nghị lực sống của họ. Vâng, trải qua 30 năm kháng chiến, trong truyện ngắn
Việt Nam đương đại, hình tượng người phụ nữ chiếm vị trí trung tâm, được nhiều
tác giả lựa chọn ký thác tư tưởng về chiến tranh và Nguyễn Thi cũng là một trong
số những nhà văn đó.
Đứng trước bối cảnh xã hội bấy giờ, Nguyễn Thi đã giúp chúng ta đi tới
những khám phá đúng đắn và sâu sâu về con người miền Nam, con người Việt
Nam. Ông đã dựng lên những chân dung anh hùng nữ đầy sự dũng cảm, kiên nhẫn
như chị Út Tịch, mẹ Việt, chị Ba, Chiến,... Bên cạnh đó, ông còn hướng tới bất cứ
con người bình thường khác, ông không hề mô tả họ trong tình trạng bối rối, mình
tự đối lập với mình mà ông đặt họ trong bối cảnh cách mạng, trước những yêu cầu
của cách mạng. Họ là nơi hội tụ phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam:
“Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Chúng ta có thể bắt gặp một nhân vật điển hình như trong tác phẩm “Người
mẹ cầm súng”: Bao nhiêu khó khăn đặt ra trước mắt chị Út: việc nhà, năm con, lại
tiếp tục bụng mang dạ chửa,... và đó cũng chính là bấy nhiêu hoàn cảnh cho chị
bộc lộ tất cả sự dồi dào vô hạn những khả năng và nghị lực của mình. Nổi bật trong
con người chị đó là phẩm chất anh hùng. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét chị là
một người mẹ anh hùng, người vợ anh hùng và là người con anh hùng của quê
hương Tam Ngãi. Ngay từ nhỏ, đối tượng căm thù của chị là bọn địa chủ. Chúng hà
khắc, áp bức, bóc lột người dân trong đó có chị. Chị đã từng bị bọn địa chủ đánh
12


ngay trong lúc chiêm bao – thấy mình đang ăn khoai. Tỉnh dậy, chị tưởng là ăn
trộm khoai thật nên bị đòn. Chị ức lắm, “thù nó thấu xương”. Và để người ta không
coi thường mình là “đàn bà đi đái không khỏi ngọn cờ” chị liền “leo tuột lên ngọn
dừa đái xuống”. Cái ngang bướng ấy phát triển dần và trở thành tính hiên ngang,

bất khuất.
Chị đã có phản ứng khi bọn địa chủ đánh mình: liệng cái chén vào mặt mụ
Hàm Giỏi, ném nắm ớt bột vào con gái hội đồng Thanh,... Những hành động này
mang tính tự phát vì chị nghĩ rằng “phải đánh nó để nó không đánh được mình”.
Cách mạng đến với toàn miền Nam và đi vào lòng chị Út tự lúc nào không biết.
Chỉ biết việc làm đầu tiên của chị có ích cho cách mạng đó là cất máy đánh chữ khi
các anh bỏ quên. Và sau đó không lâu, chị Út đã đến xin các anh đi đánh Tây. Theo
chị, đánh Tây sướng bằng tiên vì nó đánh mình thì mình đánh lại. Chân lý mà chị
đưa ra thật giản dị nhưng cũng rất sâu sắc. Đó là nhịp cầu, là con đường cho chị
đến với cách mạng, hướng về cách mạng, tin vào cách mạng. Lòng trung thành với
cách mạng của chị còn thể hiện qua câu nói với chồng: “hễ theo giặc là thôi nhau
luôn, còn đánh lộn chết bỏ cũng thôi nhau luôn”. Ở chị ta luôn bắt gặp thái độ bình
tĩnh và thông minh. Nhà hết gạo chị tự xoay xở để chồng yên tâm công tác. Đi gặp
bọn lính giữa đường chị liền nghĩ ra một mẹo gì để đánh nó nhưng nó không thể
đánh lại mình. Chị luôn tin tưởng vào chính mình, vào tấm lòng của mình đối với
cách mạng.
Một trong những đức tính cao quý của chị đó là sự hi sinh lợi ích cá nhân, đặt
quyền lợi của cách mạng lên trên. Như hồi Tam Ngãi bị đói chị đã đi xin gạo đem
vào cho các cơ sở binh vận trong như gạo nhà chị không còn một hột. Lúc chuẩn bị
đánh bót Tám Thế chị liền nói với chồng: “Tôi nhứt định lấy cái bót này nhưng lỡ
phải đem thân ra cho nó giỡn bót, giày vò, anh chịu được không?”. Anh Tịch nói:
“Em làm sao được cứ làm”. Đấy là một trong những đoạn cảm động nhất của
truyện kí. Có thể nói, nhà văn miêu tả những chiến công ấy không chỉ để nói về
những chiến công ấy. Để đạt được nó, chị Út phải vất vả, phải hy sinh tất cả, ngay
đến hạnh phúc riêng tư của mình. Chính tác giả cũng ngấm ngầm lo lắng, xúc động
nhưng không để lời văn của mình bi lụy. Những chữ như “hy sinh thân mình”,
“thương chồng vô cùng”,...như là tâm sự từ tận đáy lòng của chị, cốt chỉ mong mọi
người thông cảm và hiểu cho mình. Lòng chị đau như cắt, anh Tịch cũng không
kém. Họ đành hy sinh tình cảm cá nhân, làm bất cứ điều gì để có thể đem lại nền
13



độc lập, tự do cho nước nhà. Chị luôn nghĩ đến mọi người và hầu như không lúc
nào nhớ đến bản thân mình, chị chỉ lo làm sao có thể đánh thắng giặc Mỹ để quê
hương được yên bình. Nỗi lo ấy được chuyển thành hành động và đó là những
chiến công oanh liệt khi tiêu diệt kẻ thù. Thiết nghĩ những đức tính cao đẹp thật
cao cả. Ngay trong biểu hiện của đời thường cũng tiềm ẩn tính phi thường, anh
hùng. Chị Út là nơi hội tụ những phẩm chất cách mạng cao quý của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Hình ảnh chị Út Tịch đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc với tinh
thần chiến đấu mãnh liệt “còn cái lai quần cũng đánh”. Chị mang bầu bảy tháng
nhưng chị vẫn xông pha đánh giặc và chị đã trở thành người phụ nữ đại diện cho
tất cả những người phụ nữ miền Nam anh hùng bất khuất. Bên trong chị, hơn cả
người vợ, người mẹ mà còn là người chiến sĩ cách mạng, hi sinh tất cả vì sự nghiệp
giải phóng đất nước. Tác giả đã xây dựng hình tượng chị Út Tịch mang đầy đủ đặc
điểm của người phụ nữ Nam Bộ hết lòng vì chồng, vì con, vì đất nước mà hy sinh.
Hay như nhân vật Chiến trong tác phẩm “Những đứa con trong gia đình”,
chị là một nữ thanh niên. Mẹ mất, chị thay mẹ lo cho các em. Đêm sắp xa nhà đi
bộ đội, ta thấy Chiến giống mẹ hơn bao giờ hết. Một cô Chiến biết lo liệu, xốc vác,
đảm đang, toan tính việc nhà thật kĩ càng, trọn vẹn. Từ việc lo cho em, cái nhà, nồi,
lu, chén đĩa,.. đến việc chọn nơi gởi bàn thờ má. Từ lối nằm với thằng em út trên
giường ở trong buồng nói vọng ra với lối “hứ một cái cóc”. Có khác chăng với
người mẹ đó là “không bẻ tay rồi đập vào vế than mỏi”. Lồng vào trong con người
đời thường của Chiến đó là phẩm chất anh hùng cách mạng. Điều này thể hiện ở
lòng căm thù giặc sâu sắc, ở câu nói giành với em để được đi bộ đội trước, ở thái
độ cương quyết “đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: “nếu giặc còn thì
tao mất, vậy à!”. Đối với người thân của mình Chiến hết lòng yêu thương, quý
mến, đối với bọn giặc, Chiến căm thù, quyết không đội trời chung. Lý tưởng cách
mạng tiềm ẩn và soi sáng trong Chiến khiến Chiến có thể nhận rõ dã tâm của kẻ
thù. Chiến muốn vào bộ đội là để cầm súng giết giặc trả thù cho ba má, cho quê

hương. Ngòi bút Nguyễn Thi đã miêu tả nhân vật Chiến thật nhuần nhị. Chủ nghĩa
anh hùng cách mạng và con người đời thường đan xen vào nhau. Con người đời
thường trở nên cao vời từ khi chủ nghĩa anh hùng được bộc lộ rõ. Biến cố chiến
tranh và tội ác của kẻ thù đã đưa đất nước ta vào cuộc chiến tranh tàn khốc, cả dân
14


tộc phải đắm mình trong chiến tranh và khói súng. Chưa bao giờ, hình ảnh người
phụ nữ lại anh hùng, kiên cường và bất hủ như vậy.
Cũng trong truyện ngắn này, nhân vật mẹ Việt là hiện thân của truyền thống
và cũng là của thời đại cách mạng. Người mẹ mang trong mình những phẩm chất
cao đẹp: Tần tảo, đảm đang, thủy chung và căm thù giặc. Qua hồi ức của Việt, hình
ảnh người mẹ hiện lên rất rõ. Từ ngoại hình đến đời sống nội tâm. Khác với các
nhân vật khác, nét chủ yếu trong đời sống nội tâm của người mẹ này là đau thương.
Đau thương nhưng rất anh hùng. Trước cái chết của chồng, tuy đau xót lắm nhưng
mẹ đành ghìm nén nỗi đau của mình lại “Má chỉ khóc chứ không kể gì hết”. Người
mẹ muốn một mình gánh trọn nỗi đau thay con, sống trên chính nỗi đau ấy để nuôi
con khôn lớn. Dưới bàn tay chăm sóc, che chở của mẹ, những người con cảm thấy
ấm áp, yên tâm. Suốt cả đời, mẹ dành tình thương cho con của mình. Chính vì lẽ
đó, khi viết về người mẹ, Nguyễn Thi viết bằng lời văn bình dị, chân chất nhất.
Tuy lam lũ với đồng lúa, với công cấy, gặt,...nhưng trong mẹ vẫn tiềm ẩn sự căm
thù, thái độ thách thức đối với quân giặc. Chi tiết hai con mắt cứ ánh lên nhìn lại
bọn lính thể hiện khí phách của mẹ. Đôi mắt của mẹ như biết nói, như trút cả lòng
căm thù sôi sục lên đầu bọn chúng. Bao nhiêu tình thương Nguyễn Thi đều dành
vào việc miêu tả người mẹ. Có lẽ vì vậy mà trong tác phẩm của ông, hình tượng
người mẹ là đẹp nhất, kết tinh trong những truyền thống chung thủy, đảm đang,
nhân hậu, bất khuất, kiên trinh.
Tóm lại, đó là hướng khám phá tính cách con người ở Nguyễn Thi, nhằm
sáng tỏ một cách tự nhiên, không chút cố ý, cái hiện tượng có thể xem là đặc trưng
cơ bản của cuộc sống dân tộc Việt Nam trong chiến đấu. Cái bình thường đã được

nâng lên tầm vóc anh hùng, người anh hùng đã trở thành bình thường, tự nhiên như
đời sống vậy. Và có thể nói, Nguyễn Thi đã dành cho nhân vật nữ anh hùng của
mình những lời cảm ơn, khâm phục trước những đức tính cũng như tinh thần anh
dũng, dám hy sinh của những người mẹ, người vợ, người chị, người em,... Tất cả
họ đều xứng đáng trở thành những người anh hùng nữ đáng ghi dấu trong lịch sử
dân tộc và đáng để chúng ta ghi nhớ và biết ơn.
2.1.2. Hình tượng người lính
Có thể nói, thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Thi rất phong phú: từ
những em nhỏ như Đực, Bỉnh, Bé,...đến những người già như chú Năm, ông Tư
rầm,...từ đứa con chú ấp Sồi đến tên cảnh sát Âu, đại diện Hiếm hay đơn giản là
15


những con người chân chất, giản dị mang đậm sắc thái Nam Bộ. Mỗi nhân vật đều
thể hiện cái nhìn khách quan của nhà văn và nhân vật chính là người dẫn dắt người
đọc đi vào một thế giới riêng của đời sống trong thời kì lịch sử nhất định. Và hình
tượng người lính cũng không nằm ngoại lệ.
Là một chiến sĩ, Nguyễn Thi có điều kiện gặp gỡ, gần gũi với người dân Nam
Bộ. Do đó, ông có rất nhiều thuận lợi khi viết về họ - những người anh hùng của
dân tộc. dù viết về đề tài thiếu nhi, người phụ nữ hay là người lính thì ông vẫn thể
hiện thành công hai mặt của nhân vật đó là: rất anh hùng nhưng cũng rất đời
thường, chất anh hùng hòa quyện trong chất đời thường. Chúng gắn bó chặt chẽ và
bổ sung cho nhau, cái này làm nền để cái kia phát triển và ngược lại. Bằng những
chi tiết chân thật – ông đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng về người lính, tuy
trong sáng tác của ông thì hình tượng người lính không phải là hình tượng nổi bất
so với hình tượng người phụ nữ và hình tượng trẻ con. Nhưng bằng ngòi bút của
mình thì ông đã nêu lên cho độc giả thấy được phẩm chất quý giá, cao đẹp của
những người lính Việt Nam đã anh dũng xông pha ra mặt trận để chiến đấu bảo vệ
đất nước. Chính vì vậy mà Nguyễn Thi rất thận trọng khi viết về những nhân vật đã
làm nên lịch sử - nhân vật anh hùng. Nhân vật của Nguyễn Thi dường như quên đi

cuộc sống cực khổ hằng ngày, họ vươn lên bằng ý chí, nghị lực, chiến đấu một
cách ngoan cường và có đời sống nội tâm phong phú, cao đẹp. Họ là những người
lính đại diện cho sự trẻ trung, năng động, dũng cảm và đầy nhiệt huyết.
Điển hình như khi đọc tác phẩm “Những đứa con trong gia đình”, ta không
thể nào quên nhân vật Việt. Việt gia nhập bộ đội, tham gia trận đánh. Lần này anh
bị thương nặng lại lạc trong rừng đến ba ngày. Vết thương đau nhức cứ hành hạ
anh nhưng anh chẳng buồn nghĩ đến nó. Quả là một con người dũng cảm. Cứ đọc
đoạn Việt và tên Mỹ quần với nhau ta sẽ hiểu rõ hơn nỗi đau mà Việt chịu đựng.
Hành động dũng cảm, anh hùng của anh khiến ai ai cũng phải khâm phục. Tên Mỹ
cao to như cây su cụt đã bị Việt hạ khi lòng căm thù giặc cùng với sức mạnh trong
cơ thể được bật dậy một cách mãnh liệt nhất. Cuộc chiến đấu quyết liệt giữa Việt
và kẻ thù diễn ra chỉ trong chớp nhoáng. Tác phẩm được viết lại thông qua hồi ức
của nhân vật Việt. Cứ thế, Việt ngất rồi tỉnh, tỉnh rồi lại ngất đi. Trong khoảng thời
gian ấy, Việt nhớ về mẹ, nhớ về chú Năm, về chị,... Quá khứ hiện về đan xen với
hiện tại. Quá khứ là những kỉ niệm thân yêu về một người mẹ tần tảo, xốc vác, suốt
một đời tận tụy lo cho con. Quá khứ có khi lại là đêm sắp xa nhà đi bộ đội của hai
16


chị em. Quá khứ còn là những trò chơi trẻ thơ với chiếc nả thun,.. Với ngòi bút
theo sát mạch diễn biến tâm lí nhân vật cho chúng ta thấy nhân vật Việt không
những chiến đấu dũng cảm mà đồng thời còn có đời sống nội tâm phong phú, cao
đẹp. Đời sống nội tâm của Việt không phải là sự giằng xé gây cấn, phức tạp mà là
những chuỗi ngày êm đềm, khốc liệt nhưng đau thương. Ba mất rồi má mất. Nguồn
an ủi lớn nhất mà Việt còn lại đó là chú Năm, chị Chiến và những người xung
quanh. Chính đời sống nội tâm đã thôi thúc khiến Việt chiến đấu hăng say để trả
thù cho ba má, cho quê hương. Việt không nghĩ đến bản thân mình. Anh lăn xả vào
kẻ thù, quyết đánh đến cùng, hành động của Việt thật cao cả. Trong thời điểm ấy, lí
tưởng cách mạng là trước nhất, chiến đấu vì lí tưởng là chiến đấu vì nhân dân.
Chính vì vậy mà Việt không ngần ngại, không sợ nguy hại đến tính mạng của bản

thân mình.
Chỉ qua nhân vật Việt chúng ta đã phần nào hiểu được bên cạnh chúng ta vẫn
còn rất nhiều những người anh hùng – những người lính kiên trung, dũng cảm,
quyết tử, quyết sinh vì Tổ quốc. Đọc tác phẩm của Nguyễn Thi, ta thấy những nhân
vật trong sáng tác của ông đều là những con người gần gũi với chúng ta. Họ dám
nghĩ, dám làm, dám sống một cách đúng nghĩa, dám hi sinh vì mọi người. Phẩm
chất cao đẹp ấy xuyên suốt từ hành động đến đời sống nội tâm khiến cho nhân vật
người lính trong sáng tác của ông có sức sống lâu bền.
2.1.3. Hình ảnh trẻ con
Đến với nhà văn Nguyễn Thi ta bắt gặp rất nhiều hình tượng độc đáo. Một
trong những tiêu biểu ấy là hình ảnh trẻ con. Những đứa trẻ của ông rất trưởng
thành nhưng cũng đầy hồn nhiên nghịch phá. Người ta bất ngờ khi thế giới trẻ thơ
trong ông có dấu vết của bom đạn, có máy bay ngụy, có súng có mìn. Thế mà chỉ
vài dòng bút đã đủ để người ta hồi tưởng về một thời trẻ con chăn trâu hái trái, leo
cây trốn ngủ…. Phải nói rằng đặc sắc nhất của Nguyễn Thi chính là khắc họa được
hình ảnh trẻ con vừa hồn nhiên trong trẻo nhưng cũng đầy anh hùng tham gia cùng
các chú các anh tiêu diệt kẻ thù.
Các nhân vật như Đực, Bỉnh, Bé, Việt, Chiến, Sáu,….. là những đại diện hết
sức tiêu biểu cho thế giới trẻ con trong truyện kí Nguyễn Thi.
Truyện kí Nguyễn Thi thể hiện một lát cắt của hiện thực cuộc sống. Ở đó, con
người và hành động thể hiện rất rõ. Viết về thiếu nhi nhưng nhà văn cũng thể hiện
17


một nét đặc trưng tiêu biểu đó là xây dụng hình tượng rất anh hùng nhưng cũng rất
đời thường. Chúng gắn bó, bổ sung cho nhau cái này làm nền cho cai kia phát
triển. Nhà văn đã gửi gắm tâm sự của mình vào hình ảnh những đứa trẻ ở Nam Bộ
như những đứa con ông yêu thương. Chúng thật trong trắng vô tư, yêu hòa bình
ghét chiến tranh. Vì chính những đứa trẻ ấy đã cảm nhận một cách rõ ràng sự mất
mát của chiến tranh. Đầu óc non nớt của chúng đã ý thức thế nào là mất tự do, thế

nào là đè đầu cưỡi cổ. Trái tim ngây thơ chúng là hiểu thế nào là tan thương, thề
nào là chia lìa.
Từ nhỏ Đực và Bỉnh đã thấy những cái xác bị giết hại do tên trưởng đồn ác ôn
trôi lềnh bềnh trên dòng sông, chính dòng sông ấy hai đứa trẻ lặn ngụp cũng dòng
sông ấy nuôi chúng lớn lên mập mạp như những chồi non như chính sức sống
mãnh liệt của nhân dân Nam Bộ. Sống với đau thương từ đau thương ấy mà kiên
cường gan gốc tiêu diệt kẻ thù. Hình ảnh Đực và Bỉnh (Chuyện xóm tôi) say mê
với trò chơi duổi bắt thằng giặt vô hình nào đấy phải làm chúng ta phải suy nghĩ.
Tuy chúng chưa biết thế nào là kẻ thù, chưa biết thế nào là giặc ngụy, nhưng với
chúng kẻ nào phá hoại cuộc sống của chúng, kẻ nào làm các chúc bộ đội chị hai và
mà buồn thì chúng phải đánh. Ngay trong cái đầu non nót của hai đứa trẻ ấy đã có
sẵn mầm mống của chủ nghĩa anh hùng thời chiến, chúng hăng hái xin đi tân binh,
muốn tổng khởi nghĩa mặc dù chưa biết đó là gì, “chúng say sưa rượt đánh một
thằng giặc vô hình nào đó đang chạy trước mặt ngoan cố chưa chịu khuất phục,
đầu hàng.” (Chuyện xóm tôi)
Phẩm chất của người dân Nam Bộ được Nguyễn Thi thu nhỏ vào hình ảnh
một đứa trẻ, càng ngày nó càng đình hình, khắc sâu và phát triển thêm. Đọc “Mẹ
vắng nhà”, hay “Người mẹ cầm súng” ta sẽ thấy một nhân vật Bé, rất đặc biệt. Bé
tuy còn nhỏ nhưng rất đảm đang biết quán xuyến mọi việc khi ba mẹ vắng nhà như
lo cơm nước, chăm sóc cho các em. “Tối ngày nó cột cái khăn trên đầu, lúc ngủ
quần cũng còn vo quá gối. Nó nấu cơm cho em ăn rồi cho tất cả lên võng ngồi
đưa”. Phải có một suy nghĩ trưởng thành, phải là một anh hung thực thụ những đứa
trẻ ấy mới có thể giỏi giang phi thường đến vậy.
Nguyễn Thi tỏ ra mình rất am hiểu trẻ con, chẳng đứa trẻ nào muốn xa mẹ cả.
Nhưng tác giả đã để các nhân vật nhí trưởng thành hơn, cao hơn một bật. Bé và
những đứa em ý thức được rằng mình phải gác lại tình cảm riêng tư đề lo cho cái
chung của toàn thể dân tộc. Bé tự lo cho các em đề cha mẹ yên tâm đánh giặc. Chất
18



đời thường thể hiện qua từng lời nói việc làm của Bé khi bơi xuồng đi bắt ốc, móc
cua cắt lát làm dây mang ra chợ bán, dắt em đi mót khoai, lặt khoai nước. Thế
nhưng sau con người đời thường như thế là một tấm lòng, một trái tim, một khí
phách anh hùng. Bé phụ mẹ chạy thư hỏa tốc, leo ngọn dừa nhìn xem có tin tức gì
không báo cho bà con. Bé không quản cực nhọc khó khăn, vừa chăm sóc đàn em
vừa hoàn thành công việc mẹ giao phó. Chỉ mười tuổi đầu Bé đã làm được những
công việc mà ta không ngờ tời. Bấy nhiêu thôi cũng đủ để ta nhận ra một nhân vật
Bé anh hùng, anh hùng ngay trong những điều bình dị nhất.
Nguyễn Thi khắc họa hình ảnh những đứa trẻ thơ như những búp măng mà
mai sau đây chính thế hệ ấy sẽ nối bước cha anh đánh giặc giữ nước, giữ gìn truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Ngòi bút Nguyễn Thi rất thận trọng khi viết về
những người anh hùng. Cậu bé Việt mới hôm nào còn chơi đùa còn dành với chị
Chiến thì hôm nay cậu đã là người lình gan dạ, kiên cường. Đọc Những đứa con
trong gia đình ta không bao giờ quên hình ảnh cậu lính Việt. Tuy là chiến sĩ, nhưng
Việt vẫn còn những tính cách rất trẻ con, cậu sợ ma, thích chơi những trò chơi thuở
nhỏ, đi đâu cũng mang cái ná trong người. Cậu vô tư, lạc quan đến kì lạ. Những
người khi ra trận thường rất lo lắng hồi hộp, thế nhưng Việt vẫn ung dung bình tĩnh
lạ thường, cậu phó mặc cho chị Chiến sắp xếp. Đó là nét đặc trưng của bộ đội Cụ
Hồ trong Việt.
Vết thương đau nhất cứ hành cậu nhưng cậu chẳng buồn nghĩ đến nó. Ta lại
càng khâm phục Việt hơn khi cảnh cậu đánh nhau với tên địch. Tên Mỹ “cao to
như cây cao su cụt” bị Việt hạ bằng “lòng căm thù giặc với sức mạnh trong cơ thể
được bật dậy một cách mãnh liệt hơn”. Trong lúc nằm chờ đồng đội, Việt lại nhớ
về mẹ, nhớ chú Năm, nhớ chị Chiến… những kí ức tuổi thơ trong Việt ùa về sống
động chân thật. Và trong khoảnh khắc ấy, Việt lại trở về với một đứa trẻ, cậu nhớ
về lúc còn ở nhà, nhớ về những trò ná thun… Nhà văn theo sát tâm lý của nhân
vật, như thể đang nói chính mình. Lúc còn ở nhà, cả hai chị em Việt đều muốn
tham gia bộ đội. Dù Việt nhỏ tuổi, nhưng trong cậu có một nét gì đó giống má ánh
hùng, có một tinh thần anh dung kiên cường của gia đình dòng họ. Việt, Chiến,
Bỉnh, Đực, Bé là những mầm non tương lai. Những cô cậu ấy rồi sẽ theo bước cha

anh đánh giặc. Bé còn nhỏ nhưng đã biết phụ mẹ giao thư hỏa tốc, Bỉnh Đực, tuy
chưa biết thế nào là cách mạng nhưng các em đã biết đánh tên giặc vô hình trong
trò chơi lúc chăn trâu. Chị của Đực đã biết giúp các anh bộ đội giấu lựu đạn… có
19


rất nhiều nhưng đứa trẻ trong sáng tác của Nguyễn Thi đánh giặc theo cách riêng
của chúng. Bằng cách này hay cách khác, bằng trò chơi hay thực thụ, bằng tư
tưởng hay hành động, mỗi đứa trẻ trong truyện kí Nguyễn Thi đều chứng tỏ với
độc giả rằng chúng là một người anh hùng là một nhân tố quan trong cho sự nghiệp
chung của đất nước.
Miền đất phương Nam không có lịch sử văn hiến lâu đời, nhưng con người
phương Nam luôn tự kiến thiết cho vùng đất ấy một truyền thống tốt đẹp. Con
người phương Nam chân thật, hiền hậu nhưng cũng anh dũng kiên cường trong
kháng chiến bảo vệ Tổ Quốc. Những tấm bằng ghi công, những quyển sổ gia đình
là bằng chứng cho truyền thống tốt đẹp của ông cha ngày trước nhưng nó cũng là
bằng chứng đanh thép buộc tội quân thù. Hai chị em Việt và Chiến coi trọng giá trị
truyền thống lắm. Sắp đi bộ đội xa gia đình hai chị em lại nhớ đến mẹ, cha, nhớ
đến những người đã ngã xuống cho Tổ Quốc. Chiến xuống bếp nấu mâm cơm còn
Việt đi câu cá về làm cơm cúng má trước khi mang bàn thờ sang gửi nhà chú Năm.
Khi sắp đi đâu xa, người ta thường thấp nén hương lên bàn thờ tổ tiên. Đó là
truyền quý báo của dân tộc. Từ đó càng cho thấy Việt Và Chiến là những đứa trẻ
lớn lên trong cái nôi truyền thống dân tộc.
Từ những cuốn sổ, những lời kể ấy, trẻ con lớn lên đã thấm nhuần những giá
trị tốt đẹp và cũng khắc sâu thêm mối thù của gia đình của đất nước. không tự
nhiên trẻ con của Nguyễn Thi lại trưởng thành và anh dũng đến thế. Thông qua
hình ảnh của trẻ con, một lời tố cáo mà tác giả giữ gấm lại sống động, mạnh mẽ
hơn bao giờ hết. Chính Đế quốc Mỹ và bọn tay sai đã cướp đi của chúng những gì
tốt đẹp nhất, cướp của chúng gia đình, người than, cướp đi tuổi thơ mà đang lẽ
chúng phải được hưởng thụ.

Chưa bao giờ trong văn học trẻ con lại đặc biệt như thế, chính trong hoàn
cảnh đặc biệt, nhà văn đã sáng tạo ra một lớp hình tượng nhân vật đặc biệt đến thế.
Những cái tên quen thuộc, dân dã như chính cuộc sống, chính miền quê của chúng
lại là những điều phi thường. hình ảnh trẻ con là một trong những hình ảnh đặc sắc
tiêu biểu nhất trong truyện-kí Nguyễn Thi.
2.2 Bức tranh thiên nhiên Nam Bộ trong sáng tác của Nguyễn Thi
Sinh ra và lớn lên tại đất Bắc. Chỉ có hơn 6 năm vào vùng kháng chiến Nam Bộ,
nhưng dường như “chất” Nam Bộ, con người Nam Bộ, thiên nhiên nơi đây đã ăn
20


sâu vào trong huyết quảng của Nguyễn Thi. Mang trong mình nhiệm vụ nhà văn
của một người chiến sĩ, mỗi vùng đất, địa danh, con người đều được ghi trong sáng
tác của ông. Mỗi lần hành quân là mỗi lần nhà văn được hòa mình với thiên nhiên.
Ông đi, ghi chép, sáng tác. Mỗi tác phẩm là một bức tranh mà ở đó dường như
thiên nhiên Nam Bộ không chỉ là thiên nhiên nữa mà đó là một nhân vật có tính
cách, có vai trò có cả nội tâm.
Với truyện ngắn “Mẹ vắng nhà”, tên tuổi Nguyễn Thi đã trở nên quen thuộc với
đông đảo độc giả trong cả nước. Tác phẩm là câu chuyện viết về mẹ con chị Út
Tịch sống bên bờ sông Hậu ở miền Nam Việt Nam. Sự dịu dàng và sức mạnh của
người mẹ đã in sâu trong trái tim và truyền cho các con sức mạnh ngay cả khi “mẹ
vắng nhà”. Dòng sông Hậu hiền hòa nặng phù sa đã tô điểm cho vùng đất cây lành
trái ngọt và cũng càng làm sáng lên sự dịu dàng nhưng không hề khuất phục của nữ
anh hùng.
Sông nước miền Nam hiền hòa nhưng cũng là thành trì chống giặc. Dòng
sông Hậu thân yêu chở từng lớp bộ đội qua sông đánh giặc, dòng sông ấy còn
mang những người con ra đi vì tiền tiêu Tổ Quốc. Dòng sông ấy còn là nơi người
con gái trút nỗi e thẹn, nỗi ngại ngùng. Và dòng sông ấy còn là nơi người ta thương
nhớ.
“- Con út nó đã lớn. Tôi lựa được thằng nầy tướng tá coi cũng được, chị gả cho nó

đi.
Út chạy một hơi ra bờ sông, ngồi.”
Những văn sĩ viết về Nam Bộ ai viết cho mình một dòng sông riêng biệt. Ở
đó sông đã chứng kiến bao cuộc đổi thay bao nhiêu tâm tư tình cảm và cũng là một
nét đẹp, nét đặc trưng của nơi tận cùng Tổ Quốc. Cây bút hiện đại như Nguyễn
Ngọc Tư vẻ lên một dòng sông xanh thẳm mà nặng ân tình, một dòng sông mà
người ta chon vùi bao niềm thương nỗi nhớ. Nhớ gì như nhớ sông. Trong Đất
rừng phương nam, sông hiện lên mạnh mẽ nhưng cũng nặng ân tình. Với Nguyễn
Thi, dòng sông không chỉ và một vật tự nhiên mà hơn hết nó là con người, là người
chứng kiến biết bao số phận, biết bao cảnh đời trong chiến tranh, sông còn là chiếc
cầu nối chở quân đi, chở đạn về. Dòng sông còn là chiến hào, là bức thành lũy che
chở cho một miền quê trong trận càng phá của quân thù. Nhưng dòng sông ấy chưa
21


bao giờ quên nhiệm vụ thiêng liêng cung cấp nước, cá tôm cho vùng quê nghèo
đói.
Miền Nam sông ngòi kênh rạch chằng chịt. Người ta lớn lên đã có sông tự
bao giờ. Dòng sông gắn liền với bao kí ức tuổi thơ là nơi tình bạn bắt đầu, là nơi
trẻ con hàng ngày lặn ngụp. Chính dòng sông ấy Bỉnh và Đực lớn lên chúng tắm
táp bơi lội và kết bạn với nhau từ ngày còn bé xíu. Dòng sông trở nên gần gũi thiết
là quê hương là nguồn cội. Người dân làng quê ấy sinh hoạt ăn uống tắm táp cũng
chính trên khúc sông nặng phù sa. Người dân từ đời này qua đời khác lớn lên ra đi
đều có nhiều kĩ niệm. Người vùng quê ấy còn sinh sống bằng những lợi phẩm mà
mẹ sông mang lại. Bé bơi xuồng đi bắt óc, móc cua cắt dây lát đem ra chợ bán, có
khi Bé dắt em đi mót khoai, lặt khoai nước…. (Mẹ vắng nhà).
Tuy không được miêu tả lộng lẫy xinh đẹp nhưng dòng sông hiện lên trong
lòng người đọc bằng tất cả vẻ ngoài đầy sức sống của nó. Dòng sông còn mang
một ý nghĩa hết sức to lớn. nó chứng kiến là một người làm chứng hùng hồn cho
tội ác của quân thù. Cha của Đực và Bỉnh bị bắt khi đang bơi xuồng đi làm việc, dù

họ có kêu oan nhưng vẫn bị giết bằng hai phát súng của kẻ thù. Rồi cùng dòng
sông ấy, nó chở biết bao xác người do tên ác ôn trưởng đồn giết hại. Sông cũng
tham gia đánh giặc
“Má đi vắng, nó bơi xuồng đến các cơ sở binh vận của má đem về hàng túi đạn.
Mấy mẹ chiến sĩ mà nó vẫn kêu là bà nội, kêu nó ghé xuồng, cho gạo, cho thức ăn,
cho bánh đem về cho em. Bao giờ nó cũng chừa phần cho má, có khi là một trái
chuối đã chín rục.”
“huyện đội báo tin giặc càn. Út nghĩ: "Muốn càn thì cho mày càn luôn xuống
sông!".”
“Rồi những đêm đi bố bót, qua ruộng nước, cất cao giò, thả bàn chân nghe tũm
tũm.”
(Người mẹ cầm súng )
Tuy không bộc lộ, nhưng nó cũng có những cảm xúc riêng, cũng có nhưng
cơn thịnh nộ, cũng tham gia đánh giặc. Chính nó là tố cáo đanh thép nhất, là minh
chứng sống động nhất buộc tội kẻ thù. Quân giặc và bọn tay sai đã làm đảo lộn một
cuộc sống yên bình, đảo lộn dòng chảy tự nhiên nhất của mảnh đất quê hương.
22


Ngoài dòng sông quê hiền hòa thân thuộc, bức tranh thiên nhiên còn có
những hàng dừa xanh rì, những cây cối mang những nét riêng vừa là một biểu
tượng của Nam Bộ, vừa mang nét riêng hình thành nên phong cách Nguyễn Thi.
Hàng dừa xanh rì của quê hương Bến Tre là nơi Bé quan sát tình hình để báo với
các cô chú.
“Buông việc ra là nó leo lên ngọn dừa trước nhà. Lên đó, nó nhìn thấy dinh quận,
nhà máy, lằn sông, thấy những nơi ba má nó đánh giặc. Có máy bay ném bom xa,
nó leo lên dòm hướng: Chà Mẹt, Phong Phú, Tân An, Xẻo Khế, Đường Cức, Trà
On... bom nổ nơi nào, nó nói ngay nơi đó. Mấy bà mẹ bồng con đứng bên chợ, bên
sông, tất cả đều nhóng lên ngọn dừa, chờ tin nó.”
(Người mẹ cầm súng)

Ngọn dừa cao là nơi mà đài quan sát nhí báo tình hình cho các cô chú, ngọn
dừa bảo về Bé, bào vệ dân làng trước những càn quét của giặc thù. Và cũng chưa
bao giờ trong văn học dừa lại đặc biệt như thế. Hàng dừa vừa quây quân giặc, dừa
bảo về du kích đánh càn. Mương dừa tuy dài nhưng dường như ngắn hơn để chị Út
nhảy qua thật nhanh hành quân đánh thù.
“Một giờ khuya, tiểu đội rút về. Nhảy qua cái mương cuối cùng, hai cái gân sau
lưng út như có ai rút lên. Đi hai bước nữa, chị té xuống. Chị rờ khắp mình mẩy coi
có bị thương đâu không nhưng không có, chỉ thấy cái thai trong bụng đập đập,
thằng nhỏ sắp ra đời.”
Không những có hàng dừa xanh mà còn là bãi mía nơi chị Chỉn giấu lựu đạn
cho bộ đội đánh đồn, là nơi mẹ giấu bộ đội. Thiên nhiên còn là cây cam cây bưởi,
là những bông hoa tươi thắm điểm tô cho vùng đất anh hùng, điểm tô cho trang
văn Nguyễn Thi càng đậm sắc thái Nam Bộ.
Một cánh đồng bạc ngàn, xanh cỏ cho đàn bò cho lũ trẻ vui chơi cũng được
tác giả vài lần nhắc đến. Đó là mảnh đồng nơi Đực và Bỉnh chăn bò chơi đánh trận
giả, nơi đây đã nuôi lớn tâm hồn hai đứa trẻ thơ ấy một tuổi thơ hồn nhiên vui tươi,
nhưng đó cũng hun đúc lên tấm lòng anh hùng yêu nước yêu gia đình làng quê xứ
sở. Cánh đồng ấy cũng là nhân chứng hùng hồn của tội ác mà Mỹ đã gieo rắc.
Đó là cánh đồng Chiến và Việt khiên bàn thờ má qua gửi sang nhà chú Năm
để chị em tham gia bộ đội. Cánh đồng ấy má từng đi về, mà từng theo các chú
23


đánh giặc, má mò cua bắt ốc, má lăn lội nuôi đàn con. Giờ đây đó là con đường má
về yên nghỉ để chị em đánh giặc thay má nối tiếp truyền thống gia đình. Một con
đường thơm hoa cam, biểu trưng mà một ý chí kiên cường một ước về tương lai
sáng lạn của đất nước, mong muốn hòa bình trên mảnh đất thân yêu.
Và còn nhiều, nhiều hơn thế nữa những chân dung đẹp đẻ của thiên nhiên
trong sáng tác của Nguyễn Thi. Mỗi cành cây ngọn cỏ là một nét quê của miền đất
Nam Bộ. Chúng hiện lên không chỉ góp phần làm tương đẹp cho những trang văn,

là phong cảnh để nhân vật trong truyện thể hiện mình. Mà hơn hết, thiên nhiên còn
là một nhân chứng một lời tố cáo hùng hồn chiến tranh miền Nam Việt Nam.
Bên cạnh thiên nhiên còn có những phong tục, những nét sinh hoạt đặc trưng
cho cuộc sống của người dân Nam Bộ. Những câu hò như lời tâm tình chan chứa
tình cảm của chú Năm, những công việc đưa cơm cho cha, lặt rau nước mót khoai,
bơi xuồng…. cũng rất miền Nam. Ở đó người ta thấy được một cuộc sống, một
cuộc kháng chiến của người Nam Bộ. Không tự nhiên chúng lại được cụ thể sinh
động như thế mà mà mỗi cuộc hành quân, nhà văn Nguyễn Thi vừa chiến đấu vừa
ghi chép, để mỗi trang viết là một bức tranh mới lạ.

Chương 3: Đề tài chiến tranh nhìn từ phương diện nghệ thuật
3.1. Không gian nghệ thuật
Bằng tấm lòng yêu thương, gắn bó và sự am hiểu sâu sắc của mình về vùng đất
Nam Bộ, nhà văn Nguyễn Thi đã thành công trong việc tạo dựng không gian, bối
24


cảnh mang đậm màu sắc Nam Bộ thời kì kháng chiến trong các sáng tác của mình.
Đọc tác phẩm của ông, người đọc như được dẫn dắt vào một thế giới mang những
dấu ấn rất riêng: đó là không gian của những dòng sông, ruộng đồng, bờ bãi. Đọc
“Những đứa con trong gia đình”, ta thấy Việt nhớ tới những dòng sông mà con
sông nào cũng “nhiều phù sa, lắm nước bạc. Ruộng đồng phì nhiêu cũng sinh ra
từ đó. Lòng tốt con người cũng sinh ra từ đó”, những dòng sông đó gắn liền với
những câu chuyện về cuộc đời chèo ghe mướn nhiều vất vả mà cũng lắm kỉ niệm
buồn vui của chú Năm. Tâm thức Việt còn nhớ về những cánh đồng lắm phù sa với
cánh cò bay mải miết mà trong những đêm mưa rả rích ngoài vàm sông, Việt cùng
chị Chiến đi soi ếch, cười từ lúc đi cho tới lúc về. Có thể nói, không gian, bối cảnh
mà hằng ngày hai chị em Việt và Chiến hít thở đều là khung cảnh đậm đặc sắc màu
Nam Bộ. Bầu không khí ấy có những dòng sông mà thuở bé, hai chị em đã từng đi
theo du kích bắn tàu Mĩ trên sông Định Thủy; có những vườn cây trái sum suê mà

Việt đã từng in dấu chân trong những lần đi bắn chim bằng chiếc ná thun của mình
và cũng là để thực hiện nhiệm vụ cảnh giới cho các cô chú cán bộ. Tất cả đều mang
một sắc màu rất riêng biệt. Những vàm sông, những cây xoài mồ côi, những buổi
đi soi ếch hay những lần đi bắn chim đã trở thành bầu trời cổ tích tuổi thơ mà Việt
không bao giờ quên.
Còn không gian trong “Mẹ vắng nhà” là nơi mà gió ngoài sông Hậu vẫn thổi vào
lộng lộng, nơi có những đứa con của chị Út Tịch hằng ngày vẫn sinh hoạt, đùa
giỡn, chăm sóc nhau. Nhưng đó không phải là không gian yên bình, nó là không
gian kháng chiến. Trong không gian đó nhiều lúc lại vang lên tiếng súng, lóe lên
ánh lửa của bom đạn hay đôi khi là sự tang tóc vì bom đạn cày xới: “Con Bé lại
leo lên ngọn dừa. Nó đứng hẳn lên một bẹ lá, dòm ra xa. Gió và nắng trên cao đã
làm mắt nó long lanh ướt. Nó lắng nghe những âm thanh dội lại từ phía trước
mặt. Tiếng bom nổ, tiếng rít của máy bay phản lực, tiếng đò máy chạy ngoài sông,
tiếng trời chuyển kéo dài”. Hay đôi khi, con Bé tiếc nuối khi trước đây, cái không
gian đầy màu sắc của những rẫy khoai, của vườn bưởi hay đám mía đã không còn,
nó bị bom giặc phá sạch và bây giờ, “trong cái tàn rụi đó chỉ có thấy nóc gác
chuông nhà thờ Bà Mi nhọn hoắt như một lưỡi dao lấp lóa trong nắng bên cạnh
cái bóng chuồng cu đen đúa của đồn dân vệ. Xa hơn nữa là lằn sông cái, mây như
từng tảng núi đá vỡ ra đang sà mình xuống đó”. Hoặc cái không gian thân quen
lấp ló bóng dừa đến độ bom đạn kẻ thù cũng không hủy diệt được “Ngoài kia gió
mát rượi như ngồi đưa võng. Bóng lá dừa đu đưa trên đầu lũ trẻ. Tiếng bom nổ và
25


×