Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Quan điểm của Hồ Chí Minh về việc công tác mặt trận dân tộc thống nhất potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.65 KB, 19 trang )

Quan điểm của Hồ Chí Minh về việc công tác mặt trận dân
tộc thống nhất
I.Tính tất yếu xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất.
II. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựngmặt trận dân tộc thống nhất.
1.Dựng nước và giữ nước là sự nghiệp của toàn dân.

2.Đoàn kết dân tộc - nguồn sức mạnh của cách mạng .
III.Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của mặt trận dân tộc thống nhất.
1.Hiệp thương dân chủ.
2.Hợp tác bình đẳng.
3.Đoàn kết chân thành, tôn trọng lẫn nhau.
4.Phối hợp và thống nhất hành động.
IV.Kết luận và bài học kinh nghiệm.
1.Xác định đúng kẻ thù, sắp xếp đúng bạn đồng minh.
2.Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ mặt trận.
3.Nâng cao sự lãnh đạo của Đảng trong mặt trận.
I.Tính tất yếu xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận Dân tộc Thống nhất bắt nguồn từ
quan điểm nhất quán của Người về vai trò quyết định của quần chúng trong lịch
sử, coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng chỉ có thể hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình nếu biết tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong
Mặt trận Dân tộc Thống nhất rộng rãi chống kẻ thù chung và xây dựng đất nước.
Trong quá trình phát triển của cách mạng, tuy phải trải qua những bước thăng
trầm, song quan điểm đó luôn luôn nhất quán. Từ Hội Phản đế Đồng minh, Mặt
trận Dân chủ Đông Dương, Mặt trận Phản đế Đông Dương, Mặt trận thống nhất
chống phát xít đến Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên việt, Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ, hoà bình
Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tất cả những thử nghiệm về lý luận và
thực tiễn các phong trào Mặt trận đã đi đến khẳng định những quan điểm đúng
đắn của Hồ Chí Minh về Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam.
1. Muốn giành được thắng lợi của cách mạng nói chung và xây dựng chủ nghĩa xã


hội thành công thì phải đại đoàn kết dân tộc, nhưng muốn đại đoàn kết dân tộc thì
phải tổ chức quần chúng lại thành Mặt trận Dân tộc Thống nhất rộng rãi. Sự hình
thành khối đại đoàn kết dân tộc là một tất yếu và sự ra đời tổ chức Mặt trận cũng
là một tất yếu khách quan. Quan điểm này khẳng định Mặt trận ra đời, phát triển
không tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng
định vai trò quan trọng của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, trong cách mạng dân
tộc dân chủ cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng, do đặc
điểm mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp ở nước ta mà Mặt trận Dân tộc
Thống nhất Việt Nam có sứ mạng cao cả đoàn kết hết thảy mọi người Việt Nam
yêu nước và tiến bộ đấu tranh cho quyền lợi tối cao của dân tộc.
Tại Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt (3-1951), Hồ Chí Minh đã tổng kết
kinh nghiệm về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc Thống nhất thành khẩu
hiệu nổi tiếng: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại
thành công.
Đây chính là chiến lược cách mạng, là tư tưởng cơ bản mà Người đã tổng kết và
rút ra từ truyền thống đấu tranh anh dũng đầy hy sinh gian khổ và rực rỡ chiến
công của dân tộc ta, nó đã trở thành chân lý bền vững của dân tộc ta về đại đoàn
kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc Thống nhất.
2. Mặt trận Dân tộc Thống nhất là một hình thức tập hợp quần chúng rộng rãi, đại
diện cho đại đa số quần chúng, đại diện cho quyền lợi dân tộc, không có sự phân
biệt đối xử. Người cho rằng: Từ Nam đến Bắc, ai là người tán thành hoà bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ thì chúng ta sẵn sàng đoàn kết với họ, thật thà hợp
tác với họ, thật sự đoàn kết với họ, dù từ trước đến nay họ đã theo phe phái nào
1
.
Chúng ta đọc thấy tư tưởng này của Người từ trong Chính cương vắn tắt và Sách
lược vắn tắt được thông qua (1930) tại hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản để
thành lập Đảng Cộng sản ViệtNam. Mặt trận là nơi tập hợp mọi lực lượng yêu
nước và tiến bộ, thực hiện thêm bạn, bớt thù, nhằm tập trung mũi nhọn đấu tranh
vào kẻ thù nguy hiểm nhất. Xu hướng hẹp hòi, biệt phái, phân biệt đối xử là trái

với tư tưởng Hồ Chí Minh, chẳng những không tập hợp được lực lượng cách
mạng rộng rãi mà còn làm tăng thêm kẻ thù, giảm bớt bầu bạn, làm tổn hại cho sự
nghiệp cách mạng chung của cả dân tộc.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, khi Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, Mặt trận cần thật thà hợp tác và phát huy vai trò của
mọi thành phần kinh tế, dù cho họ thuộc chế độ sở hữu nào, miễn là họ tuân theo
pháp luật, tích cực đóng góp vào công cuộc phát triển kinh tế, giải quyết việc làm,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động, đồng thời thúc đẩy
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế một cách sâu rộng, góp phần nâng cao vị thế
nước ta trên trường quốc tế. Với tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận Dân tộc
Thống nhất, trên lĩnh vực kinh tế, chúng ta chủ trương hợp tác, cạnh tranh lành
mạnh, coi mọi người là những đối tác tin cậy, vừa hợp tác vừa đấu tranh để cùng
tồn tại và phát triển.
3. Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tinh thần hợp tác thật thà, đoàn kết thực sựvà
Người đã thể hiện tinh thần ấy trong việc tranh thủ tập hợp được mọi người Việt
Nam yêu nước vào cuộc đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc qua các thời kỳ, kể
cả những người từng là quan lại trong triều đình phong kiến trước đây, những
người đã từng làm việc trong chế độ cũ mà không cố chấp quá khứ của họ. Muốn
cho họ thật lòng đi theo cách mạng, cách mạng phải thật lòng đến với họ. Đó
chính là truyền thống lấy đại nghĩa dân tộc làm trọng mà chiến thắng mọi trở
ngại, cảm hoá mọi con người. Theo tinh thần ấy, những chính sách, luật pháp
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta ngày nay phải bảo đảm tính công bằng,
đồng bộ và tính nhất quán, nhằm gây niềm tin tưởng cho mọi thành viên trong xã
hội, tạo nên tâm lý ổn định và sẵn sàng mang công sức của mình đóng góp cho sự
nghiệp chung. Nếu chập chờn, do dự hoặc thiếu sự tin cậy lẫn nhau, không tạo
nên niềm tin, thì chỉ gây nên sự hoang mang, e ngại và giảm nhiệt tình của các
thành phần trong xã hội, đặc biệt là những thành phần hay mặc cảm rằng bị xem
nhẹ hoặc phân biệt đối xử.
Muốn đoàn kết thực sự và hợp tác thật thà, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh Mặt
trận phải có Cương lĩnh thật vững chắc, rất rộng rãi và thiết thực

2
. Thiết thực vì
cương lĩnh đó phải phù hợp với nguyện vọng thiết tha của toàn thể đồng bào, đó
là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; rộng rãi vì Mặt
trận bao gồm những người hiện nay tỏ ra thành tâm, thành ý phụng sự Tổ quốc dù
trước đây họ đã theo phe phái nào; vững chắc vì Mặt trận dựa trên nền tảng đại đa
số nhân dân trong nước là đồng bào công nhân và đồng bào nông dân, đồng thời
chú trọng đến tất cả các tầng lớp xã hội trong nước ta, “không bỏ sót ai”. Theo
đường lối của Đảng, Cương lĩnh của Mặt trận đề ra những yêu cầu thiết thực, phù
hợp với tâm tư nguyện vọng và đòi hỏi thiết tha của mọi tầng lớp nhân dân trong
xã hội.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và
lập trường cũng phải nhất trí. Điều đó đòi hỏi mọi thành viên của Mặt trận phải
lấy điểm tương đồng là Tổ quốc Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ
và giàu mạnh, là làm cho mọi người Việt Nam ai cũng có cơm ăn, áo mặc, được
học hành, xã hội công bằng, văn minh, làm cơ sở để gắn bó mọi giai tầng với
nhau trong hành động thiết thực, đồng thời đòi hỏi mọi chủ trương của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước, mọi chương trình hành động của Mặt trận…
đều phải nhằm thực hiện mục tiêu chung đó. Những chính sách pháp luật nào
không thoả mãn yêu cầu của mục tiêu chung đó đều không có tác dụng đoàn kết
toàn dân và củng cố Mặt trận Dân tộc Thống nhất. Mặt trận ngày nay cần thông
qua hoạt động giám sát và phản biện xã hội, cùng với Đảng và Nhà nước làm cho
chủ trương, chính sách, pháp luật ngày càng phù hợp với lòng dân, đáp ứng yêu
cầu thực tế cuộc sống của dân.
Hồ Chí Minh còn chỉ rõ rằng: Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết vừa đấu
tranh
3
. Không thể có sự đoàn kết một chiều nào có thể củng cố và duy trì được
Mặt trận Dân tộc Thống nhất. Từ những luận điểm của Hồ Chí Minh, có thể thấy:
hai điều kiện cơ bản để bảo đảm cho sự tồn tại của Mặt trận, đó là điểm tương

đồng và sự khác biệt. Không có điểm tương đồng, chúng ta không thể tập hợp
được mọi giai tầng trong xã hội dưới ngọn cờ đại đoàn kết. Song, do trong Mặt
trận có nhiều giai tầng, nên sự khác biệt là điều đương nhiên. Để cho những yếu
tố khác biệt đó có thể cùng tồn tại và gắn kết với nhau trong Mặt trận và cùng
hành động vì mục tiêu chung, thì sự đấu tranh để đi đến thống nhất là rất cần
thiết. Tuy nhiên, đó không phải là cuộc đấu tranh nhằm loại trừ nhau, đấu tranh
để phân biệt kẻ thắng người thua, mà là dựa trên tinh thần “vì nước, vì dân”, đặt
lợi ích dân tộc lên trên hết, và phải tiến hành “trên lập trường thân ái”, học những
cái tốt của nhau, giúp nhau hiểu rõ cái sai, cùng nhau sửa chữa sai lầm, cùng nhau
tiến bộ.
Làm được như vậy là điều rất khó, nếu như động cơ đấu tranh không thật sự
vì nước, vì dân, không đặt lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích của sự nghiệp chung
của nhân dân lên trên hết, gạt bỏ mọi động cơ cá nhân, những định kiến hẹp hòi,
khắc phục cách nhìn phiến diện và thiển cận của cả hai phía, phía người phê bình
và phía người được phê bình.
Ngày nay, chúng ta đang tìm tòi, thử nghiệm những hình thức, bước đi, giải pháp
hữu hiệu trên con đường phát triển của dân tộc, đó là một sự nghiệp mới mẻ, chưa
có tiền lệ ở nước ta, nên thường nảy sinh những ý kiến khác nhau, đó là lẽ thường
tình. Có nhiều ý kiến hiến kế của những người tâm huyết với công cuộc đổi mới
đất nước, nhưng cũng đề phòng với những ý kiến không hẳn vì động cơ trong
sáng, vì sự nghiệp của dân tộc. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về đấu tranh để đoàn
kết trong Mặt trận vẫn có giá trị hiện thực đối với chúng ta ngày nay, giúp chúng
ta phân biệt được tốt và xấu, đúng và sai, lành mạnh và cơ hội.
4. Giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp trong Mặt trận Dân tộc Thống
nhất là một sáng tạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi vận dụng học thuyết
Mác - Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân vào hoàn cảnh cụ thể nước ta. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”,
Người đã chỉ rõ: Công nông là gốc của cách mệnh, tiếp theo đó, tư tưởng này
được khẳng định trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và còn được bổ
sung: học trò, nhà buôn cũng là lực lượng cách mạng và Đảng phải tập hợp được

đông đảo công nông, tiểu tư sản, trí thức, trung nông và cả bộ phận tư sản, địa
chủ tiến bộ. Người chỉ ra rằng: liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận Dân
tộc Thống nhất, đồng thời Người cũng chỉ rõ Mặt trận còn là nơi thể hiện sức
mạnh của dân tộc, bao gồm mọi người Việt Nam thực sự yêu nước, tiến bộ. Với
quan điểm đó, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề giai cấp (liên minh công nông) trong
lòng dân tộc (Mặt trận Dân tộc Thống nhất). Các giai cấp nằm trong Mặt trận Dân
tộc Thống nhất là nằm trong liên minh giai cấp, liên minh với các tầng lớp yêu
nước khác, không phải đấu tranh để lật đổ, tiêu diệt, loại trừ giai cấp, mà là tạo
thành lực lượng thống nhất của cả dân tộc để giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Đặt liên minh công nông trong khuôn khổ nền tảng của Mặt trận Dân
tộc Thống nhất, Hồ Chí Minh đã giải quyết một cách sáng tạo mối quan hệ hài
hoà giữa dân tộc và giai cấp ở nước ta.
Tuy nhiên, ngày nay không phải mọi người đều thấy rõ điều đó. Trong điều kiện
cách mạng khoa học công nghệ mới và kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cùng
với sự phân hoá giai cấp và phân tầng xã hội các giai cấp công nhân và nông dân
đang có những biến chuyển mạnh mẽ. Những thay đổi đó vẫn đang còn tiếp diễn.
Công tác tổng kết, khảo cứu về những biến đổi đó chưa được tiến hành đầy đủ.
Do đó đã nảy sinh nhiều nhận thức khác nhau về vai trò của liên minh công nông
đối với Mặt trận Dân tộc Thống nhất. Có thể quy thành hai loại ý kiến sau đây:
Một là,coi nhẹ vai trò của liên minh công nông đối với Mặt trận Dân tộc Thống
nhất.
Hai là,vẫn giữ những quan niệm về liên minh công nông trong thời kỳ cách mạng
dân tộc dân chủ để áp dụng trong giai đoạn hiện nay.
Trở lại với tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh, ta thấy rõ cả hai loại ý kiến trên
đây đều không phù hợp với thực tế. Vấn đề dân tộc và giai cấp luôn luôn tồn tại
và đòi hỏi phải được giải quyết hài hoà, phù hợp với đặc điểm tình hình, mỗi thời
kỳ cách mạng.
Trong giai đoạn mới, cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời không
ngừng đổi mới sự lãnh đạo của Đảng cho phù hợp với tình hình hiện nay. Trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước công nghiệp và nông nghiệp vẫn

là hai lĩnh vực sản xuất cơ bản của xã hội. Công nhân và nông dân vẫn chiếm số
đông trong khối đoàn kết dân tộc. Xây dựng nền kinh tế tri thức đòi hỏi phát triển
mạnh mẽ đội ngũ lao động trí óc trong mọi lĩnh vực sản xuất, đời sống của xã hội.
Mặt trận Dân tộc Thống nhất cần coi trọng đoàn kết đông đảo những người lao
động trí óc và lao động chân tay trong các lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp,
làm tăng thêm chất lượng của liên minh công nông và đóng vai trò nòng cốt trong
khối đại đoàn kết dân tộc. Đó là một thực tế khách quan. Cái cốt lõi trong quan
điểm của Hồ Chí Minh là đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc, giai cấp phải
phục tùng dân tộc và vai trò nòng cốt của liên minh công nông chính là ở chỗ nó
phải đoàn kết tập hợp được các giai tầng khác và làm cho Mặt trận Dân tộc
Thống nhất ngày càng mạnh lên, nếu không, khối liên minh công nông sẽ tự đánh
mất vai trò lịch sử của chính mình.
5. Mặt trận Dân tộc Thống nhất không phải là sách lược tạm thời mà là một chiến
lược lâu dài của cách mạng, đó là quan điểm rất cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về Mặt trận Dân tộc Thống nhất. Xuất phát từ quan điểm đoàn kết lâu dài
với mọi người yêu nước và tiến bộ, Người cho rằng Mặt trận Dân tộc Thống nhất
chẳng những đóng vai trò quan trọng trong cách mạng dân tộc dân chủ, mà còn
đóng vai trò rất quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa nữa.
4
Quan điểm đó khẳng định: ngày nay sau khi hoàn thành cách mạng giải phóng
dân tộc, tiến hành công cuộc xây dựng đất nước, thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, xoá nghèo nàn lạc hậu, chúng ta vẫn cần tiếp tục củng cố và phát huy vai
trò lịch sử quan trọng của Mặt trận Dân tộc Thống nhất. Rõ ràng sự nghiệp xây
dựng đất nước là sự nghiệp của hàng triệu triệu quần chúng chứ không phải là sự
nghiệp từ trên dội xuống. Vì vậy vẫn phải đoàn kết, tập hợp mọi người Việt Nam
yêu nước và tiến bộ, tán thành mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc. Tiến hành xây
dựng đất nước, ở vào hoàn cảnh trong nước và quốc tế hiện nay, chúng ta vẫn
phải phân biệt rõ ai là bạn, ai là thù, vẫn phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù
và khẳng định rằng mọi người yêu nước và tiến bộ là bạn của ta, mọi thế lực
chống phá sự nghiệp của nhân dân ta là kẻ thù của ta

5
. Tư tưởng của Hồ Chí Minh
vẫn luôn ngời sáng, chỉ rõ vai trò của Mặt trận trong giai đoạn hiện nay của cách
mạng nước ta.
Kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận Dân tộc Thống nhất,
chúng ta cần phân tích những đặc điểm tình hình hiện nay đang tác động đến khối
đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc Thống nhất để vận dụng có kết quả quan
điểm tư tưởng của Người. Những yếu tố mới hiện nay là:
- Mục tiêu của Mặt trận Dân tộc Thống nhất hiện nay là nhằm tập hợp toàn dân
phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam phấn đấu xoá bỏ nghèo nàn lạc
hậu, xây dựng Tổ quốc độc lập, tự do, hạnh phúc, trở thành một nước công
nghiệp hiện đại, sánh vai với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.
Chỉ có như vậy, chúng ta mới giữ vững được độc lập dân tộc, vì nếu tụt hậu về
kinh tế, chúng ta sẽ bị phụ thuộc và nô dịch, chủ quyền quốc gia sẽ khó lòng giữ
vững.
- Cơ sở kinh tế của Mặt trận Dân tộc Thống nhất hiện nay đã có những thay đổi
lớn lao, đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và sự hội nhập kinh tế quốc
tế ngày càng sâu rộng.
- Cơ sở xã hội của Mặt trận đã và đang thay đổi nhanh chóng cùng với những
biến động của cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp và đang còn tiếp tục thay đổi. Nhiều
giai tầng mới xuất hiện. Những giai tầng cũ đang phân hoá, chuyển động. Tầng
lớp doanh nhân đang ngày càng đông đảo và có vị trí tích cực trong xã hội cần
được nhìn nhận đúng mức. Đội ngũ trí thức ngày càng trở nên quan trọng đối với
việc xây dựng nền kinh tế trí thức.
- Cuộc đấu tranh ở trong nước và trên thế giới không mất đi mà chuyển sang
những hình thức mới,nhất là trong điều kiện toàn cầu hoá ngày nay. Chúng ta có
thêm nhiều bạn mới, nhưng cũng xuất hiện những thế lực chống đối mới. Chúng
ta phải có phương thức đấu tranh mới, gắn đấu tranh với hợp tác để cùng tồn tại
và phát triển.
Trong tình hình đó, học tập phương pháp tư duy của Hồ Chí Minh, cần phân tích

những nhân tố mới, tìm ra thuận lợi và thấy rõ khó khăn, có chính sách Mặt trận
đúng đắn, phê phán những nhận thức sai lầm, thực hiện điều mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: Phải thêm bầu bạn, bớt kẻ thù. Chỉ có như vậy mới bảo vệ và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng trong tình hình mới, ra sức xây dựng,
củng cố phát triển Mặt trận Dân tộc Thống nhất ngày một lớn mạnh, phát huy
tiềm năng vĩ đại của dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng Tổ quốc
Việt Nam giàu mạnh, giữ vững độc lập tự chủ, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam yêu quý.
II. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựngmặt trận dân tộc thống nhất.
1. Dựng nước và giữ nước là sự nghiệp của toàn dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn quán triệt quan điểm cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, trong thực tiễn đấu tranh giành độc lập dân tộc trước
đây và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Trong tác phẩm "Đường kách mệnh", đồng chí Nguyễn ái Quốc đã nói:
Kách mệnh là việc chung của dân chúng, chứ không phải là việc của một hai
người. Trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản", Mác và Ǎngghen chỉ rõ: "
Những người cộng sản phấn đấu cho sự đoàn kết và liên hợp của các đảng dân
chủ ở tất cả các nước". Lênin còn cho rằng chỉ một mình giai cấp vô sản tiến
hành cuộc đấu tranh một cách đơn độc "thì đó không những là một điều dại dột,
mà còn là một tội ác nữa".
Quan điểm cơ bản trên đã được thể hiện trong thực tiễn đấu tranh giành
và giữ chính quyền trước đây, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay. Mặt trận dân tộc thống nhất là sự thực hiện bằng tổ chức việc tập
hợp và phát huy sức mạnh toàn dân trong sự nghiệp chung: giải phóng dân tộc
và xây dựng đất nước. Từ ngày thành lập, Đảng ta đã coi Mặt trận dân tộc thống
nhất là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, và đã phê phán mọi biểu hiện coi nhẹ công
tác mặt trận, hạ thấp vai trò của quần chúng, coi thường nhân tố dân tộc trong
cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: công tác mặt trận là một công tác rất
quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng. Để hình thành được mặt trận, tập
hợp được hết thảy các lực lượng cách mạng và tiến bộ trong mỗi thời kỳ cách

mạng, Đảng đã đề ra những chủ trương, chính sách thích hợp nhằm đoàn kết
toàn dân, phấn đấu cho một mục tiêu nhất định xem đó là chương trình hành
động thống nhất của tất cả các giai cấp, các đảng phái, các lực lượng tham gia
Mặt trận dân tộc thống nhất. Thể hiện tính chất quần chúng rộng rãi trong công
tác mặt trận, Đảng còn linh hoạt trong việc lựa chọn các hình thức và tên gọi
của mặt trận, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể và mục tiêu, nhiệm vụ từng thời kỳ
cách mạng như: Mặt trận dân chủ, Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, Mặt
trận Tổ quốc, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. v.v
Có mặt trận được tổ chức chặt chẽ theo hệ thống từ trung ương đến cơ sở;
có mặt trận chỉ mang tính chất liên hiệp hành động; nhưng tất cả đều nhằm tập
hợp, động viên được hết thảy mọi người tích cực tham gia vào sự nghiệp chung
giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
2. Đoàn kết dân tộc - nguồn sức mạnh của cách mạng
Dân tộc ta đã phải trải qua bốn nghìn nǎm lịch sử dựng nước và giữ nước.
Quá trình lịch sử ấy đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, bất khuất
của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Sự đồng tâm của đồng bào ta
đúc thành bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến
mức nào, đụng đầu nhằm vào bức tường đó, chúng cũng phải thất bại".
Một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam là Đảng
ta đã xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công nông.
Ngay từ khi mới thành lập, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã chỉ rõ giai cấp
vô sản phải tranh thủ được nhiều bạn đồng minh, phải tập hợp các lực lượng cách
mạng trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Hình thức Mặt trận dân tộc thống nhất đầu tiên lấy tên là Hội phản đế đồng minh.
Trong chỉ thị lập Mặt trận, Đảng đã nhấn mạnh: Nếu không tổ chức được lực
lượng thật rộng, thật kín thì cách mạng cũng khó thành công. Sau cao trào cách
mạng 1930-1931, đế quốc Pháp khủng bố ác liệt, phong trào cách mạng tạm thời
lắng xuống, Đảng chuyển hướng tổ chức quần chúng đấu tranh và quần chúng
vẫn hướng về Đảng.
Khi điều kiện và thời cơ thuận lợi xuất hiện, Đảng đã kịp thời đề ra chủ

trương, chính sách đúng nên đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, liên hiệp hành
động với các giai cấp, các tầng lớp yêu nước, các đảng phái dân chủ, hình thành
Mặt trận dân chủ trong thời kỳ 1936-1939.
Vì vậy, Đảng đã phát động được một cao trào đấu tranh cách mạng đòi cải thiện
dân sinh, dân chủ, chống phản động thuộc địa, chống chủ nghĩa phátxít, chống
chiến tranh. Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Đảng đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu. Đồng chí Hồ Chí Minh về nước, cùng Ban Chấp
hành Trung ương Đảng hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám khoá I (tháng 5-1941), dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của đồng chí Hồ Chí Minh đã chủ trương tạm gác khẩu hiệu tịch thu
ruộng đất của địa chủ, thành lập Mặt trận Việt Minh để mở rộng khối đoàn kết
dân tộc, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc
lập dân tộc.
Dưới ngọn cờ đại đoàn kết của Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã dấy
lên một cao trào kháng Nhật cứu nước sôi nổi và đều khắp, nắm vững thời cơ
đưa Cách mạng Tháng Tám 1945 đến thắng lợi. Chính quyền cách mạng vừa mới
thành lập, thì quân Pháp núp sau quân đội Anh trở lại xâm lược nước ta từ phía
Nam, còn quân Tưởng kéo vào phía Bắc. Trước tình thế hiểm nguy ấy, Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc thống
nhất. Tháng 5-1946, Mặt trận Liên Việt ra đời, khối đại đoàn kết dân tộc được
củng cố, làm hậu thuẫn vững chắc cho chính quyền cách mạng. Đảng đã áp dụng
nhiều biện pháp linh hoạt để thêm bạn, bớt thù, do đó đã đẩy lùi được mọi âm
mưu thâm độc của thù trong, giặc ngoài. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp
nghị Giơnevơ được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Nhưng ở miền
Nam, đế quốc Mỹ đã thay thế thực dân Pháp, biến miền Nam nước ta thành thuộc
địa kiểu mới. Chúng trở thành kẻ thù chính của nhân dân miền Nam và của cả
dân tộc ta.
Trong hoàn cảnh mới, Đảng chủ trương thành lập ở mỗi miền một mặt trận dân
tộc thống nhất nhằm mở rộng và tǎng cường khối đoàn kết dân tộc để hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước và đưa miền Bắc tiến lên chủ

nghĩa xã hội. Tháng 9-1955, ở miền Bắc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời.
Tháng 12-1960, ở miền Nam, sau cao trào "đồng khởi", Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam được thành lập.
Từ cuộc tiến công và nổi dậy mùa Xuân nǎm 1968, các lực lượng tiến bộ ở các
đô thị miền Nam đã tập hợp trong liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ, hoà
bình Việt Nam. Nhân dân ta còn đoàn kết với nhân dân các dân tộc Lào và
Campuchia anh em, hình thành Mặt trận đoàn kết ba nước, các lực lượng hoà
bình, tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ, ủng hộ sự nghiệp chống
Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Trong cuộc kháng chiến Mỹ, cứu nước đã hình thành trên thực tế ba tầng mặt
trận: ở trong nước, trên bán đảo Đông Dương và trên thế giới, đoàn kết mọi lực
lượng có thể đoàn kết, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ để lên án và cô
lập đế quốc Mỹ xâm lược. Sau đại thắng mùa Xuân nǎm 1975, miền Nam hoàn
toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động vẫn còn âm mưu và hành động phá
hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Đoàn kết trong Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân cả nước ta đang ra sức thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Nhân dân ta tiếp tục tǎng cường đoàn kết với nhân dân hai nước Lào và
Campuchia, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước, các dân tộc tiến
bộ trên thế giới, đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
Hơn 60 nǎm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành một cuộc
đấu tranh lâu dài chống lại những đế quốc thực dân lớn mạnh và đã giành được
thắng lợi vẻ vang. Một trong những nguyên nhân thắng lợi là Đảng ta luôn chǎm
lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất theo lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công".
Mặt trận Dân tộc Thống nhất do Đảng lãnh đạo có một truyền thống lịch sử vẻ
vang. Từ khi ra đời năm 1930 với Đông Dương phản đế Đồng minh đến nay là

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đã có bề dày lịch sử 3/4 thế kỷ. Sự trường tồn này là
hiếm có trong lịch sử các nước trên thế giới.
Trong 76 năm qua, Mặt trận liên tục phát triển qua những chặng đường đấu tranh
gay go quyết liệt của dân tộc, của cách mạng. Đấu tranh thắng lợi, Mặt trận lại
lớn lên cả về số lượng lẫn chất lượng. Điều đó đã trở thành một quy luật là:
“Đoàn kết - đấu tranh”
Đấu tranh thắng lợi để có đoàn kết cao hơn, rộng hơn.
Ngày nay, trong đổi mới chúng ta không hay dùng và cũng không cần phải dùng
khái niệm “đấu tranh”, hay “đấu tranh giai cấp” như trước kia, nhưng trong thực
tế, chúng ta luôn phải đoàn kết để đấu tranh trên các mặt trận: tư tưởng, chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quân sự, ngoại giao…, đấu tranh thắng lợi để có đoàn
kết cao hơn như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng đúc kết:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công.
Mặt trận đóng vai trò quan trọng không thể thiếu được trong cách mạng như vậy,
cho nên Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu rõ:
“… Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến
lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu
và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 cũng ghi: “Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân… Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt
động có hiệu quả”
2
.
Trong thực tế, nhờ đoàn kết, đấu tranh thắng lợi mà Mặt trận Tổ quốc ngày nay
đã phát triển rộng lớn, vững chắc chưa từng có, đảm đương được những nhiệm vụ

cao cả là:
_ Đoàn kết hơn 80 triệu người Việt Nam cư trú trên lãnh thổ Việt Nam và một bộ
phận đáng kể là Việt kiều cư trú ở nhiều nước trên thế giới.
_ Đoàn kết toàn dân trong một quốc gia đa dân tộc, nhiều sắc tộc.
_ Đoàn kết một cộng đồng dân tộc nhiều tôn giáo và có cả một bộ phận lớn
không tôn giáo.
_ Đoàn kết trong dựng nước với mục tiêu phấn đấu: Giữ vững độc lập, thống
nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trong bối
cảnh quốc tế nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn do xu thế hiện đại
hoá, toàn cầu hoá, quốc tế hoá mang lại.
_Đoàn kết giữ nước trong bối cảnh quốc tế đa cực, có sự lũng đoạn của các siêu
cường và sự phát triển mới chưa từng có của vũ khí huỷ diệt, cũng như nghệ thuật
chiến tranh tối tân do sự phát triển cao của khoa học, kỹ thuật đem lại…
III.Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận Dân tộc thống nhất được tổ chức trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện,
bình đẳng về địa vị và độc lập về tổ chức. Quan hệ giữa các thành viên trong Mặt
trận được thực hiện theo các nguyên tắc:
1.Hiệp thương dân chủ,
hiệp thương dân chủ là để áp dụng cho tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam. Đây là một nguyên tắc chính trị phù hợp với đặc điểm, bản chất
của Mặt trận, vốn là liên minh chính trị xã hội rộng rãi nhất.
Nếu như nét nổi bật của tổ chức đảng là ở tính thống nhất chính trị chặt chẽ, vì
Đảng là đội tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân, thì nét nổi bật của tổ
chức mặt trận là ở tính xã hội rộng rãi, tập hợp mọi lực lượng, giai cấp, dân tộc,
tôn giáo, thành phần xã hội trong hình thức một liên minh chính trị. Do là liên
minh nên phải hiệp thương dân chủ. Chỉ có hiệp thương dân chủ mới giữ được sự
tồn tại của liên minh một cách lành mạnh, thực chất. Hiệp thương dân chủ chính
là quá trình thảo luận, bàn bạc, trao đổi từ rất nhiều sự khác biệt, thậm chí đối lập
nhau để đi tới cùng thống nhất về một hay một số vấn đề, một chủ trương, chính
sách do Mặt trận đề xướng.

Hiệp thương, tự nó đã nói nên tính chất bình đẳng, bao hàm sự nhân nhượng,
thậm chí không loại trừ cả sự thỏa hiệp khi cần thiết, theo đúng nghĩa tích cực của
khái niệm này. Ở khía cạnh khác, hiệp thương cũng là sự thể hiện của văn hóa
dân chủ. Trong hiệp thương dân chủ thì hiệp thương là cách thức, phương thức,
còn dân chủ vừa là tiền đề vừa là mục tiêu, mục đích. Hiệp thương dân chủ thực
chất cũng là công tác dân vận, công tác vận động quần chúng theo đường lối,
quan điểm của Đảng. Đây cũng chính là yêu cầu lãnh đạo của Đảng đối với Mặt
trận phải đạt tới, tức là đảm bảo sự thành thật, tin cậy, là tôn trọng, là không mang
tính quyền uy để phối hợp thống nhất hành động nhằm tăng cường sự đoàn kết,
sự đồng thuận trong xã hội và nhân dân.
2.Hợp tác bình đẳng,
3.Đoàn kết chân thành, tôn trọng lẫn nhau,
4.Phối hợp và thống nhất hành động.
Trong sinh hoạt Mặt trận, các thành viên tự do bày tỏ ý kiến của mình, cùng nhau
bàn bạc, hiệp thương dân chủ đề đạt tới sự nhất trí, không mệnh lệnh, không áp
đặt. Nếu có những ý kiến khác trên những vấn đề cụ thể thì cùng nhautrao đổi,
thuyết phục, giúp đỡ nhau giải quyết. Trong hoạt động, các thành viên thoả thuận
với nhau về chương trình hành động chung và có nghĩa vụ giúp đỡ nhau, phối hợp
thống nhất hành động để thực hiện chương trình đã thoả thuận. Bốn nguyên tắc đó
có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng nguyên tắc một và bốn là rất quan trọng.
IV.Kết luận và bài học kinh nghiệm
Tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh về công tác mặt trận dân tộc thống nhất là
hoàn toàn đùg đắn và phát huy hiệu quả.Giúp cho cách mạng Việt Nam giành hết
thắng lợi này đến thắng lợi khác.Nó đã để lại những bài học vô cùng qúy giá
1. Xác định đúng kẻ thù, sắp xếp đúng bạn đồng minh
Muốn có chính sách mặt trận đúng đắn, trước hết phải xác định đúng kẻ thù cụ
thể, trước mắt. Điều đó đòi hỏi phải có lập trường giai cấp vững vàng, nhãn quan
chính trị sâu sắc, nhạy bén. Trong đấu tranh cách mạng, không thể chỉ nêu ra kẻ
thù chung chung, mà phải chỉ rõ kẻ thù cần phải đánh đổ trong từng giai đoạn
chiến lược, có khi trong từng thời kỳ của một giai đoạn. Có như vậy mới tập

trung được toàn bộ lực lượng cách mạng đánh đổ chúng. Xác định rõ kẻ thù cụ
thể mới lợi dụng được những mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù và vận dụng sách
lược mềm dẻo để cô lập cao độ kẻ thù nguy hiểm nhất. Trong thực tế, đã có lúc,
có nơi không phân biệt được kẻ thù chủ yếu với kẻ thù thứ yếu, kẻ thù nguy hiểm
trước mắt với kẻ thù lâu dài, thậm chí đã lẫn lộn bạn - thù, như ở Nghệ Tĩnh
trong những nǎm 1930-1931 đã nêu khẩu hiệu "trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc
tận rễ ", do đó đã không tranh thủ được lực lượng và các tầng lớp trung gian để
tập trung lực lượng chống đế quốc xâm lược. Đảng ta đã có nhiều thành công nổi
bật trong việc xác định kẻ thù cụ thể và chính sách mặt trận trong các thời kỳ
cách mạng. Đặc biệt là trong thời kỳ 1945-1946, công tác mặt trận lúc này hết
sức phức tạp, nhưng phong phú và sáng tạo. Tình hình lúc bấy giờ thay đổi từng
ngày, từng tháng. Cùng một lúc cách mạng nước ta phải đối phó với nhiều kẻ thù,
nhưng Đảng đã đánh giá đúng các loại kẻ thù, xác định đúng kẻ thù chính, để có
sách lược và phương pháp đấu tranh phù hợp, tạm thời hoà hoãn với kẻ thù này,
phân hoá, cô lập kẻ thù kia, tránh thế bất lợi phải chống với nhiều kẻ thù cùng
một lúc, để tǎng thêm sức mạnh giành thắng lợi. Trong kháng chiến chống Mỹ,
Đảng ta đã sáng suốt chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất không chỉ của dân tộc ta mà
của cả loài người tiến bộ là đế quốc Mỹ, nên đã hình thành được ba tầng mặt
trận: ở trong nước, ở Đông Dương và trên thế giới, tạo ra sức mạnh để giành
thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Trong công tác mặt trận, phải
đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân và quan điểm dân tộc đúng đắn. Vì
trong dân tộc có nhiều giai cấp, nên Đảng phải đánh giá đúng thái độ chính trị
của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau để sắp xếp đúng đắn vị trí các lực
lượng trong Mặt trận dân tộc thống nhất: vai trò lãnh đạo, lực lượng nòng cốt,
bạn đồng minh lâu dài và gần gũi, bạn đồng minh tạm thời, v.v Nhân dân ta bị
đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Đó là cơ sở cho sự tập hợp rộng
rãi các lực lượng yêu nước và tiến bộ trong Mặt trận dân tộc thống nhất để chống
đế quốc và tay sai. Để biến khả nǎng ấy thành hiện thực, điều quyết định là phải
có sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Đó là tất yếu khách
quan của cách mạng nước ta và nhiều nước khác trong thời đại ngày nay. Ngay

từ khi thành lập, Đảng ta đã đánh giá đầy đủ vị trí của giai cấp nông dân Việt
Nam, giai cấp đông đảo nhất, chiếm 95% số dân, là bạn đồng minh cách mạng và
trung thành nhất của giai cấp công nhân Việt Nam. Hai giai cấp công nhân và
nông dân có liên minh chặt chẽ mới phát huy đầy đủ sức mạnh, thực hiện triệt để
nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giai cấp. Sự liên minh của hai giai cấp công nhân
và nông dân ở nước ta là nền tảng vững chắc của Mặt trận dân tộc thống nhất.
Đảng ta xác định rõ vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, vai trò nòng cốt của
liên minh công - nông, vị trí quan trọng của tầng lớp trí thức, tiểu tư sản và ra sức
tập hợp đông đảo lực lượng về phía cách mạng, đồng thời đánh giá cao truyền
thống yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân. Đảng đã lôi cuốn giai cấp tư sản dân
tộc, một bộ phận hoặc từng cá nhân xuất thân từ giai cấp phong kiến địa chủ có
tinh thần yêu nước tham gia cách mạng giải phóng dân tộc. Trong giai đoạn cách
mạng dân tộc dân chủ, Đảng hết sức chú ý phân tích thái độ chính trị của các giai
cấp, các tầng lớp, nhất là các tầng lớp trên để tranh thủ mọi khả nǎng có thể tranh
thủ nhằm tǎng cường mặt trận dân tộc rộng rãi để chống đế quốc và tay sai.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta tiếp tục lắng nghe, tìm hiểu quan
điểm, tư tưởng và thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp để kịp thời đề ra
những chủ trương chính sách đúng đắn, những hình thức tổ chức sát hợp để tập
hợp lực lượng đông đảo, nhằm củng cố khối đoàn kết dân tộc, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2. Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ mặt trận
Để tránh tả và hữu khuynh trong việc thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc,
Đảng ta đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ mặt trận. Mối quan
hệ giữa dân tộc và giai cấp Mặt trận là tổ chức tập hợp lực lượng dân tộc chống
đế quốc xâm lược và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Nó bao gồm nhiều giai cấp, tầng
lớp được tập hợp, đoàn kết trên cơ sở chương trình hành động chung. Các giai
cấp trong mặt trận đều thống nhất về lợi ích chung của dân tộc. Đối với giai cấp
công nhân, lợi ích chung của dân tộc và lợi ích riêng của giai cấp là nhất trí.
Nhưng đối với các giai cấp khác, thì lợi ích riêng của giai cấp và lợi ích chung
của dân tôc có mặt nhất trí và có mặt không nhất trí. Vì vậy, Đảng phải nêu ra

được những mục tiêu chung mà tất cả thành viên của mặt trận có thể chấp nhận
được. Đó là cương lĩnh chung, chương trình hành động của mặt trận. Trong thời
kỳ 1936-1939, Đảng nêu ra mục tiêu đấu tranh đòi cải thiện dân sinh, dân chủ,
chống chủ nghĩa phátxít, chống chiến tranh; trong thời kỳ 1939-1945 là đấu tranh
chống Nhật, Pháp, giành độc lập dân tộc; trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước đã
có lúc Đảng nêu ra mục tiêu trước mắt tranh đấu cho miền Nam Việt Nam, hoà
bình, trung lập, v.v Cương lĩnh chung của mặt trận thể hiện đúng mối quan hệ
giữa lợi ích chung toàn dân tộc với lợi ích riêng từng giai cấp. Nếu vượt ra khỏi
giới hạn mục tiêu đó là phạm sai lầm tả khuynh. Trái lại, không đấu tranh để thực
hiện những mục tiêu chung đã xác định là phạm sai lầm hữu khuynh. Mối quan
hệ giữa liên minh công nông và mặt trận. Đây là mối quan hệ lớn nhất trong công
tác mặt trận. Đảng ta đã giải quyết thành công mối quan hệ này thông qua việc
giải quyết đúng mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
Trong khi nhấn mạnh đoàn kết dân tộc, không bao giờ Đảng coi nhẹ vai trò nền
tảng của mặt trận là khối liên minh công nông, vì liên minh công nông có vững
chắc mới có thể mở rộng được mặt trận; ngược lại, làm tốt công tác mặt trận càng
làm cho liên minh công nông thêm vững chắc. Chỉ nhấn mạnh liên minh công
nông mà không chú ý tranh thủ các giai cấp, tầng lớp khác là hẹp hòi, tả khuynh.
Ngược lại, chỉ chú ý vận động các giai cấp, tầng lớp khác mà không chú ý củng
cố liên minh công nông là phạm sai lầm hữu khuynh. Đảng ta đã giải quyết đúng
đắn mối quan hệ trên bằng việc thường xuyên nắm vững mục tiêu lâu dài và mục
tiêu chủ yếu trong từng thời kỳ cách mạng, phân tích được mâu thuẫn chủ yếu để
vạch rõ kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm nhất. Khi cần tập trung lực lượng để giải
quyết những nhiệm vụ cấp bách nhất của cách mạng, Đảng đã giải quyết đúng
mức quyền lợi của công nông và của các giai cấp, các tầng lớp tham gia mặt trận.
Mối quan hệ giữa tranh thủ tầng lớp trên đi đôi với phát động quần chúng cơ bản.
Đây là mối quan hệ phức tạp đòi hỏi phải có giải pháp khéo léo. Về bản chất giai
cấp, tầng lớp trên đối lập với quần chúng cơ bản của cách mạng là công nông.
Nhưng Đảng có thể và cần phải tranh thủ tầng lớp trên, nhất là những cá nhân có
uy tín trong quần chúng, đó là điều cần thiết và có lợi cho việc phát động quần

chúng cơ bản. Nhưng phong trào vững chắc phải là phong trào cách mạng của
quần chúng cơ bản. Chỉ khi nào phong trào đó mạnh mới bảo đảm tranh thủ được
tầng lớp trên. Đồng chí Nguyễn Vǎn Cừ đã phân tích: muốn lôi cuốn được tầng
lớp trên tham gia đấu tranh vì quyền lợi của dân tộc thì điều "cốt yếu là do lực
lượng đấu tranh của quần chúng". Vận động các dân tộc ít người là một trong
những công tác quan trọng bậc nhất của mặt trận, của chính quyền cách mạng.
Chính sách đối với các dân tộc ít người là một bộ phận trong chính sách đại đoàn
kết dân tộc của Đảng. Đảng đã chỉ rõ, phải tranh thủ tầng lớp trên có ảnh hưởng
đối với quần chúng ở vùng dân tộc ít người, "cụ thể là đoàn kết với họ, đồng thời
giáo dục, cải tạo họ, phê bình những thiếu sót của họ. Muốn tranh thủ tầng lớp
trên, phải đi sâu vào quần chúng, phát động tư tưởng quần chúng nông dân lao
động vùng dân tộc ít người". Mấu chốt của vấn đề đoàn kết các dân tộc anh em là
phải thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc, làm cho miền núi tiến kịp miền
xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp về kinh tế và vǎn hoá, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân lao động, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp
hòi, tự ti dân tộc. Để đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo, Đảng đưa ra chính
sách tự do tín ngưỡng và giáo dục quần chúng nhân dân lao động phân biệt tín
ngưỡng với những hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống lại chính sách và pháp
luật của Nhà nước. Phải nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của giáo dân, làm
cho họ phân biệt rõ địch - ta, ra sức đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần. Đối với tầng lớp trên trong tôn giáo, Đảng chủ trương đoàn kết
với họ trên tinh thần yêu nước chân chính và giúp đỡ họ hiểu biết đường lối,
chính sách của cách mạng, vận động họ cùng với đồng bào theo các tôn giáo làm
những việc có ích cho Tổ quốc, chống lại mọi âm mưu chia rẽ dân tộc và phá
hoại của kẻ thù. Trong việc xây dựng mặt trận, Đảng giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa đoàn kết và đấu tranh. Đoàn kết một chiều, thiếu đấu tranh trong
thực tế dẫn đến phá vỡ khối đoàn kết, thủ tiêu mặt trận. Do đó, trong mặt trận cần
thiết phải có đấu tranh nhằm mục đích thực hiện cương lĩnh chung của mặt trận.
Đấu tranh vượt quá cương lĩnh là phạm sai lầm tả khuynh, trái lại, thiếu đấu tranh
để thực hiện cương lĩnh là hữu khuynh, dẫn đến mất đoàn kết.

3. Nâng cao sự lãnh đạo của Đảng trong mặt trận
Một vấn đề có tính nguyên tắc là không ngừng tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng
trong mặt trận dân tộc thống nhất, phải giữ vững đường lối chính trị, mục tiêu,
nhiệm vụ cách mạng của Đảng, chống mọi khuynh hướng hạ thấp vai trò của
Đảng, đòi chia quyền lãnh đạo trong mặt trận, xa rời phương hướng, mục tiêu
chiến lược của cách mạng. Mấu chốt để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong
mặt trận là hoàn chỉnh đường lối cách mạng và không ngừng củng cố khối liên
minh công nông. Trong các thời kỳ cách mạng, Đảng ta phân tích đúng đắn các
mối quan hệ giai cấp để đề ra một cương lĩnh chung của mặt trận nhằm tập hợp
thật rộng rãi các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp, các cá nhân yêu
nước trong mặt trận. Các giai cấp, các tầng lớp trong nhân dân đi theo Đảng
chẳng những vì Đảng có đường lối đúng, mà còn vì Đảng có lực lượng. Vì vậy,
phải không ngừng củng cố khối liên minh công nông. Đảng ta rất coi trọng mặt
trận, nhưng trước hết phải xây dựng khối liên minh công nông vững mạnh. Liên
minh công nông bao giờ cũng là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất. Đảng
cũng là một tổ chức chính trị trong mặt trận, nhưng mặt trận thừa nhận vai trò
lãnh đạo của Đảng, vì Đảng có đường lối chính trị đúng, gồm những người giác
ngộ chính trị sâu sắc, tự nguyện, hết lòng phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, tiền phong gương mẫu trong mọi phong trào cách mạng
của quần chúng; vì Đảng biết tạo ra sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, biết phối hợp
hành động giữa Đảng và các thành viên khác trong mặt trận. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: Đảng "phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất
và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng
rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và nǎng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng
mới giành được địa vị lãnh đạo". Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong mặt
trận, phải luôn luôn tránh hai khuynh hướng lệch lạc là: cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ
tranh thủ các lực lượng có thể tranh thủ; hoặc đoàn kết một chiều, đoàn kết mà
không đấu tranh đúng mức với những tư tưởng và việc làm sai trái của các thành
viên trong mặt trận. Chính vì đã làm như thế, nên vai trò lãnh đạo của Đảng trong
Mặt trận dân tộc thống nhất được đề cao, nền tảng liên minh công nông được

củng cố vững chắc, đồng thời tính chất rộng rãi của mặt trận được phát huy đầy
đủ. Về phần mình, Đảng không ngừng phấn đấu nâng cao nǎng lực lãnh đạo bằng
sự hoàn thiện đường lối chiến lược, đổi mới chủ trương, sách lược cho phù hợp
với tình hình, nhiệm vụ và cải tiến phong cách, phương thức làm việc trong mặt
trận, chống tác phong quan liêu, mệnh lệnh, thiếu kiên trì giáo dục, thuyết phục.
Kinh nghiệm lịch sử trước đây và hiện nay ở nước ta cũng như ở các nước cho
thấy: phản kích vào những người cộng sản để hòng chia rẽ bộ phận trung kiên
nhất của cách mạng với quần chúng là một thủ đoạn có tính chiến lược của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động. Bài học thành công của Đảng ta về xây
dựng khối đoàn kết thống nhất dân tộc thông qua hình thức tổ chức các mặt trận
là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta từ trước
đến nay. Sự cố kết giữa Đảng ta với Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân
tộc và thống nhất đất nước trước đây, cũng như với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
hiện nay trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa là một sức mạnh không gì có thể phá vỡ nổi. Trong công cuộc đổi mới hiện
nay, Đảng ta không ngừng tự đổi mới, nhằm nâng cao nǎng lực lãnh đạo cách
mạng nước ta trong giai đoạn mới. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày càng mở
rộng, tập hợp mọi thành phần, lực lượng của đất nước, tạo thành sức mạnh tổng
hợp làm nên sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và vǎn minh tiến
lên chủ nghĩa xã hội.
Phát huy truyền thống của các thế hệ ông, cha trong thực hiện các nhiệm
vụ kể trên, Mặt trận Tổ quốc đã:
1. Thực sự trở thành khối đại đoàn kết toàn dân rộng lớn chưa từng có trong lịch
sử, góp phần thực hiện thành công Cương lĩnh và Chiến lược cách mạng của
Đảng.
2. Phát huy được sức mạnh của Liên minh công nông trí trong phát triển kinh tế -
xã hội, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Tham gia phát triển văn hoá, khoa học, coi văn hoá là một động lực to lớn

trong phát triển xã hội và đã thu được nhiều kết quả.
4. Góp phần vào việc thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo do Đảng và Nhà
nước đề ra, được quốc tế đánh giá cao.
5. Tham gia xây dựng và củng cố hệ thống chính trị, từ việc xây dựng quy chế
dân chủ ởø cơ sở đến việc xây dựng một nhà nước pháp quyền với nền quốc
phòng toàn dân vững mạnh.
Nhìn chung, Mặt trận đã góp phần to lớn vào thành công của sự nghiệp đổi mới
của toàn Đảng, toàn dân.
Điều cần quan tâm hiện nay để kế thừa và phát huy truyền thống Mặt trận trong
công cuộc đổi mới một cách có hiệu quả là:
Xác định rõ Mặt trận đối lập , để xây dựng Mặt trận cách mạng mạnh mẽ và
quyết thắng. Phải chăng, Mặt trận đối lập hiện nay chính là những kẻ thù “xâm
lược, chia cắt, đói nghèo, yếu kém, bất công, mất dân chủ, lạc hậu” (tức là, mặt
đối lập với các mục tiêu: “Độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” như Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đề ra), kèm theo
là 4 nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của
Đảng” đã chỉ rõø:
_Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới…
_Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa…
_ Nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu.
_ Nguy cơ “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Nhìn vào thực tế hiện nay thì:
- Nguy cơ tụt hậu về kinh tế luôn có sự cảnh báo;
- Nguy cơ chệch hướng vẫn luôn phải đề phòng;
- Nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu ngày càng trầm trọng.
Nguy cơ diễn biến hoà bình chưa có biểu hiện giảm nhẹ. Sự can thiệp vào nội bộ
nước ta về vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo… của các thế lực thù địch luôn
tiếp diễn.
Ngày nay, chúng ta làm thế nào để phát huy được truyền thống đó trong đấu

tranh bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đặc biệt là khắc phục 4 nguy
cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII đã chỉ ra.
Trước hết, Mặt trận cần góp phần vào việc đổi mới và củng cố hệ thống chính
trị mà Mặt trận là một thành viên quan trọng. Nhiệm vụ hàng đầu của yêu cầu này
là phải “Đổi mới tư duy chính trị”.
Hệ thống chính trị nước ta bao gồm: Hệ thống tổ chức chính trị; hệ thống tư duy
chính trị; hệ thống cơ chế vận hành của tổ chức chính trị. Thực tiễn lịch sử cho
thấy: Trước và sau Đại hội VI của Đảng, hệ thống chính trị vẫn được duy trì như
cũ, nhưng từ Đại hội VI trở đi nhờ đổi mới hệ thống tư duy chính trị và cải tiến
hệ thống cơ cấu vận hành tổ chức chính trị mà đã có được thành công to lớn.
Ngày nay chúng ta đạt được nhiều thắng lợi trong đổi mới, nhưng nhìn về phía
“Mặt trận đối lập” thì những tiền đề dẫn đến nguy cơ khủng hoảng mớiđã nảy
mầm, ta cần phải đề phòng. Phải có tư duy chính trị mới để ngăn ngừa cuộc
khủng hoảng mới không để nó xảy ra. Muốn vậy, Mặt trận phải góp phần tích cực
vào nhiệm vụ này mà quan trọng nhất là góp phần nâng cao trình độ lý luận của
cán bộ, đảng viên để đủ sức nắm bắt được thực tiễn, phát hiện ra chân lý cách
mạng.
Hơn lúc nào hết, hiện nay Mặt trận có tổ chức liên minh công, nông, trí vững
mạnh (có cả trí thức trong nước, ngoài nước, có nhiều “Lao động trí thức” làm
việc trong các công nghệ cao). Họ có thể đóng góp được nhiều về mặt lý luận và
nắm bắt thực tiễn. Vấn đề là ở chỗ biết tổ chức và có cơ chế vận hành của tổ chức
đó như thế nào.
Vừa qua đã xuất hiện các tổ chức như “Liên kết 4 nhà” trong nông nghiệp, hay
tập thể các nhà giáo có tâm huyết góp ý với giáo dục… Trong việc chống tham
nhũng chúng ta có thể có tổ chức của những “Phản biện nhân dân” như kiểu
những Gián nghị đại phu thời Lý, Trần. Thời Lý, ngoài Ngự sử đài còn có các
quan Gián nghị đại phu. Thời Trần đặt thêm chức “Hàm Gián nghị đại phu” tức
không phải là quan chức mà là những người dân thường trung thực, dám đứng ra
góp ý, can ngăn những điều làm sai trái của vua, quan… Thiết nghĩ Mặt trận có
đầy đủ khả năng và điều kiện để làm các việc này, vì Mặt trận lúc nào cũng là

“của dân, do dân, vì dân”: Mặt trận vì dân mà tổ chức. Dân nhờ Mặt trận mà
được phát biểu, được đề đạt ý kiến, nguyện vọng với Đảng và Chính phủ. Đó phải
chăng cũng là một sáng tạo trong phát huy truyền thống Mặt trận của cha, anh mà
chúng ta có thể làm được.

×