Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận: Lý luận về hình thái kinh tế xã hội và vấn đề quá độ lên CNXH ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.5 KB, 14 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch
sử do C. Mác xây dựng nên. Nó có vị trí quan trọng trong triết học Mác. Lý luận đó đã
được thừa nhận lý luận khoa học và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu
lĩnh vực xã hội. Nhờ có lý luận hình thái kinh tế - xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử loài
người, Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã hội, chỉ
rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Lý luận đó giúp chúng ta nghiên cứu một cách
đứng đắn và khoa học sự vận hành của xã hội trong giai đoạn phát triển nhất định cũng
như tiến trình vận động lịch sử chung của xã hội loài người.
Trong thực tiễn, Việt Nam đang tiến hành công cuộc xây dựng đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở bám sát tư tưởng Mác- Lênin và đặc biệt là
việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào công cuộc xây dựng đất nước,
việc vạch ra những mối liên hệ hợp quy luật và đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo thực
hiện thành công công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam thành một đất nước giàu mạnh,
xã hội công bằng văn minh cũng là một nhiệm vụ thực tiễn đang đặt ra.
Chính vì những lý do trên em chọn đề tài tiểu luận là: “Lý luận về hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản của chủ nghĩa Mác và vấn đề quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam”.


Lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản của chủ nghĩa Mác và Vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam

CHƯƠNG 1

NỘI DUNG PHẠM TRÙ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI MÁC - LÊNIN
VÀ QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ TỰ NHIÊN CỦA NÓ
Chúng ta đều biết, trong lịch tư tưởng nhân loại trước Mác đã có không ít cách tiếp
cận, khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội. Xuất phát từ những nhận thức khác
nhau, với những ý tưởng khác nhau mà có sự phân chia lịch sử tiến hoá của xã hội theo
những cách khác nhau. Chúng ta cũng đã quen với khái niệm thời đại đồ đá, thời đại đồ
đồng, thời đại cối xay gió, thời đại máy hơi nước….và gần đây là các nền văn minh:


văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh hậu công nghiệp.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu lý luận và tổng thể quá trình lịch sử, các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật để nghiên cứu lịch sử xã
hội, đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và đã hình thành nên học thuyết "Hình thái
kinh tế xã hội ".
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để
chỉ xã hội ở từng giai đoạn nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã
hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Là biểu hiện tập trung của quan niệm duy vật về lịch sử, học thuyết hình thái kinh
tế- xã hội nghiên cứu lịch sử xã hội trên cơ sở xem xét lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tức toàn bộ các yếu tố cấu trúc thành
bộ mặt của thời đại: Chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật …..Do đó, nó
chỉ ra bản chất của quá trình phát triển của xã hội loài người. Loài người đã trải qua
năm hình thái kinh tế - xã hội theo trật tự từ thấp đến cao đó là: Hình thái kinh tế cộng
sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và ngày nay đang quá
độ lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế - xã hội có tính lịch sử, có sự ra đời phát triển và diệt vong. Chế
độ xã hội lạc hậu sẽ mất đi, chế độ xã hội mới cao hơn sẽ thay thế. Đó là khi phương
thức sản cũ đã trở nên lỗi thời, hoặc khủng hoảng do mâu thuẫn của quan hệ sản xuất
với lực lượng sản xuất quá lớn không thể phù hợp thì phương thức sản xuất này sẽ bị
diệt vong và xuất hiện một phương thức sản xuất mới hoàn thiện hơn, có quan hệ sản
xuất phù hợp với lực lượng sản xuất. Như vậy bản chất của sự thay thế trên là phụ thuộc
vào mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quỳnh Mai

Lớp:

2



Lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản của chủ nghĩa Mác và Vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam

1. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản
xuất, là biểu hiện trình độ trinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử nhất
định. Lịch sử sản xuất là một thể thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (đặc biệt là
công cụ lao động) với người lao động, với kinh nghiệm và kỹ năng nghề nghiệp. Lực
lượng sản xuất đóng vai trò quyết định phương thức sản xuất.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật
chất thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý trao đổi
hoạt động với nhau và quan hệ phân phối sản phẩm. Trong quan hệ sản xuất quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất giữ vị trí quyết định các quan hệ khác. Quan hệ sản xuất do con
người tạo ra, song nó được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào yếu
tố chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất mang tính ổn định tương đối với bản chất
xã hội và tính phương pháp đa dạng trong hình thức biểu hiện.
Giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau
biểu hiện ở chỗ:
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển. Sự biến đổi đó
bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trước
hết là công cụ. Lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ
sản xuất hiện có và xuất hiện đòi hỏi khách quan, phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay
thế bằng quan hệ sản xuất mới. Quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất (phù hợp) nhưng do mâu thuẫn của lực lượng sản xuất (đông) với quan
hệ sản xuất (ổn định tương đối) quan hệ lại trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất (không phù hợp).
Tuy nhiên quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất
thể hiện trong nội dung sự tác động trở lại với lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã
hội của sản xuất, xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành những yếu tố
tồn tại thúc đẩy và kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động trở lại nói

trên của quan hệ sản xuất bao giờ cũng thông qua các quy luật kinh tế - xã hội đặc biệt
là quy luật kinh tế cơ bản.
Sự thống nhất biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất như sự
thống nhất giữa hai mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của sản xuất xã hội. Tác động qua lại
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quỳnh Mai

Lớp:

3


Lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản của chủ nghĩa Mác và Vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam

biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất được Mác - Anghen khái quát
thành quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và biến đổi của quan hệ sản xuất.
Khi không thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất sẽ kìm hãm thậm chí phá hoại sự phát triển của lực lượng sản xuất, mâu thuẫn
của chúng tất yếu sẽ nảy sinh. Biểu hiện của mâu thuẫn này trong xã hội là mâu giữa
các giai cấp đối kháng.
Lịch sử đã chứng minh rằng do sự phát triển của lực lượng sản xuất, loài người đã
bốn lần thay đổi quan hệ sản xuất gắn liền với bốn cuộc cách mạng xã hội, dẫn đến sự
ra đời nối tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội. Vào giai đoạn cuối cùng của xã hội
phong kiến ở các nước Tây Âu lực lượng sản xuất đã mang những yếu tố xã hội hoá gắn
với quan hệ sản xuất phong kiến. Quan hệ sản xuất phong kiến chật hẹp không chứa
đựng được nội dung mới của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất của Tư bản chủ
nghĩa ra đời thay thế quan hệ sản xuất phong kiến. Trong lòng nền sản xuất tư bản, lực
lượng sản xuất phát triển, cùng với sự phân công lao động và tính chất xã hội hoá công
cụ sản xuất đã hình thành lao động chung của người dân có tri thức và trình độ chuyên
môn hoá cao. Sự lớn mạnh này của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với

chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Giải quyết mâu thuẫn đó đòi hỏi phải xoá bỏ
quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa, xác lập quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa. Theo Mác, do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người
thay đổi phát triển sản xuất của mình và do đó thay đổi phát triển sản xuất làm ăn của
mình, loài người thay đổi quan hệ sản xuất của mình.
Phù hợp có thể hiểu là cả ba mặt của quan hệ sản xuất phải thích ứng với tính chất
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phải tạo được điều kiện sản
xuất và kết hợp với tối ưu giữa tư liệu sản xuất và sức lao động, bảo đảm trách nhiệm từ
sản xuất mở rộng. Mở ra sau những điều kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất,
tinh thần với người lao động.
Vậy quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội. Do tác động của quy luật này,
xã hội phát triển kế tiếp nhau từ thấp đến cao của các phương thức sản xuất, hay chính
là của các hình thái kinh tế - xã hội. Quy luật cốt lõi này như sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quỳnh Mai

Lớp:

4


Lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản của chủ nghĩa Mác và Vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam

chảy tiến hoá của lịch sử không chỉ những lĩnh vực kinh tế mà cả các lĩnh vực ngoài
kinh tế, phi kinh tế.
2. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế tương
ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng, đó là những quan điểm tư tưởng chính
trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học và các thể chế tương ứng như

Nhà nước Đảng phái, giáo hội và các đoàn thể quần chúng. Kiến trúc thượng tầng được
hình thành trên tổng hợp toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của
một chế độ xã hội nhất định người ta gọi đó là cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng bao gồm những quan hệ sản xuất đang giữ địa vị thống trị nền kinh
tế nhóm những quan hệ sản xuất tàn dư và những quan hệ sản xuất mới là quan hệ mầm
mống của xã hội.
Bất kỳ một cơ sở hạ tầng nào cũng bao gồm những thành phần kinh tế khác nhau,
mỗi thành phần kinh tế này đều gắn liền với một kiểu quan hệ sản xuất trong đó quan
hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các thành phần kinh tế khác.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, giai cấp này nảy sinh từ cơ sở hạ tầng, từ mâu thuẫn
và xung đột kinh tế. Đó chính là cơ sở nảy sinh giai cấp đối kháng trong kiến trúc
thượng tầng, giai cấp thống trị về kinh tế sẽ thống trị và thiết lập cả sự thống trị về mặt
tư tưởng đối với xã hội, trong đó hệ tư tưởng chính trị và bộ máy quản lý nhà nước có
vị trí quan trọng nhất.
a. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng được thể hiện ở một số
mặt:
- Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng đó (giai cấp nào giữ vị trí thống trị về
mặt kinh tế thì đồng thời cũng là giai cấp thống trị xã hội về tất cả các lĩnh vực khác).
- Quan hệ sản xuất nào thống trị cũng sẽ tạo ra kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn giữa các tập đoàn trong xã hội và đời sống tinh thần của
họ đều xuất phát trực tiếp và gián tiếp từ mâu thuẫn kinh tế, từ những quan hệ đối
kháng trong cơ sở hạ tầng.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quỳnh Mai

Lớp:

5



Lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản của chủ nghĩa Mác và Vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam

- Cơ sở hạ tầng thay đổi thì nhất định sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự thay đổi về
kiến trúc thượng tầng. Quá trình đó diễn ra ngay trong những hình thái kinh tế xã hội
cũng như khi chuyển tiếp từ hình thái này sang hình thái kinh tế xã hội khác. Trong xã
hội có giai cấp mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng được biểu hiện là mâu thuẫn giữa giai cấp
thống trị và giai cấp bị trị.
Khi hạ tầng cũ bị xoá bỏ thì kiến trúc thượng tầng cũ cũng mất đi và thay thế vào
đó là kiến trúc thượng tầng mới được hình thành từng bước thích ứng với cơ sở hạ tầng
mới. Sự thống trị của giai cấp cũ đối với xã hội cũ bị xoá bỏ, thay vào đó bằng hệ tư
tưởng thống trị khác và các thể chế tương ứng của giai cấp thống trị mới. Đương nhiên
không phải "Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì lập tức sẽ dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc
thượng tầng". Trong quá trình hình thành và phát triển của kiến thượng tầng mới, nhiều
yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn tại gắn liền với cơ sở kinh tế đã nảy sinh ra
nó. Vì vậy, giai cấp cầm quyền cần phải biết lựa chọn một số bộ phận hợp lý để sử dụng
nó xây dựng xã hội mới.
b. Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng với
cơ sở hạ tầng.
Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phụ thuộc một chiều vào cơ sở hạ
tầng mà trong quá trình phát triển, chúng có tính độc lập tương đối trong quá trình vận
động phát triển và tác động mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng.
Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng là đấu tranh thủ tiêu cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, xây dựng bảo vệ củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng
mới. Trong xã hội có giai cấp nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với cơ sở
hạ tầng, các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng
nhưng đều bị nhà nước pháp luật chi phối.
Trong điều kiện ngày nay vai trò của kiến trúc thượng tầng không giảm đi mà
ngược lại tăng lên và tác động mạnh đến tiến trình lịch sử. Trái lại kiến trúc thượng tầng
xã hội chủ nghĩa bảo vệ cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng xã hội mới,

chính mục đích đó quyết định tính tích cực càng tăng của kiến trúc thượng tầng của chủ
nghĩa xã hội.
Tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng được thể hiện trong hai
trường hợp trái ngược nhau nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với quan hệ kinh tế tiến
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quỳnh Mai

Lớp:

6


Lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản của chủ nghĩa Mác và Vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam

bộ thì sẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội. Ngược lại, nếu kiến trúc thượng tầng là cơ sở của
những quan hệ kinh tế lỗi thời thì sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội, những sự tác
động kìm hãm đó chỉ là tạm thời sớm muộn cũng bị cách mạng khắc phục về cơ bản,
bản chất giữa cơ sở hạ tầng và cơ sở thượng tầng chính là bản chất giữa kinh tế và chính
trị trong đó kinh tế đóng vai trò quyết định còn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh
tế và có tác dụng mạnh mẽ trở lại. Cần tránh khuynh hướng quá thổi phồng hoặc hạ
thấp vai trò của kiến trúc thượng tầng, nếu tuyệt đối hóa vai trò của kiến thượng tầng thì
sẽ rơi vào tả khuynh còn ngược lại sẽ rơi vào hữu khuynh.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quỳnh Mai

Lớp:

7


Lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản của chủ nghĩa Mác và Vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam


CHƯƠNG 2

SỰ VẬN DỤNG HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
VÀO VẤN ĐỀ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Điều kiện để bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, phát triển theo
con đường chủ nghĩa xã hội.
Loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế. Mỗi hình thái sau tiến bộ hơn, văn minh
hơn hình thái trước.
Đầu tiên là hình thái kinh tế tự nhiên “cộng sản nguyên thủy”, con người chỉ biết
săn bắn hái lượm, ăn thức ăn sống, cuộc sống của họ phụ thuộc hoàn toàn vào thiên
nhiên. Có thể nói đây là thời kỳ sơ khai, một thời kỳ mông muội của loài người. Sau đó
đến hình thái kinh tế xã hội “chiếm hữu nô lệ”, con người đã văn minh hơn họ không
còn ăn tươi sống và đã biết lao động tạo ra của cải; xã hội xuất hiện chế độ tư hữu, bắt
đầu phân chia thành kẻ giầu người nghèo. Hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ, quan
hệ giữa hai giai cấp đó là quan hệ bóc lột hoàn toàn của cải vật chất và con người. Nô lệ
biến thành công cụ lao động. Vấn đề giai cấp khi lên đến xã hội “phong kiến” bản chất
vẫn là quan hệ bóc lột, nhưng sự bóc lột thể hiện qua sự cống nạp. Người nông dân, tá
điền phải làm thuê và nộp thuế cho quan lại, địa chủ, song họ có một chút quyền lợi là
được tự do.
Hình thái kinh tế xã hội “tư bản chủ nghĩa” ra đời đưa loài người lên nấc thang cao
hơn của nền văn minh. Xã hội đã phong phú hơn về giai cấp. Giai cấp thống trị là giai
cấp cơ bản. Thủ đoạn bóc lột của chúng tinh vi hơn rất nhiều lần so với sự bóc lột trước
đó trong các xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Người công nhân làm thuê bị bóc
lột sức lao động qua giá trị thặng dư, sự làm việc quá sức ….Mặc dù tư bản xã hội chủ
nghĩa tạo ra một lượng của cải vật chất rất lớn cho xã hội, nhưng bản chất bóc lột cùng
những mâu thuẫn khác nhau là không thể điều hoà. Phần đông con người trong xã hội
tư bản chủ nghĩa đều bị mất quyền lợi bình đẳng. Cả ba chế độ nô lệ, phong kiến, tư bản
chủ nghĩa có những đặc điểm riêng nhưng nó đều là chế độ có những mâu thuẫn đối
kháng không thể điều hòa giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, dựa trên sự tư hữu

về tư liệu sản xuất. Giai cấp bóc lột là giai cấp thống trị, mọi hoạt động về mặt kinh tế
chính trị xã hội đều phục vụ cho quyền lợi của chính họ.
Một hình thái kinh tế xã hội tồn tại được thì nó phải có những mặt tốt nhất định
của nó. Chúng ta cũng không thể phủ nhận những thành quả mà các hình thái kinh tế xã
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quỳnh Mai

Lớp:

8


Lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản của chủ nghĩa Mác và Vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam

hội nói trên đã đạt được. Xã hội cộng sản nguyên thuỷ là chế độ xã hội đầu tiên đặt nền
móng cho sự phát triển của loài người. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ giai cấp thống trị
bắt đầu tích luỹ của cải cho xã hội, quan trọng nhất là nó đưa con người ra khỏi thời kỳ
mông muội hoang dã.
Hình thái kinh tế xã hội là chế độ xã hội bước đầu vừa phát huy thừa kế những
thành quả của chủ nghĩa tư bản, đồng thời khắc phục những mâu thuẫn những hạn chế
của tư bản chủ nghĩa. Một xã hội mà quyền lực nằm trong tay giai cấp công nhân và
nhân dân lao động - một tầng lớp đông đảo của xã hội. Mọi hoạt động kinh tế - văn hoá
- chính trị phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội; không còn tình trạng bóc lột, mọi
người đều bình đẳng, sinh hoạt lao động dưới sự quản lý của Nhà nước thông qua pháp
luật thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ tập chung dân chủ công bằng
xã hội. Quan hệ sản xuất được xây dựng trên cơ sở của lực lượng sản xuất và trình độ
phát triển cao cơ sở hạ tầng phù hợp với kiến trúc thượng tầng. Đây là hình thái kinh tế
xã hội ưu việt một đỉnh cao của văn minh loài người.
* Quan điểm của C.Mác, Ăngghen, Lênin về vấn đề bỏ qua tư bản chủ nghĩa đi
lên xã hội chủ nghĩa:
Sau khi xây dựng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã vận dụng học

thuyết ấy vào phân tích xã hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã
hội đó, và đi đến dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, hình thái
cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Ông đã từng khẳng định:
“Chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực nhằm thủ tiêu trạng thái hiện tồn”.
Theo Ăngghen, các nước lạc hậu, tiền tư bản chủ nghĩa đều có thể đi lên chủ nghĩa
xã bằng những con đường phát triển bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Muốn làm được điều đó
thì cách mạng vô sản phải thành công, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản đã tiến hành cách mạng giành được chính quyền từ tay giai cấp thống trị và
các nước đó đã giành được sự giúp đỡ từ các nước phương Tây. Quan điểm này đã được
trình bày rõ trong tác phẩm: “Bàn về xã hội ở Nga”.
Hơn thế nữa, lý luận của chủ nghĩa Mác về hình thái kinh tế - xã hội đã khẳng
định: các quốc gia, dân tộc có thể phát triển tuần tự theo những bước quá độ của các
hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ cộng sản nguyên thủy đến cộng sản chủ nghĩa,

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quỳnh Mai

Lớp:

9


Lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản của chủ nghĩa Mác và Vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam

song căn cứ vào điều kiện lịch sự cụ thể mà các quốc gia có thể bỏ qua một hay một vài
hình thái kinh tế - xã hội.
Còn theo Lênin, có hai hình thức quá độ; quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp. Lênin cho rằng những nước mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển thì có thể đi lên chủ nghĩa
xã hội bằng quá độ trực tiếp. Ngược lại, những nước lạc hậu có thể đi lên chủ nghĩa xã
hội bằng quá độ gián tiếp. Thực chất đó là sự bỏ qua tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên con
đường xã hội chủ nghĩa.
2. Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ

nghĩa của Việt Nam là một tất yếu lịch sử
Nước ta là nước lạc hậu về kinh tế lại bị đế quốc thực dân thống trị một thời gian
dài, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo và lạc hậu.
Đảng ta khẳng định sau khi Việt Nam tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản sự lựa chọn trên hai căn cứ
sau đây:
Một là, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng được nhân dân lao động thoát khỏi
áp bức, bóc lột bất công đem lại cuộc sống ấm lo hạnh phúc cho nhân dân.
Hai là, thắng lợi của cuộc cách mạng tại Nga năm 1971 đã mở ra một thời đại mới,
tạo khả năng thực hiện cho các dân tộc lạc hậu tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội.
Sự lựa chọn ấy không mâu thuẫn với quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã
hội chủ nghĩa, không mâu thuẫn với hình thái kinh tế xã hội củ chủ nghĩa Mác Lê-nin.
Trong điều kiện cụ thể sự lựa chọn ấy chính là sự lựa chọn con đường rút ngắn bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa.
Con đường chủ nghĩa xã hội cho phép chúng ta có thể phát triển nhanh lực lượng
sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội phát
triển xã hội theo chiều hướng tiến bộ vừa có thể tránh cho xã hội và nhân dân lao động
phải trả giá cho các vấn đề của xã hội tư bản mà trước hết là chế độ người bóc lột
người, là quan hệ bất bình đẳng người với người.
Từ tất cả những lý do trên, nước ta đã lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện hết sức khó khăn, thử thách. Dân số trên 80% sống bằng nông nghiệp, cơ sở vật
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quỳnh Mai

Lớp:

10


Lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản của chủ nghĩa Mác và Vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam


chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội hầu như không có. Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội không tách rời nhau. Việc Đảng ta luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội là phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử, xu hướng của thời đại và điều kiện cụ
thể của đất nước.
Xã hội mà nhân dân ta quyết tâm xây dựng là một xã hội của dân, do dân, vì dân,
có một nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất tiến bộ và chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất, có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng,
hưởng cuộc sống hạnh phúc, phát triển về mọi mặt, các dân tộc anh em chung sống hòa
bình, đoàn kết và hợp tác, hữu nghị với nhân dân các nước trên thế giới. Bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa nghĩa là bỏ qua quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng của tư bản
chủ nghĩa nhưng tiếp thu những thành tựu đạt được dưới chế độ tư bản, nhất là khoa
học công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất và nền kinh tế hiện đại.
3. Nhiệm vụ trong thời kỳ quá độ
Hiện nay, nước ta vẫn đang ở trong giai đoạn quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Do vậy,
điều kiện và hoàn cảnh đó đã đặt ra cho chúng ta những nhiệm vụ hết sức khó khăn.
Thứ nhất, một nhiệm vụ chiến lược và lâu dài của đất nước là xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình xây dựng
xã hội ở nước ta “Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Hiện nay, tất cả các nước đều phải
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường. Nhưng trong mỗi chế độ khác nhau thì
nền kinh tế thị trường được sử dụng với những mục đích khác nhau. Ở các nước chủ
nghĩa tư bản, đó là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Còn ở nước ta, đó là nền
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa
phù hợp với xu thế phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển
của lực lượng sản xuất ở nước ta, với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Điều này đã được Đảng ta

khẳng định: “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quỳnh Mai

Lớp:

11


Lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản của chủ nghĩa Mác và Vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam

triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”.
Thứ hai, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao
động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của nước ta là một nền đại công nghiệp.
Do vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta nhằm xây dựng và thiết lập cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội. Đó là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã chỉ rõ: Con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có tuần tự
vừa có nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt
trình độ khoa học công nghệ tiên tiến, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy
nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Tóm lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ thực sự thành công khi
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ ba, chúng ta cần kết hợp chặt chẽ giữa phát triến kinh tế với chính trị và các

mặt khác của đời sống xã hội. Gắn liền với phát triến kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò
của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đi đôi với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân
dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội. thực hiện công bằng xã hội tiến tới
thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quỳnh Mai

Lớp:

12


Lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản của chủ nghĩa Mác và Vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam

KẾT LUẬN
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một học thuyết khoa học. Trong điều kiện
hiện nay nó vẫn còn giữ nguyên giá trị. Nó đưa ra một phương pháp hữu hiệu để phân
tích các hiện tượng trong cuộc sống xã hội để từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp
đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Những thành tựu mà công cuộc đổi mới mang lại đã chứng minh cho sự đúng đắn
của quy luật phát triển trong việc vận dụng hình thái kinh tế - xã hội. Xây dựng chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tạo nên sự biến đổi về chất của xã hội
trong tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn và lâu dài. Do vậy phải trải qua một thời

kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội.
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là
một tất yếu khách quan và chính nó đã đề ra những hướng đi đúng đắn. Từ đó chỉ rõ
những giải pháp đưa đất nước ta phát triển lên một tầm cao mới.
Lý luận hình thái kinh tế xã hội cũng là phương pháp luận khoa học để ta phân tích
công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, luận chứng được tất yếu của định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Phân tích đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế
xã hội và chỉ ra được: Đổi mới theo định hướng của xã hội vừa phù hợp với xu hướng
phát triển thời đại vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Như vậy có thể khẳng định rằng: Lý luận hình thái kinh tế xã hội vẫn giữ nguyên
giá trị khoa học và đúng thời đại của nó. Nó là phương pháp luận thực sự khoa học để
phân tích thời đại cũng như của công cuộc xây dựng đất nước hiện đại ở Việt Nam.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quỳnh Mai

Lớp:

13


Lý luận về Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản của chủ nghĩa Mác và Vấn đề quá độ lên CNXH ở Việt Nam

* Danh mục tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia
2. C.Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, NXB Chính trị quốc gia
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác Lênin, NXB. CTQG
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB.CTQG
5.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Quỳnh Mai


Lớp:

14



×