Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.07 KB, 14 trang )

Họ và tên:Nguyễn Quỳnh Anh
MSV:11186104
Lớp học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh(219)_19
Đề: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: "Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản".
I. Cơ sở của luận điểm
1. Sự khủng hoảng về đường lối cứu nước cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX,

yêu cầu phải tìm ra con đường cứu nước mới.
Trong bối cảnh đất nước bị cai trị làm cho xã hội rối ren, mâu thuẫn sâu
sắc, nảy sinh một vấn đề cấp bách: để giải quyết hai mâu thuẫn trên, cách mạng
Việt Nam phải đi theo con đường nào? Phải chọn con đường nào để cứu nước,
giành lại độc lập tự do cho dân tộc, chủ quyền cho đất nước. Yêu cầu khách
quan đòi hỏi phải giải quyết là như vậy, nhưng lịch sử phong trào chống Pháp từ
những năm đầu thế kỷ XX trở về trước vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đó.
Các phong trào yêu nước dấy lên mạnh mẽ khắp nơi: từ phong trào Cần
Vương, Văn Thân đến cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Yên Thế, từ phong trào
Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân đến phong trào chống thuế ở Trung
Kỳ và rất nhiều các cuộc đấu tranh quần chúng dấy lên hết đợt này đến đợt khác
nhưng tất cả đều thất bại. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thất bại của các
phong trào đó là do những nhà yêu nước cách mạng - những người đứng đầu đã
không nhận thức được đúng và đầy đủ những yêu cầu cấp bách của lịch sử nước
ta vào đầu thế kỷ XX. Chính vì thế, yêu cầu cấp thiết là cần có một đường lối
cứu nước đúng đắn, cần một con đường cứu nước mới.
Theo Nguời, con đường của Hoàng Hoa Thám mang nặng tư tưởng
phong kiến lỗi thời, lạc hậu sẽ không thể giải phóng dân tộc cũng như dẫn tới
thắng lợi. Sau đó là con đường cầu viện Nhật Bản của Phan Bội Châu thì chẳng
khác gì việc “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Còn con đường của Phan
Châu Trinh chẳng qua chỉ là sự “xin giặc rủ lòng thương”. Chính vì thế, mặc dù
1
1




rất kính mến, trân trọng và khâm phục lòng yêu nước của các bậc tiền bối
nhưng Nguyễn Tất Thành đã không tán và đi theo con đường của họ. Bởi lẽ
những con đường ấy không thể giúp đồng bào mình giải phóng và Người đang
muốn đi tìm một con đường cứu nước mới.
Do vậy, xuất phát từ lòng yêu nước thương dân, từ khát vọng cứu nước,
giải phóng dân tộc trên cơ sở rút kinh nghiệm thất bại của các bậc tiền bối
Nguyễn Tất Thành quyết định không đi sang Nhật Bản mà sang phương Tây tìm
đường cứu nước cho dân tộc. Đó chính là bước ngoặt, một sự lựa chọn lịch sử
có ý nghĩa rất quan trọng, mở đầu cho quá trình tìm đường cứu nước của
Nguyễn Tất Thành.
2. Cách mạng tư sản chưa giải quyết triệt để mâu thuẫn trong xã hội

Trong thời gian đi tìm đường cứu nước từ năm 1911 đến năm 1920,
Người đã tận dụng mọi cơ hội để được đến nhiều nơi trên thế giới, học tập kinh
nghiệm của nhiều nước. Người đã bôn ba qua nhiều nước của các châu lục Á,
Phi, Mĩ làm nhiều nghề khác nhau, vừa lao động kiếm sống, vừa học tập, lại vừa
hoạt động Cách mạng. Đặc biệt Người đã dừng chân khảo sát khá lâu ở ba nước
đế quốc lớn nhất thời đó là Pháp, Mĩ, Anh. Với chuyến đi thực tế cùng những
cuộc khảo nghiệm đó, Người đã tiếp thu được những kiến thức vô cùng phong
phú với một tầm nhìn hết sức rộng lớn và bao quát.
Qua đó, Người đã nhận thấy giai cấp tư sản ở thế kỷ này không còn là
giai cấp tiến bộ của thời đại nữa và con đường cách mạng tư sản không phải là
con đường chúng ta nên đi. Từ những nhận thức trên Người đã rút ra kết luận
gần như một chân lý bất hủ: ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác;
ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề và “dù màu da có
khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống
người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu
ái vô sản”. Đồng thời, giai cấp công nhân, nhân dân lao động các nước đều là

bạn còn chủ nghĩa đế quốc thực dân ở đâu cũng là kẻ thù.
3. Tính đúng đắn của cách mạng vô sản
2
2


Bước ngoặt của sự lựa chọn đó trước hết là ảnh hưởng vang dội của cuộc
Cách mạng Tháng Mười Nga. Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp, Cách
mạng tháng 10 Nga thành công đã ảnh hưởng đến xu hướng và quyết định lựa
chọn của Người. Nguyễn Ái Quốc hăng hái tham gia phong trào đấu tranh, bảo
vệ nước Nga Xô Viết non trẻ. Tuy lúc đầu chưa hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về sự
kiện vĩ đại này, song do sự nhạy cảm về chính trị, lại phải chứng kiến thực tiễn
cuộc sống của nhân dân bị áp bức và việc ấp ủ, nung nấu nhiều ý tưởng, mong
muốn giải phóng dân tộc nên Người đã nhận thấy đây là biến cố lớn “có một
sức lôi cuốn kỳ diệu”, và ảnh hưởng của nó được Người ví “tựa như người đi
đường đang khát mà có nước uống, đang đói có cơm ăn”.
Bước ngoặt thứ hai trong sự lựa chọn của Người đó là khi Người đọc “Sơ
thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V. I.
Lê-nin vào năm 1920 đăng trên báo “Nhân đạo” của Đảng Xã hội Pháp. Bản
Luận cương đã thu hút sự chú ý đặc biệt của Người và qua lăng kính của chủ
nghĩa yêu nước chân chính, Người đã tìm thấy ở đó con đường đúng đắn để giải
phóng đất nước khỏi ách thực dân. Như vậy, là cùng với ảnh hưởng của Cách
mạng Tháng Mười, sự tiếp nhận tư tưởng của V.I. Lê-nin đã dẫn đến sự chuyển
biến về chất trong nhận thức cũng như trong hành động của Nguyễn Ái Quốc,
quyết định việc Người đứng về phía V.I. Lê-nin và Quốc tế Cộng sản.
Sự kiện cuối cùng thể hiện sự khẳng định về sự lựa chọn của Nguyễn Ái
Quốc đó là quyết định bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp (tháng 12-1920).
Việc bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản
Pháp và trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Pháp đã đánh dấu một bước ngoặt

quyết định trong cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Ái Quốc và cũng là sự khởi
đầu một bước ngoặt căn bản trong lịch sử và sự nghiệp cách mạng của dân tộc
Việt Nam. Đến đây, Nguời đã quyết định sự lựa chọn con đường giải phóng dân
tộc của mình đó là con đường Cách mạng vô sản và đây là một quyết định đúng
đắn và có ý nghĩa đối với dân tộc Việt Nam.
3
3


Từ đây, lịch sử cách mạng Việt Nam đã chấm dứt sự khủng hoảng về
đường lối, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta vào quỹ đạo cách
mạng vô sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa
thực dân, đế quốc, và đi tới thắng lợi cuối cùng là độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản. Trong thắng lợi chung đó, lịch sử dân tộc ta mãi mãi
ghi nhận công lao và vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với sự lựa chọn
con đường cứu nước đúng đắn - sự lựa chọn lịch sử, đáp ứng những yêu cầu,
đòi hỏi đặt ra của cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.
II.Nội dung của luận điểm
1.Mâu thuẫn cơ bản ở các nước thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, làm cách mạng thực chất là để giải quyết mâu thuẫn
cơ bản trong xã hội. Do đó, để làm cách mạng thành công, trước hết phải xác
định đúng đắn mâu thuẫn xã hội và mâu thuẫn thời đại. Người nhận thấy ở Việt
Nam có hai mâu thuẫn cơ bản cần phải giải quyết: Một là, mâu thuẫn giữa dân
tộc Việt Nam với bọn đế quốc cướp nước; hai là, mâu thuẫn giữa đông đảo quần
chúng nhân dân, chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến. Từ đó,
Hồ Chí Minh khẳng định: Mâu thuẫn cơ bản trên thế giới lúc bấy giờ là mâu
thuẫn giữa các giai cấp đi áp bức bóc lột và các giai cấp bị áp bức bóc lột; mâu
thuẫn cơ bản ở Việt Nam cần tập trung giải quyết là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam với bọn đế quốc cướp nước và tay sai của chúng.
Hồ Chí Minh nhận thấy sự phân hóa giai cấp thuộc địa khác với các nước

phương Tây. Các giai cấp ở thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều, nhưng đều
chung một số phận mất nước nên có chung số phận là người nô lệ mất nước.
Mâu thuẫn cơ bản ở các nước phương Tây là giai cấp vô sản và giai cấp tư sản,
mâu thuẫn chủ yếu ở xã hội thuộc địa phương Đông là dân tộc bị áp bức với chủ
nghĩa thực dân. Do vậy “cuộc dấu tranh giai cấp không diễn ra giống như các
nước phương Tây”. Đối tượng cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư
sản bản xứ, càng không phải là giai cấp địa chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực
dân và tay sai phản động.
4
4


Cách mạng xã hội là lật đổ nền thống trị hiện có và thiết lập một chế độ xã
hội mới. Cách mạng ở thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị của chủ
nghĩa đế quốc”, chứ chưa phải là cuộc cách mạng xóa bỏ sự tư hữu, sự bóc lột
nói chung. - Hồ Chí Minh luôn phân biệt rõ thực dân xâm lược với nhân dân các
nước tư bản chủ nghĩa. Người kêu gọi nhân dân các nước đế quốc phản đối
chiến tranh xâm lược, ủng hộ nhân dân các nước thuộc địa đấu tranh giành độc
lập.
2.Cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đƣờng cách mạng vô sản
mới giành được thắng lợi hoàn toàn.
Hồ Chí Minh nhận thấy phong trào yêu nước đấu tranh giành độc lập dân
tộc ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đều bị thất bại do các phong trào
này chưa tìm được đường lối đấu tranh đúng đắn do còn ảnh hưởng bởi hệ tư
tưởng phong kiến hay hệ tư tưởng tư sản. Cũng chính vì thế mà những phong
trào này không xác định rõ được nhiệm vụ của cuộc đấu tranh là giải quyết
những mâu thuẫn cơ bản nào, không có khả năng tập hợp được lực lượng toàn
dân tộc. Trong khi đó chủ nghĩa đế quốc ngày càng bành trướng trở thành một
hệ thống thế giới hùng mạnh.
Từ quy luật vận động của xã hội và nguyên lý phát triển Mácxít, Hồ Chí

Minh khẳng định, CNXH là con đường tất yếu của lịch sử nhân loại. Bởi theo
Người: “...chế độ tư bản có những mâu thuẫn to, nó không giải quyết được...
Chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa (cộng sản chủ nghĩa) mới giải quyết được mâu
thuẫn ấy”. Như vậy, đối với Hồ Chí Minh, CNXH - chủ nghĩa cộng sản chắc
chắn sẽ là hình thái kinh tế - xã hội thay thế cho hình thái kinh tế - xã hội tư
bản; đó là một xã hội cao hơn xã hội tư bản.
Con đường giải phóng dân tộc Việt Nam được Hồ Chí Minh khẳng định rõ:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”. Giải phóng dân tộc theo con đường Cách mạng
5
5


Tháng Mười, theo con đường cách mạng vô sản, đó là tư tưởng chỉ đạo mang
tính nguyên tắc, được thể hiện xuyên suốt trong các văn kiện Đảng cũng như chỉ
đạo thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Hồ Chí Minh
nhiều lần trình bày, làm sáng tỏ tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam. Về
con đường giải phóng, trong tác phẩm Thường thức chính trị (1953), Hồ Chí
Minh nêu: “Tính chấtthuộc địa và phong kiến của xã hội cũ Việt Nam khiến
cách mạng Việt Nam phải chia làm hai bước. Bước thứ nhất là đánh đổ đế quốc,
đánh đổ phong kiến thực hiện “người cày có ruộng”, xây dựng chính trị và kinh
tế dân chủ mới... Bước thứ hai là tiến lên chủ nghĩa xã hội, tức là giai đoạn đầu
của chủ nghĩa cộng sản
Hồ Chí Minh xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có chung 1 kẻ thù đó là chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Người nhận định rằng: “Chủ nghĩa đế quốc như một con đỉa hai vòi, một vòi
bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa, chúng bóc lột người lao động
cả hai nơi. Muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc thì phải đồng thời cắt cả hai vòi
của nó đi, tức là phải thực hiện phối hợp chặt chẽ giữa cách mạng vô sản ở

chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa”. Từ đó Hồ Chí Minh
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”. Như vậy cách mạng giải phóng dân tộc
được dẫn dắt bởi hệ tư tưởng Mác-Lênin, là một cánh của cách mạng vô sản.
3.Mục tiêu cách mạng là đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập dân
tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân
Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa
đế quốc thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân.
Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi riêng
biệt của mỗi giai cấp, mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc. Đó là những mục
6
6


tiêu của chiến lược đấu tranh dân tộc, phù hợp với xu thế của thời đại cách
mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện vọng độc lập,
tự do của quần chúng nhân dân. Tháng 5-1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội
nghị lần thứ VIII Ban chấp hành trung ương Đảng, chủ trương “thay đổi chiến
lược”, từ nhấn mạnh đấu tranh giai cấp sang đẫu tranh giải phóng dân tộc. Hội
nghị khẳng định dứt khoát: “Cuộc cách mang Đông Dương hiện tại không phải
là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai
vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng phải giải quyết một vấn
đề cần thiết “dân tộc giải phóng”, vì vậy cuộc cách mạng Đông Dương trong
giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc”, đánh lại kẻ thù
của dân tộc cả về chính trị và kinh tế. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
1945 cũng như những thắng lợi trong 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam
1945-1975 trước hết là thắng lợi của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc
đúng đắn và tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh.
4.Nhiệm vụ: đánh đuổi đế quốc giành độc lập, đánh đổ phong kiến giành
ruộng đất cho dân cày

Cách mạng xã hội là lật đổ nền thống trị hiện có và thiết lập một chế độ xã
hội mới. Cách mạng ở thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị của chủ
nghĩa đế quốc”, chứ chưa phải là cuộc cách mạng xóa bỏ sự tư hữu, sự bóc lột
nói chung. Ở các nước thuộc địa, nông dân là nạn nhân chính bị boc lột bởi chủ
nghĩa đế quốc. Nông dân có hai yêu cầu: độc lập dân tộc và ruộng đất, nhưng
luôn dặt yêu cầu độc lập dân tộc cao hơn so với yêu cầu ruộng đất. Hay nói cách
khác nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng thuộc địa là: “Đấu tranh chống lại thực
dân xâm lược, giành lại độc lập dân tộc”.
Hội nghị thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng (5-1951) do Hồ Chí
Minh chủ trì, kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhấn mạnh đó
là “nhiệm vụ bức thiết nhất”. - Trong nhiều bài nói, bài viết Người khẳng định:
“Trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi, thống nhất, độc lập nhất định thành
7
7


công”, “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ
xum họp một nhà”
5.Cách mạng giải phóng dân tộc thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh
đạo.
Các lực lượng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc trước khi Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời (năm 1930) đều thất bại do chưa có một đường lối
đúng đắn, chưa có một cơ sở lý luận dẫn đường. Thầm nhuần tư tưởng MácLênin, Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc muốn thành công
phải có Đảng đại diện cho giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng có vững, cách
mạng mới thành công. Đảng của giai cấp công nhân được trang bị lý luận MácLênin, lý luận cách mạng và khoa học mới đủ sức đề ra chiến lược và sách lược
giải phóng dân tộc theo quỹ đạo cách mạng vô sản, đó là tiền đề đầu tiên đưa
cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi.
Quyết định đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng Việt Nam muốn
giành thắng lợi, Hồ Chí Minh cho rằng trước hết phải có một đảng chân chính
lãnh đạo. Người nói: ‘‘… Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ

nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin.’’
Đảng đó phải được xây dựng theo nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin, được
vũ trang bằng chủ nghĩa Mác-Lênin. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng cộng sản:
xác định mục tiêu của cách mạng, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng
dân tộc, thông qua cương lĩnh đường lối của mình, Đảng tổ chức vận động tập
hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng mặt trận thuộc mặt trận dân tộc thống
nhất( mà nòng cốt là liên minh công nông) thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc đem lại tự do và
hạnh phúc cho nhân dân.
Người khẳng định muốn làm cách mệnh: “ Trước phải làm cho dân giác
ngộ…phải giảng lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu”, “ Cách mệnh phải hiểu
trong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân. Vậy nên sức cách mệnh phải
tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh.”
8
8


Trong tác phẩm Đường cách mệnh người khẳng định : “Trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động ngoài thi liên lạc với các dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.”
Đầu năm 1930, Người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, Người đã xây
dựng được một đảng cách mạng tiên phong, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở
thành nhân tố hàng đầu bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng, một chính
Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam được xây dựng theo nguyên
tắc Đảng kiểu mới của Lênin, lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, mật
thiết liên lạc với quần chúng. Như vậy Đảng cộng sản Việt Nam là đảng của giai
cấp công nhân, của nhân dân lao động là của dân tộc Việt Nam.

6. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết toàn dân, nòng cốt
là liên minh công-nông-trí.
Trước Hồ Chí Minh, quan điểm về lực lượng cách mạng của các nhà cách
mạng kinh điển như Các Mác, Ăngghen, Lênin khẳng định: ‘‘Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng’’. Trên cơ sở kế thừa và phát huy chủ nghĩa Mác-Lênin,
Hồ Chí Minh khẳng định: ‘‘Cách mạng muốn thắng lợi phải đoàn kết toàn dân,
phải làm cho sĩ, công, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền.”
Trong đó lấy công nông là người chủ cách mệnh, là gốc cách mệnh. Quan điểm
“lấy dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người, “Có dân
là có tất cả”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng
xong”. Khi làm việc ở nước ngoài, Người nói: “ Đối với tôi, câu trả lời đã rõ
ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ,
đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”
Về lực lượng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh phân tích: cuộc kháng
chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang
9
9


toàn dân. Dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghã lá sĩ, nông, công,
thương đều nhất trí chống lại cường quyền.
Trong lực lượng toàn dân tộc các giai cấp công nhân và nông dân có số
lượng đông nhất nên có sức mạnh lớn nhất. Vì vậy, Người hết sức nhấn mạnh
vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông dân. Bên cạnh đó Người
cũng không coi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các
giai cấp và tầng lớp khác. Người coi tiểu tư sản và tư sản dân tộc và một bộ
phận giai cấp địa chủ là bạn đồng minh của CM.
Để đoàn kết toàn dân tộc, Người đã chủ trương xây dựng Mặt trận thống
nhất rộng rãi để liên kết sức mạnh toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập tự do
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhiệm vụ của cách mạng giải phóng dân tộc ở nước

ta là đánh đổ đế quốc và đại địa chủ phong kiến tay sai, vừa thực hiện nhiệm vụ
giai cấp, vừa thực hiện nhiệm vụ dân tộc. Do vậy, Đảng cần phải hết sức liên lạc
với tất cả các tầng lớp như : tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên… để
giác ngộ cách mạng cho họ. Còn với bọn trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam
thì giữ thái độ trung lập, lợi dụng. Đây chính là điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Trong khi, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, lực lượng của cách mạng
chỉ là liên minh công nông, bó hẹp trong giai cấp công nhân và nông dân thì
theo quan điểm của Người, lực lượng cách mạng được mở rộng hơn ra nhiều
tầng lớp, và đặc biệt là biết lợi dụng tầng lớp tiểu địa chủ, tư bản đã giác ngộ.
Ngoài ra, những bộ phận nào đã ra mặt phản động cách mạng thì phải tiêu diệt
hoàn toàn.
Trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc chống
đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn luôn quán triệt quan điểm giai cấp: ‘‘ Công nông là
gốc của cách mệnh, còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ cũng bị tư sản áp bức,
song không cực khổ bằng công nông. Ba hạng người ấy chỉ là bầu bạn cách
mệnh của công nông thôi.’’ Trong việc tập hợp liên kết với các giai tầng trong
xã hội, Người căn dặn phải thực hiện theo đúng nguyên tắc: ‘‘Trong khi liên lạc
10
10


với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì
của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp’’.
7. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới
Quốc tế cộng sản đã khẳng đinh cách mạng Việt Nam nói riêng và cách
mạng Đông Dương nói chung là một bộ phận của cách mạng vô sản trên toàn
thế giới, gắn liền với cách mạng vô sản của các nước Pháp, Nga… Muốn giành
được thắng lợi cuối cùng, giai cấp vô sản các nước phải liên minh với nhau để
tạo thành một lực lượng thống nhất. Thấm nhuần tư tưởng đó, Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải gắn bó chặt chẽ với phong

trào giải phóng thuộc địa của các nước khác trên thế giới. Cách mạng Việt Nam
cần học hỏi kinh nghiệm, con đường đúng đắn ở những nơi cách mạng đã nổ ra
và thành công (như Cách mạng Tháng Mười Nga), đồng thời phải tranh thủ
được sự giúp đỡ của các nước khác. Người đã kêu gọi các nước thuộc địa anh
em thành lập Hội liên hiệp các nước thuộc địa nhằm để tổng hợp sức mạnh
chống lại đế quốc. Tuy nhiên không vì thế là đâm ra ý lại, phụ thuộc mà vẫn
phải tự lực cánh sinh, tự lực tự cường. Tự lực cánh sinh là một phương châm
chiến lược hết sức quan trọng, nhằm phát huy cao độ nguồn sức mạnh chủ quan
của dân tộc. Như vậy, cách mạng nước ta phải có sự kết hợp giữa sức mạnh
quốc tế và sức mạnh dân tộc để tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng kẻ thù.
Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng
giai cấp công nhân. “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được
dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng
sản và cách mạng thế giới. Vì vậy, phải tiến hành cách mạng một cách triệt để”.
Người luôn cho rằng Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
và cách mạng vô sản ở “chính quốc” có quan hệ khăng khít với nhau như hai
cái cánh của thời đại, luôn phải thực hiện khẩu hiệu của Lênin: vô sản toàn thế
giới liên hiệp lại. Điều đặc biệt quan trọng là Nguyễn ái Quốc đã nêu rõ cách
mạng thuộc địa không phụ thuộc vào mạng vô sản ở “chính quốc” mà có tính
chủ động, độc lập. Cách mạng thuộc địa có thể thành công trước cách mạng ở
11
11


“chính quốc” và góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc tiến lên. Đây là một
quan điểm cách mạng độc lập, sáng tạo của Người.
III.Giá trị, ý nghĩa của luận điểm
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực
tiễn. Những lý luận của Người không thế có giá trị nếu xa rời thực tiễn. Chính
vì thế, những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng

dân tộc phải được vận dụng thành công vào cách mạng Việt Nam.
Tháng 5-1941, Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương khóa I do
Người chủ trì đã đưa ra quyết định tiến hành khởi nghĩa vũ trang, mở đầu bằng
một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương để tiến tới tổng khởi
nghĩa toàn quốc. Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Người cùng với
Trung ương đảng chủ động chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết, đón thời cơ, chớp
thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa Tháng tám. Lực lượng tham gia cuộc Tổng
khởi nghĩa là toàn bộ dân tộc Việt Nam bao gồm công nông binh, trí thức, và có
cả sự tham gia của tầng lớp tiểu địa chủ, tiểu tư sản. Nhưng chủ chốt đó là liên
minh công – nông và được sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Kết hợp
tất cả các yếu tố đó, quân và dân ta đã giành được chính quyền trên toàn quốc
chỉ trong vòng 10 ngày, lật đổ chính quyền thực dân nửa phong kiến, đưa nhân
dân ra khỏi cảnh nô lệ lầm than. Bên cạnh đó còn là tiền đề cho thắng lợi của
phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa khác trên thế giới, kéo
theo sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc sau này.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, với chủ trương kháng chiến: “toàn
dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của thế giới”
và dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản,
quân và dân ta đã từng bước đẩy lùi được những kế hoạch tấn công của quân
Pháp, buộc chúng phải thừa nhận nền độc lập, tự chủ của Việt Nam qua hiệp
định Giơnevo năm 1954. Từ đây, thực dân Pháp hoàn toàn bỏ mộng xâm lược
nước ta, đất nước ta hoàn toàn độc lập, nhân dân ta hoàn toàn được tự do.
Không chỉ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và thắng lợi của cuộc kháng
12
12


chiến chống Pháp mà sau này thắng lợi vẻ vang trong kháng chiến chống Mỹ đã
khẳng định sâu sắc tính đúng đắn của những quan điếm về cách mạng giải
phóng dân tộc của Hồ Chí Minh và đồng thời cũng thế hiện sự vận dụng nhuần

nhuyễn tư tưởng của Người trong con đường cách mạng của Việt Nam sau này.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước cũng đang đứng trước những cơ hội và thách thức
to lớn đòi hỏi chúng ta phải chủ động đón lấy và sáng suốt vượt qua. Ngoài
những lợi ích hiển nhiên, hơn bao giờ hết, nước ta đang đứng trước rất nhiều
nguy cơ có ảnh hưởng trực tiếp đến độc lập dân tộc. Đó là những nguy cơ lệ
thuộc vào nước ngoài về kinh tế, chính trị, nguy cơ phai nhạt bản sắc văn hoá
dân tộc, tiếp thu một nền văn hoá lai căng phi bẳn sắc. Bên cạnh những nguy cơ
mang tính hệ quả của toàn cầu hoá và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, chúng
ta còn phải đối mặt với âm mưu diễn biến hoà bình. Các thế lực thù địch trong
và ngoài nước đang núp dưới những chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, dân
tộc tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta. Trước những nguy cơ
ấy, Đảng và Nhà nước ta phải không ngừng khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ
đất nước. Phát huy tối đa các nguồn nội lực, bao gồm con người, trí tuệ, truyền
thống, đất đai, tài nguyên,v.v để xây dựng và phát triển kinh tế, đưa đất nước
từng bước bắt kịp các nước phát triển. Đất nước phát triển, nền kinh tế hùng
mạnh sẽ góp phần trực tiếp tạo sức mạnh cho nhân dân ta giữ vững độc lập dân
tộc.
Thấm nhuần tư tưởng của người về vấn đề dân tộc, ta càng phải phát huy
chủ nghĩa ân tộc chân chính, tinh thần tích cực chủ động, sáng tạo và tự lực tự
cường của mọi người dân Việt Nam để góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
bảo vệ nền độc lập dân tộc. Người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, tinh
thần đoàn kết cộng đồng, ý chí tự chủ kiên cường, sáng tạo, bất khuất, không
chịu làm nô lệ, không cam phận nghèo hèn. Những phẩm chất tốt đẹp ấy đã
được phát huy cao độ trong hai cuộc kháng chiến thầnthánh của dân tộc, đưa
13
13



đến thắng lợi vĩ đại Điện Biên và Đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng miền
nam thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên CNXH. Ngày nay, truyền
thống quí báu ấy, chủ nghĩa dân tộc chân chính cần được tiếp tục khơi dậy mạnh
mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn thách
thức, vững bước tiến lên cùng bè bạn khắp năm châu.

14
14



×