Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Thực trạng công tác quản lý thu BHXH khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại tỉnh Điện Biên giai đoạn 2016 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.68 KB, 33 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội (BHXH) xuất hiện trên thế giới từ khá sớm và được thừa
nhận là một chính sách xã hội rất quan trọng, không thể thiếu các nước. BHXH có
vai trò quan trọng như thế bởi lẽ đối tượng và phạm vi bao phủ của nó vô cùng
rộng lớn, tác động đến hầu hết mọi thành viên trong xã hội. Đồng thời BHXH là
nhân tố đảm bảo sự ổn định chính trị - xã hội trong nền kinh tế thị trường.
Ở Việt Nam, BHXH cũng được đảng và nhà nước quan tâm từ giai đoạn đầu
thành lập Đảng. Trải qua nhiều năm, chính sách BHXH ở nước ta không ngừng
được bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với nền kinh tế thị trường và xu hướng chung
của toàn Thế Giới. Bên cạnh đó, BHXH còn mang bản chất nhân văn sâu sắc vì
cuộc sống an lành của con người, góp phần ổn định đời sống sản xuất cho người
tham gia Bảo hiểm. Trong hoạt động BHXH thì công tác quản lý thu có vai trò hết
sức quan trọng để duy trì hoạt động BHXH nói chung. Nếu quản lý thu BHXH bắt
buộc tốt sẽ tránh thất thoát cho BHXH, đảm bảo quỹ tăng trưởng, tạo sự công bằng
cho người tham gia và góp phần củng cố hệ thống an sinh xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thì khối DNNQD đang ngày càng phát
triển về số lượng doanh nghiệp và số lao động. Vì vậy, các DNNQD trở thành đối
tượng chiếm tỷ trọng lớn và là khối có tiềm năng thu tốt nhất. Sau quá trình tìm hiểu
và học tập, em đã chọn lựa và viết đề tài tiểu luận của mình là “ Thực trạng công
tác quản lý thu BHXH khối DNNQD tại tỉnh Điện Biên giai đoạn 2016 - 2018”
nhằm hiểu rõ hơn về công tác quản lý thu BHXH khối DNNQD tại tỉnh Điện Biên.
Qua đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý thu BHXH khối DNNQD cho
BHXH tỉnh Điện Biên nhằm đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời số tiền BHXH
mà các DNNQD và người lao động trong các DNNQD trên địa bàn tỉnh phải nộp.
Nội dung bài tiểu luận của em gồm 3 phần như sau:
Chương 1: Lý luận cơ bản về quản lý thu BHXH khối DNNQD.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thu BHXH khối DNNQD tại tỉnh
Điện Biên giai đoạn 2016 – 2018.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH
khối DNNQD tại tỉnh Điện Biên.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Phạm Đỗ Dũng đã tận tình hướng dẫn và


giúp đỡ để em có thể hoàn thành được đề tài tiểu luận này. Trong quá trình học tập,
nghiên cứu đề tài, do còn nhiều hạn chế về thời gian và trình độ, sự hiểu biết về
1


BHXH của em còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận
được sự đóng góp và chỉ bảo của thầy để bài tiểu luận sau em làm được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy!

2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHXH
DNNQD
BHYT
BHTN

Bảo hiểm xã hội
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Bảo hiểm y tế
Bảo hiểm thất nghiệp

3


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1: Cơ cấu lao động thuộc DNNQD tham gia BHXH

giai đoạn 2016 – 2018…………………………………………………………....16
Bảng 2.2: Cơ cấu đơn vị DNNQD tham gia BHXH giai đoạn
2016 – 2018…………………………………………………………………….…16
Bảng 2.3: Mức tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH của các DNNQD
tại BHXH tỉnh Điện Biên giai đoạn 2016-2018.…………………………….…...17
Bảng 2.4: Tình hình biến động mức lương tối thiểu của tỉnh Điện Biên
giai đoạn 2016 – 2018………………………………………………………….…17
Bảng 2.5: Kết quả thực hiện kế hoạch thu BHXH khối doanh nghiệp
NQD tại BHXH tỉnh Điện Biên giai đoạn 2016 –2018…………………….……..18

Bảng 2.6: Tình hình nợ đọng BHXH khối doanh nghiệp NQD tại
BHXH tỉnh Điện Biên giai đoạn 2016 – 2018……………………………………19

4


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ THU BHXH KHỐI
DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH.
1.1. Tổng quan về khối DNNQD tại Việt Nam.
DNNQD là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh, hoạt động theo Luật doanh
nghiệp, không có vốn đầu tư nước ngoài, không có vốn nhà nước hoặc phần vốn
nhà nước nhỏ hơn 50%. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay gồm: Công ty
cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và
hợp tác xã. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là hình thức doanh nghiệp không
thuộc sở hữu nhà nước, trừ khối hợp tác xã; toàn bộ tài sản, lợi nhuận đều thuộc sở
hữu tư nhân hay tập thể người lao động, chủ lao động doanh nghiệp hay chủ cơ sở
sản xuất kinh doanh chịu trách nhiệm toàn bộ về hoạt động sản xuất kinh doanh và
toàn quyền quyết định phân phối lợi nhuận sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp
thuế mà không chịu sự chi phối nào từ các quyết định của Nhà nước hay cơ quan
quản lý.

1.2: Lý luận cơ bản về công tác quản lý thu BHXH khối DNNQD:
1.2.1: Khái niệm về quản lý thu BHXH:
Theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 được Quốc hội thông qua ngày
29/6/2006 đã xác định: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản , tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng
vào quỹ BHXH”.
Qua nghiên cứu tài liệu và một số đề tài nghiên cứu khoa học, quản lý thu
BHXH được hiểu là sự tác động có tổ chức, có tính pháp lý để điều chỉnh các hoạt
động thu BHXH. Sự tác động đó được thực hiện bằng hệ thống pháp luật của Nhà
nước và bằng các biện pháp hành chính, giáo dục, kinh tế của các cơ quan chức
năng nhằm đạt được mục tiêu thu đúng đối tượng, đủ số lượng và đảm bảo thời
gian quy định.
Về khái niệm thu BHXH khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh: “Thu BHXH
khối DNNQD là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để bắt buộc các doanh
nghiệp khối ngoài quốc doanh tham gia BHXH theo quy định. Trên cơ sở đó nhằm
tạo lập một quỹ tiền tệ tập trung dựa trên sự đóng góp của các bên nhằm mục đích
chi trả các chế độ và hoạt động tổ chức sự nghiệp”.
1.2.2: Vai trò của quản lý thu BHXH khối DNNQD:
Thu BHXH là một hoạt động rất quan trọng đối với quỹ BHXH nói riêng và
hoạt động của hệ thống BHXH nói chung. Thu BHXH là nhân tố có tính chất quyết
5


định đến sự tồn tại, phát triển của BHXH của bất kỳ một quốc gia nào. Vai trò quan
trọng của thu BHXH thể hiện trong những điểm sau :
- Công tác thu là hoạt động thường xuyên và đa dạng của ngành BHXH
nhằm bảo đảm nguồn quỹ độc lập, công tác thu được thực hiện ở 2 cấp: cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và cấp quận, huyện, thị xã. Công tác thu được
thực hiện thường xuyên, hằng tháng có vai trò đảm bảo cho quỹ BHXH được độc

lập, thống nhất từ địa phương lên trung ương.
- Công tác thu là một điều kiện cần và đủ cùng tạo lập để thực hiện tốt chính
sách BHXH. Công tác thu là bước khởi đầu cho hoạt động quỹ BHXH, có thu mới
có chi chế độ và chi cho hoạt động sự nghiệp BHXH diễn ra dễ dàng, không có
công tác thu thì không thể thực hiện được các chính sách BHXH.
- Công tác thu vừa đảm bảo cho quỹ BHXH được tập trung về một mối, vừa
đóng vai trò như một công cụ thanh kiểm tra số lượng người tham gia BHXH ở
từng khối lao động, cơ quan, đơn vị ở từng địa phương hoặc trên phạm vi toàn
quốc. Thực hiện được công tác thu từ đó rà soát được số lượng người tham gia,
kiểm tra được nhiều nội dung khác nhau như tiền lương, tiền công, sự biến động
các nội dung đó. Từ đó phát hiện ra các sai phạm và xử lý kịp thời, nghiêm minh.
- Hoạt động của công tác thu BHXH hiện tại ảnh hưởng trực tiếp đến công
tác chi và quá trình thực hiện chính sách BHXH trong tương lai. Nguyên tắc hoạt
động của BHXH là có đóng có hưởng, vì thế thu là một phần quan trọng trong hoạt
động BHXH. Có thu mới có nguồn để chi trả chế độ BHXH, BHXH mới có thể
phát huy được vai trò của mình đối với người lao động khi họ gặp phải những rủi
ro. Có thu thì mới có nguồn để duy trì hoạt động của cả hệ thống BHXH.
- Công tác thu còn là một điều kiện để duy trì ổn định mức đóng cho người
lao động và người sử dụng lao động. Thu BHXH được làm tốt, ít đối tượng trốn
đóng thì sẽ đảm bảo nguồn quỹ, thu đủ chi. Như vậy mức đóng của người lao động
và người sử dụng lao động sẽ không phải tăng lên.
- Công tác thu có vai trò rất quan trọng đối với quỹ BHXH. Quỹ BHXH được
hình thành trên cơ sở đóng góp của các đối tượng tham gia. Nếu công tác thu không
được thực hiện tốt thì sẽ không đảm bảo được nguồn quỹ, thu không đủ chi. Quỹ
BHXH cần đảm bảo đủ lớn và đảm bảo tính bền vững để cân đối trong thời gian dài
từ 30 - 40 năm, tính cụ thể với một người nghĩa là từ khi tham gia đến khi hưởng và
chết, nếu công tác thu không được thực hiện tốt thì nguy cơ vỡ quỹ có thể xảy ra.
- Việc thực hiện tốt công tác thu sẽ tạo điều kiện cho Quỹ BHXH tăng trưởng.
Số thu nhiều làm cho số tiền nhàn rỗi trong quỹ tăng lên. Số tiền này có thể được
6



đem đi đầu tư, sinh lãi làm tăng trưởng quỹ BHXH, đảm bảo sự tồn tại bền vững của
quỹ.
1.2.3: Nội dung quản lý thu BHXH khối DNNQD:
1.2.3.1: Quản lý đối tượng tham gia:
Quản lý các đơn vị sử dụng lao động thuộc diện tham gia BHXH, BHTN,
BHYT theo địa bàn hành chính cấp huyện, tỉnh kể cả những người buôn bán nhỏ,
hộ sản xuất kinh doanh trong các làng nghề truyền thống có thuê mướn và sử dụng
từ một lao động trở lên. Đây là việc làm rất cần thiết. Trên cơ sở nắm được các đơn
vị tham gia BHXH, BHTN, BHYT, theo địa bàn hành chính, BHXH Việt Nam mới
tiến hành các biện pháp nghiệp vụ tiếp theo của công tác thu BHXH, BHTN,
BHYT.
Quản lý danh sách lao động từng đơn vị tham gia BHXH, BHTN, BHYT.
Danh sách này do đơn vị sử dụng lao động lập theo mẫu quy định của BHXH Việt
Nam. Danh sách người tham gia BHXH, BHTN, BHYT được thành lập hàng năm
theo số liệu tăng giảm đối tượng tham gia trong đơn vị.
1.2.3.2: Quản lý tiền lương bình quân làm căn cứ đóng BHXH:
Quản lý mức tiền lương (lương chính, các loại phụ cấp,...) hoặc tiền công
theo hợp đồng lao động hoặc mức trợ cấp của từng người tham gia BHXH,
BHTN,BHYT làm căn cứ đóng BHXH, BHTN, BHYT. Bảng kê khai mức lương
hoặc tiền công, trợ cấp làm căn cứ đóng BHXH, BHTN, BHYT do đơn vị lao động
theo mẫu quy định của BHXH Việt Nam, lâp hàng năm theo mức tăng giảm tiền
lương, tiền công, trợ cấp của từng người.
Quản lý tổng quỹ tiền lương, tiền công của số người tham gia BHXH,
BHTN, BHYT. Bảng kê khai tổng quỹ lương do đơn vị lập theo mẫu của BHXH
Việt Nam, lập hàng năm theo sự biến động của số người tham gia BHXH, BHTN,
BHYT và mức tiền lương tiền công hoặc mức trợ cấp thay đổi từng người.
1.2.3.3: Quản lý quy trình tổ chức thu:
a, Phân cấp thu BHXH:

- Bảo hiểm xã hội cấp huyện thu BHXH của các đơn vị có trụ sở và tài khoản
tại địa bàn huyện bao gồm:
+ Các đơn vị do huyện trực tiếp quản lý;
+ Các đơn vị ngoài quốc doanh sử dụng từ 10 lao động trở lên;
7


+ Các xã, phường, thị trấn;
+ Các đơn vị khác do Bảo hiểm xã hội tỉnh giao nhiệm vụ thu Bảo hiểm xã
hội.
- Các đơn vị sử dụng lao động có các đơn vị trực thuộc đóng trụ sở và hoạt động
trên địa bàn nhiều tỉnh thì nộp tại cơ quan BHXH nơi đóng trụ sở chính, nếu muốn
các đơn vị trực thuộc đóng BHXH tại nơi đơn vị trực thuộc đóng trụ sở phải có văn
bản đề nghị và ý kiến của các cơ quan BHXH cấp tỉnh nơi đóng trụ sở.
b, Lập và xét duyệt kế hoạch thu hàng năm:
Đối với đơn vị sử dụng lao động: Hàng năm, đơn vị sử dụng lao động có đối
chiếu số người lao động, quỹ tiền lương tiền công và mức nộp BHXH thực tế cả
tháng với danh sách NLĐ, quỹ tiền lương tiền công trích nộp BHXH tại thời điểm
đó với cơ quan BHXH trực tiếp quản lý trước ngày 10 tháng 10 hàng năm.
Đối với cơ quan Bảo hiểm xã hội cấp huyện: Hằng năm Bảo hiểm xã hội
huyện căn cứ tình hình thực hiện năm trước và khả năng mở rộng số người lao
động tham gia Bảo hiểm xã hội trên địa bàn huyện, lập 02 bản “Kế hoạch thu Bảo
hiểm xã hội năm sau (Mẫu số 13 – TBH), gửi 01 bản đến Bảo hiểm xã hội tỉnh
trước ngày 05 tháng 11 hằng năm.
c, Quản lý tiền thu BHXH:
Bảo hiểm xã hội huyện không được sử dụng tiền thu Bảo hiểm xã hội vào
bất kỳ mục đích gì (trường hợp đặc biệt phải được tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội
Việt Nam chấp nhận bằng văn bản).
Hằng quý, Bảo hiểm xã hội huyện có trách nhiệm quyết toán số tiền 2% do
doanh nghiệp giữ lại, xác định số tiền chênh lệch thừa, thiếu, đồng thời thông báo

quyết toán cho phòng thu hoặc bộ phận thu để thực hiện thu kịp thời số tiền người
sử dụng chưa chi hết vào tháng đầu của quý sau.
d, Thông tin báo cáo:
Bảo hiểm xã hội cấp huyện: Thực hiện chế độ báo cáo tình hình thu Bảo
hiểm xã hội bắt buộc (Mẫu 09,10,11 – TBH) định kì tháng, quý, năm như sau: Báo
cáo tháng trước ngày 22 hàng tháng; báo cáo quý trước ngày 20 tháng đầu quý sau;
báo năm trước ngày 25 tháng 01 năm sau.
e, Xử lý hồ sơ:

8


Bảo hiểm xã hội cấp huyện cập nhật thông tin, dữ liệu của người tham gia
Bảo hiểm xã hội bắt buộc để phục vụ kịp thời cho công tác nghiệp vụ và quản lý.
1.3: Các yếu tố ảnh hưởng tới công tác quản lý thu BHXH khối doanh nghiệp
NQD:
1.3.1: Cơ cấu dân số:
Người lao động là đối tượng tham gia BHXH, đang trong độ tuổi lao động,
trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Như vậy, nếu một quốc gia có dân số già
tức là số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ thấp trong tổng dân số sẽ dẫn đến
việc mất cân đối quỹ BHXH. Vì số người tham gia đóng góp vào quỹ sẽ ngày càng ít
trong khi số người hưởng các chế độ BHXH đặc biệt là hưu trí sẽ ngày càng tăng.
Như vậy, khi dân số già đi, số thu BHXH sẽ ngày càng giảm đi làm ảnh hưởng đến
chất lượng của công tác thu. Ở Việt Nam hiện nay đang có cơ cấu dân số vàng ( số
người trong độ tuổi lao động chiếm trên 40% dân số). Do đó số người tham gia đang
lớn hơn rất nhiều so với số người hưởng. Và nguyên tắc hưởng của chúng ta là mức
đóng phụ thuộc vào mức hưởng. Tuy nhiên trong thời gian tới chúng ta cần tính đến
việc cơ cấu dân số ngày càng già đi. Do vậy công tác thu cần có những thay đổi để
phù hợp với tình hình tránh được tình trạng vỡ quỹ.
Đối với công tác thu BHXH của DNNQD, cơ cấu dân số cũng có những tác

động rất lớn. Số người trong độ tuổi lao động lớn, nguồn lao động dồi dào, cung
nhiều hơn cầu thì giá cả lao động sẽ thấp. Khi đó, mức tiền lương tiền công phải trả
của doanh nghiệp sẽ thấp làm cho số tiền đóng BHXH cũng thấp, ý thức tham gia
BHXH của họ sẽ tốt hơn. Nhưng khi cơ cấu dân số già, tức là số người trong độ
tuổi lao động ít, nguồn lao động khan hiếm, cung ít hơn cầu thì giá cả lao động
hiển nhiên sẽ cao hơn. Điều này làm cho chi phí về tiền lương, tiền công sẽ lớn
hơn và số tiền tham gia BHXH cũng sẽ cao hơn. Doanh nghiệp thì luôn cố gắng
giảm thiểu những chi phí làm giảm lợi nhuận. Vì vậy, họ sẽ tìm cách trốn đóng, nợ,
chậm đóng BHXH làm cho công tác thu BHXH gặp rất nhiều khó khăn.
1.3.2: Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế:
Tốc độ tăng trường của nền kinh tế một quốc gia phản ánh khả năng tiết
kiệm, tiêu dùng, đầu tư của Nhà nước. Vì thế, nếu một quốc gia có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao và ổn định thì chắc chắn đời sống nhân dân sẽ được nâng cao
dần lên, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng sẽ gặp nhiều
thuận lợi và các doanh nghiệp sẵn sàng tham gia BHXH cho người lao động.
Bên cạnh đó, tốc độ phát triển kinh tế cao và bền vững phản ánh nhiều NLĐ
có thu nhập cao trong quá trình lao động. Đây là điều kiện để NLĐ có cơ hội tham
9


gia BHXH. Ngoài ra, khi đời sống được nâng cao thì nhận thức của NLĐ cũng
được nâng lên. Ngoài việc đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình mình, NLĐ
cũng đồng thời có tâm lý muốn dự phòng, chuẩn bị thêm một khoản trợ giúp để
chủ động đối phó những rủi ro có thể xảy ra hoặc chắc chắn xảy ra như: ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, thất nghiệp khiến họ
bị mất hoặc giảm thu nhập, những yếu tố góp phần làm tăng nguồn thu của BHXH.
1.3.3: Chính sách tiền lương:
Tiền lương trong khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh không sử dụng
theo thang bảng lương Nhà nước, tiền lương được trả dựa trên sự thỏa thuận giữa
NLĐ và NSDLĐ. Rất nhiều chủ sử dụng lao động trong các doanh nghiệp thuộc

khối ngoài quốc doanh đặt lợi nhuận lên hàng đầu do đó dẫn đến rất nhiều thiệt
thòi cho NLĐ trong vấn đề tiền lương. Nhà nước cần có sự can thiệp để giảm bớt
những bất cập về tiền lương mà NSDLĐ trả cho NLĐ mà khiến cho không đủ đảm
bảo đời sống, sinh hoạt tối thiểu. Nhà nước đã ban hành chính sách quy định tiền
lương tối thiểu, NSDLĐ không được trả thấp hơn mức quy định mà Nhà nước đã
ban hành, vì đây cũng là cơ sở làm căn cứ đóng BHXH cho NLĐ. Khi tiền lương
tăng lên thì dẫn đến thu BHXH cũng tăng lên. Nếu doanh nghiệp thiếu minh bạch
trong trả lương cho NLĐ thì sẽ không đảm bảo tính công bằng và tính nhân văn
của BHXH. Ngoài ra, nếu tiền lương trả cho NLĐ không đảm bảo việc chi trả thì
sẽ ảnh hưởng đến đời sống NLĐ và bất ổn đối với quỹ BHXH, gây khó khăn trong
công tác quản lý.
Như vậy, để đảm bảo công tác thu BHXH được thực hiện ổn định, lâu dài,
đảm bảo nguồn thu BHXH thì các công tác để đảm bảo nguồn thu BHXH là một
trong những ưu tiên hàng đầu. Để làm được điều này, cần xem xét đến các nhân tố
ảnh hưởng đến công tác thu BHXH như cơ cấu lao động, tình hình thay đổi kinh tế
xã hội, mức độ chi trả các chế độ BHXH để từ đó có các giải pháp phù hợp để đảm
bảo sự ổn định và tăng nguồn thu BHXH.
1.3.4: Công tác thông tin, tuyên truyền.
BHXH là một lĩnh vực ảnh hưởng đến nhiều người, nhiều tầng lớp trong
cộng đồng xã hội nên công tác thông tin tuyên truyền là rất cần thiết và là nhân tố
tác động trực tiếp đến hiệu quả của công tác quản lý đối tượng tham gia... Nếu như
thực hiện tốt công tác này thì sẽ giúp đối tượng tham gia hiểu rõ về chế độ chính
sách BHXH theo quy định của pháp luật, làm thay đổi thái độ đói với công tác
BHXH theo hướng tích cực và sẽ tự giác thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ khi
tham gia BHXH.
10


Đối với các DNNQD, thông tin tuyên truyền có vai trò rất quan trọng. Vì
người sử dụng lao động trong khối này thường đặt lợi nhuận làm mục đích hàng

đầu, tìm mọi cách để giảm chi phí trong đó có việc trốn tham gia BHXH. Nếu thực
hiện tốt công tác tuyên truyền làm họ hiểu được lợi ích của BHXH đối với doanh
nghiệp cũng như với người lao động của mình thì họ tự giác tham gia BHXH nhiều
hơn. Việc này sẽ tạo điều kiện cho công tác thu được thực hiện dễ dàng, đảm bảo
được chỉ tiêu thu.

11


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BHXH KHỐI
DNNQD TẠI TỈNH ĐIỆN BIÊN GIAI ĐOẠN 2016-2018.
2.1: Khái quát về BHXH tỉnh Điện Biên:
2.1.1: Lịch sử hình thành phát triển:
Bảo hiểm xã hội (BHXH) tỉnh Lai Châu cũ (nay là tỉnh Điện Biên) được
thành lập theo Quyết định số 89/QĐ-BHXH, ngày 02/8/1995 của Tổng Giám đốc
BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH thuộc Sở Lao động Thương binh và Xã hội và Liên đoàn Lao động của tỉnh, với cơ cấu gồm 08 BHXH
huyện, thị xã và 05 phòng nghiệp vụ.
Ngày 25/10/2012, BHXH Việt Nam ra quyết định thành lập BHXH huyện
Nậm Pồ trực thuộc BHXH tỉnh Điện Biên. BHXH tỉnh Điện Biên bao gồm 19 đơn
vị, 09 phòng nghiệp vụ và 10 BHXH các huyện, thị, thành phố trực thuộc BHXH
tỉnh.
Ngày 24/7/2015, BHXH Việt Nam ban hành Quyết định 799/QĐ-BHXH quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và chế độ quản lý của các
phòng nghiệp vụ BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. BHXH tỉnh đã
tiến hành rà soát, kiện toàn và sắp xếp lại bộ máy, tách và sáp nhập một số phòng
nghiệp vụ theo mô hình thống nhất của BHXH Việt Nam, đến nay BHXH tỉnh với
tổng số 21 đơn vị, bao gồm 11 phòng nghiệp vụ và 10 BHXH huyện, thị, thành phố
trực thuộc BHXH tỉnh.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, mặc dù gặp nhiều khó khăn, song
BHXH tỉnh Điện Biên luôn tranh thủ được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của

BHXH Việt Nam; của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh; sự phối
hợp của các sở, ban, ngành, hội, đoàn thể, cấp uỷ Đảng và chính quyền huyện, thị
xã, thành phố; sự đồng thuận của các đơn vị sử dụng lao động và sự đoàn kết nhất
trí cao trong Ban lãnh đạo BHXH tỉnh, phát huy trí tuệ của tập thể cán bộ công
chức, viên chức BHXH tỉnh Điện Biên đã thực hiện tốt những chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về BHXH, BHYT. Kết quả công tác BHXH, BHYT đã
góp phần làm ổn định đời sống, chia sẻ những rủi ro của bao gia đình cán bộ công
nhân, viên chức, người lao động và nhân dân trong toàn tỉnh.
2.1.2: Chức năng, nhiệm vụ của BHXH tỉnh Điện Biên:
2.1.2.1: Chức năng:
Bảo hiểm xã hội tỉnh Điện Biên là cơ quan trực thuộc Bảo hiểm xã hội Việt
Nam đặt tại tỉnh, có chức năng giúp Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam
12


(sau đây gọi là Tổng Giám đốc) tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế; tổ chức thu, chi chế độ bảo hiểm thất nghiệp; quản lý và sử
dụng các quỹ: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế; thanh tra
chuyên ngành việc đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế trên
địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật và quy định của Bảo hiểm xã hội Việt
Nam.
2.1.2.2: Nhiệm vụ:
-

-

-

-


-

Xây dựng, trình Tổng Giám đốc kế hoạch ngắn hạn, dài hạn về phát triển
BHXH, BHYT, BHTN trên địa bàn và chương trình hằng năm; tổ chức thực
hiện kế hoạch, chương trình sau khi được phê duyệt.
Chủ động phối hợp với các Sở, ngành có liên quan để xây dựng, trình Ủy
ban nhân dân tỉnh phê duyệt Kế hoạch phát triển đối tượng tham gia BHXH,
BHYT, BHTN, Kế hoạch phân bổ dự toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT theo
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Tổ chức thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến các chế độ,
chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN.
Tham gia phối hợp với Sở Y tế và đơn vị liên quan, chỉ đạo các cơ sở khám,
chữa bệnh BHYT trên địa bàn xây dựng như cầu, đồng thời thẩm định, tổng
hợp nhu cầu về danh mục, số lượng thuốc.
Tham gia vào quá trình lựa chọn nhà thầu cung cấp thuốc của các cơ sở khám,
chữa bệnh BHYT trên địa bàn theo quy định. Phối hợp với Sở Y tế theo dõi,
giám sát việc thực hiện mua sắm thuốc theo Danh mục Đấu thầy tập trung cấp
quốc gia, cấp tỉnh đối với thuốc thuộc lĩnh vực BHYT.
Thực hiện kiểm tra, thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHYT, BHTN
theo quy địnhTổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch cải cách hành chính
theo chỉ đạo, hướng dẫn của BHXH Việt Nam. Thực hiện công tác cải cách thủ
tục hành chính, công tác pháp chế và công tác kiểm soát thủ tục hành chính.
Thực hiện số hóa hồ sơ giấy; quản lý, lưu trữ hồ sơ nghiệp vụ, tài liệu hành
chính và hồ sơ hưởng các chế độ BHXH, BHYT, BHTN.
Tổ chức thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN; cập
nhật biến động tăng, giảm dữ liệu hộ gia đình theo quy định.
Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ BHXH,
BHYT, BHTN cho công chức, viên chức thuộc BHXH tỉnh.
Chủ trì, phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội ở địa
phương, các tổ chức, cá nhân tham gia BHXH, BHYT, BHTN để giải quyết các

vấn đề có liên quan đến việc thực hiện các chế độ BHXH, BHYT, BHTN theo
quy định.
Có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng,
lợi ích nhà nước trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN trên địa bàn.
Đề xuất với BHXH Việt Nam kiến nghị việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung cơ chế,
chính sách về BHXH, BHYT, BHTN; kiến nghị với các cơ quan nhà nước có
13


thẩm quyền thanh tra, điều tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật BHXH,
BHYT, BHTN.
- Định kỳ cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin về việc đóng, quyền được hưởng
các chế độ, thủ tục thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN cho người lao
động, người sử dụng lao động hoặc khi người lao động, người sử dụng lao
động, tổ chức Công đoàn yêu cầu; cung cấp đầy đủ và kịp thời tài liệu, thông
tin liên quan theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Thường xuyên phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về lao động ở địa
phương cập nhật thông tin về tình hình sử dụng lao động trên địa bàn. Phối hợp
cơ quan thuế cập nhật mã số thuế của tổ chưc,s cá nhân; định kỳ hằng năm, cập
nhật thông tin do cơ quan thuế cung cấp về chi phí tiền lương để tính thuế của
doanh nghiệp hoặc tổ chức.
- Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra toàn diện BHXH huyện trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
- Quản lý công chức, viên chức, người lao động thuộc BHXH tỉnh.
- Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học, ứng dụng CNTT trong quản lý, điều
hành BHXH tỉnh. Khai thác và bảo mật dữ liệu CNTT theo phân cấp. Thực hiện
chế độ thông tin, thống kê, báo cáo, thi đua – khen thưởng theo quy định.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng Giám đốc giao.
2.1.3: Cơ cấu tổ chức bộ máy của BHXH:
Bảo hiểm xã hội tỉnh chịu sự quản lý trực tiếp, toàn diện của Tổng Giám đốc

và chịu sự quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh của Ủy ban nhân dân
tỉnh. Bảo hiểm xã hội tỉnh có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản và trụ sở
riêng.
Ban lãnh đạo BHXH tỉnh gồm 04 đồng chí (01 Giám đốc và 03 Phó Giám đốc); 24
Trưởng, Phó Trưởng phòng nghiệp vụ; 23 Giám đốc, Phó Giám đốc BHXH huyện,
thị, thành phố.
2.1.4: Đội ngũ cán bộ viên chức tại BHXH tỉnh Điện Biên:
Tổng số công chức, viên chức của BHXH tỉnh hiện nay là 222 người. Đảng
viên Đảng cộng sản Việt Nam: 153 đồng chí, chiếm 68,9% tổng số biên chế được
giao.
2.1.5: Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật tại BHXH tỉnh Điện Biên:
Thời gian qua, BHXH tỉnh đã có nhiều cố gắng cải cách, cắt giảm quy trình
thủ tục hành chính trong giải quyết chế độ chính sách BHXH, ứng dụng công nghệ
thông tin trong công tác quản lý và giải quyết chế độ chính sách kết nối liên thông
các phần mềm nghiệp vụ như: phần mềm Giám định BHYT,tiếp nhận hồ sơ, kế
toán...thực hiện tốt giao dịch điện tử trong việc giải quyết chế độ ngắn hạn, đảm
bảo nhanh, thuận lợi, chính xác; đến nay, về cơ bản BHXH tỉnh Điện Biên đã áp
dụng thực hiện chữ ký số trong việc xét duyệt giải quyết các chế độ dài hạn, lập
danh sách chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng, danh sách chi BHTN và
xét duyệt các chế độ ngắn hạn đảm bảo chính xác, rút ngắn thời gian giải quyết, tạo
14


điều kiện thuận lợi cho người lao động, chủ sử dụng lao động và các đối tượng thụ
hưởng chính sách BHXH trên địa bàn tỉnh.
2.2: Thực trạng công tác quản lý thu BHXH khối DNNQD tại tỉnh Điện Biên
giai đoạn 2016 – 2018:
2.2.1: Tổng quan về khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn trong hệ thống an sinh xã hội
mang đậm tính nhân đạo và tính nhân văn sâu sắc. Nếu quản lý thu BHXH bắt

buộc tốt sẽ tránh thất thoát cho BHXH, đảm bảo quỹ tăng trưởng, tạo sự công bằng
cho người tham gia và góp phần củng cố hệ thống an sinh xã hội. Hiện nay, tỷ lệ
doanh nghiệp NQD tham gia BHXH trên địa bàn tỉnh Điện Biên có xu hướng tăng
lên qua các năm. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho thấy công tác quản lý đối tượng
tham gia BHXH của tỉnh Điện Biên. Tuy nhiên, mặc dù tăng qua các năm nhưng tỷ
lệ DNNQD tham gia BHXH so với tổng số DNNQD vẫn ở mức tương đối thấp.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do những tồn tại, hạn chế trong quản lý
thu BHXH bắt buộc từ các DNNQD của BHXH tỉnh Điện Biên. Cùng với tỷ lệ đơn
vị DNNQD tham gia BHXH tăng lên, tỷ lệ người lao động thuộc khối DNNQD
tham gia BHXH cũng tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, thực tế việc theo dõi tình
hình đăng ký tham gia BHXH đối với các doanh nghiệp đặc biệt là DNNQD vẫn
còn gặp nhiều khó khăn. Tình trạng tham gia BHXH nhưng đóng BHXH không
đúng số lao động hiện có vẫn đang diễn ra rất phổ biến.
2.2.2: Thực trạng quản lý đối tượng tham gia BHXH khối DNNQD:
Trong những năm qua, xác định đối tượng tham gia BHXH là vấn đề cốt lõi
quyết định hiệu quả của công tác thu BHXH tỉnh Điện Biên đã không ngừng đề ra
phương hướng nhiệm vụ, các biện pháp và bước đi cụ thể phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội để mở rộng đối tượng tham gia theo mục tiêu của Đảng và Nhà
nước đã đề ra. Để thực hiện tốt công tác quản lý thu BHXH bắt buộc ở khối doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, BHXH Tỉnh Điện Biên đã phối hợp với các ngành, các
cấp để tuyên truyền và vận động người sử dụng lao động và người lao động tích
cực tham gia; tăng cường kiểm tra, hướng dẫn các đơn vị thực hiện BHXH cho
người lao động. Tình hình quản lý đối tượng tham gia BHXH khối DNNQD tại
BHXH tỉnh Điện Biên được thể hiện như sau:

15


Bảng 2.1: Cơ cấu lao động thuộc DNNQD tham gia BHXH giai đoạn
2016 - 2018.

(Đơn vị: Người, %)
Năm
2016
2017
2018
lao Cơ cấu Số
lao Cơ cấu Số
lao Cơ cấu
Loại đơn Số
động
(%)
động
(%)
động
(%)
vị
DNNQD 37.147
16.98
39.313
17.78
44.001
19.86
(Nguồn: BHXH tỉnh Điện Biên)

Bảng 2.2: Cơ cấu đơn vị DNNQD tham gia BHXH giai đoạn 2016 – 2018.
(Đơn vị: đơn vị,
%)
Năm
2016
2017

2018
Loại đơn Số đơn Cơ cấu Số đơn Cơ cấu Số đơn Cơ cấu
vị
vị
(%)
vị
(%)
vị
(%)
DNNQD

1.948

51.22

2.055

52.06
2.290
53.44
(Nguồn: BHXH tỉnh Điện Biên)

Cùng với sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước, quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được đẩy mạnh thì
khu vực DNNQD ngày càng đóng vai trò quan trọng. Đi cùng xu thế chung của
toàn quốc, khối DNNQD trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã và đang phát triển với
những kết quả đáng khích lệ. Qua 2 bảng số liệu trên, ta thấy số đơn vị và số lượng
người tham gia BHXH trong khối này cũng tăng cao:
- Năm 2016, số đơn vị tham gia là 1.948 đơn vị (chiếm 51.22% tổng số đơn vị
tham gia BHXH), số người tham gia là 37.147 người.

- Năm 2017, số đơn vị tham gia là 2.055 đơn vị, gấp 1.05 lần so với năm 2014,
cũng vì thế mà số lao động tham gia tăng lên là 39.313 người.
- Năm 2018, số đơn vị tham gia lên đến 2.290 đơn vị và số lao động tham gia là
44.001 người.
Số DNNQD trên địa bàn tỉnh Điện Biên từ năm 2016 đến năm 2018 đã tăng thêm
342 đơn vị với 6.854 người.
2.2.3: Thực trạng quỹ lương làm căn cứ đóng BHXH:
Cũng tương tự việc quản lý danh sách đối tượng tham gia, quản lý quỹ tiền
lương tiền công làm căn cứ đóng BHXH được quản lý theo từng đơn vị SDLĐ.
Việc quản lý tốt tiền lương tiền công đóng BHXH là cơ sơ để mọi hoạt động khác
như công tác thu, chi, quản lý quỹ… diễn ra ổn định. Cơ quan BHXH tỉnh Điện
16


Biên đã thực hiện khá tốt việc chỉ đạo công tác quản lý quỹ tiền lương tiền công
của các đơn vị SDLĐ, không để xảy ra những sai sót lớn gây thất thoát quỹ.
Bảng 2.3: Mức tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH của các DNNQD
tại BHXH tỉnh Điện Biên giai đoạn 2016-2018.
(Đơn vị: đồng)
Năm
2016
2017
2018
Tổng quỹ lương
1.227.750.272.69 1.320.599.047.37 1.619.597.006.12
làm căn cứ đóng
3
0
6
BHXH

(Nguồn: BHXH tỉnh Điện Biên)
Qua bảng trên ta có thể thấy rằng từ năm 2016 đến 2018, tổng quỹ lương của
khối DNNQD liên tục tăng. Cụ thể, năm 2017 tổng quỹ lương tăng 92.848.774.680
đồng so với năm 2016, tương ứng tăng 7,6%. Vào năm 2018 tổng quỹ lương tăng
298.997.958.800 đồng so với năm 2017, tương ứng tăng 22,6%. Có rất nhiều
nguyên nhân làm cho tổng quỹ lương tăng trong giai đoạn này, đầu tiên là số đối
tượng tham gia tăng lên khiến mức lương làm căn cứ đóng BHXH của người lao
động cũng liên tục tăng. Bên cạnh đó từ năm 2016 đến năm 2018, Nhà nước đã có
3 lần tăng lương tối thiểu trong doanh nghiệp:
Bảng 2.4: Tình hình biến động mức lương tối thiểu của tỉnh Điện Biên
giai đoạn 2016 – 2018.
(Đơn vị: đồng)
Thời điểm áp dụng Mức lương tối thiểu vùng Mức lương tối thiểu vùng
III
IV
01/01/2016
2.700.000
2.400.000
01/01/2017
2.900.000
2.580.000
01/01/2018
3.090.000
2.760.000
(Nguồn: Bộ phận thu BHXH tỉnh Điện Biên)
- Vùng III: Thành phố Điện Biên Phủ.
- Vùng IV: Thị xã Mường Lay và các huyện Điện Biên, Điện Biên Đông, Mường
Ảng, Mường Chà, Mường Nhé, Tủa Chùa, Tuần Giáo, Nậm Pồ.
2.2.4: Thực trạng quản lý quy trình tổ chức thu BHXH:
Quy trình tổ chức thu BHXH khối doanh nghiệp NQD của BHXH tỉnh Điện

Biên bao gồm các bước:
- Bước 1: Phân tích môi trường. BHXH tỉnh Điện Biên tiến hành phân tích
các yếu tố môi trường, bao gồm môi trường bên trong và bên ngoài. Môi trường
bên ngoài như thực trạng, số lượng các doanh nghiệp NQD trên địa bàn tỉnh, chính
17


sách thu BHXH của Nhà nước, tình hình phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn
tỉnh… Môi trường bên trong như số lượng, chất lượng các chuyên viên, cán bộ thu
BHXH của BHXH tỉnh, hệ thống thông tin, tình hình thực hiện kế hoạch thu
BHXH bắt buộc từ các doanh nghiệp NQD giai đoạn kế hoạch trước…
- Bước 2: Xác định mục tiêu cụ thể cho giai đoạn kế hoạch. Trên cơ sở phân
tích cả môi trường bên trong và bên ngoài, BHXH tỉnh Điện Biên xác định mục
tiêu cụ thể cho giai đoạn kế hoạch. Thông thường, BHXH tỉnh Điện Biên cụ thể
hóa các mục tiêu thu BHXH bắt buộc từ các doanh nghiệp NQD thành các chỉ tiêu
về số lượng doanh nghiệp NQD tham gia đóng BHXH bắt buộc, số lượng người
lao động làm việc trong các doanh nghiệp NQD tham gia đống BHXH bắt buộc, số
tiền BHXH bắt buộc thu được từ các doanh nghiệp NQD.
- Bước 3: Xây dựng các giải pháp để thực hiện mục tiêu đề ra.
Sau khi xây dựng được kế hoạch thu BHXH bắt buộc, BHXH tỉnh Điện Biên
trình kế hoạch lên BHXH Việt Nam. Căn cứ vào kế hoạch thu BHXH bắt buộc mà
BHXH tỉnh Điện Biên trình lên, BHXH Việt Nam xem xét tính khả thi, lợi ích của
kế hoạch, so sánh với kế hoạch các địa phương khác và thông qua kế hoạch, giao
dự toán thu BHXH cho BHXH tỉnh Điện Biên.
2.2.5: Kết quả thu BHXH khối doanh nghiệp NQD:
Để tổ chức thực hiện kế hoạch thu BHXH bắt buộc từ các DNNNN thì
BHXH tỉnh Điện Biên đã tổ chức tập huấn cho cán bộ thực hiện thu BHXH bắt
buộc từ các DNNNN, truyền thông tới các DNNNN (chủ sử dụng lao động và
người lao động) và tích cực phối hợp với các cơ quan có liên quan như Kho bạc
Nhà nước tỉnh Điện Biên, Cục Thuế tỉnh Điện Biên.

Bảng 2.5: Kết quả thực hiện kế hoạch thu BHXH khối doanh nghiệp NQD tại
BHXH tỉnh Điện Biên giai đoạn 2016 – 2018.
(Đơn vị: đồng,%)
Chỉ tiêu
Năm
2016
2017
2018

Kế hoạch
(đồng)
10.346.000.000
11.825.000.000
12.840.000.000

Thực hiện
Tỷ lệ hoàn thành
(đồng)
kế hoạch (%)
11.075.000.000
1,07
12.390.000.000
1,05
14.200.000.000
1,11
(Nguồn: Bộ phận thu BHXH tỉnh Điện Biên)

Qua bảng trên có thể thấy, số thu BHXH bắt buộc của DNNQD qua các
năm đều vượt mức chỉ tiêu kế hoạch. Số thu thực hiện được luôn cao hơn so với
số thu theo kế hoạch. Năm 2016, số thu kế hoạch là 10.346.000.000 đồng, số thu

thực hiện là 11.075.000.000 đồng, tăng lên 1,07%; năm 2017 số thu kế hoạch là
11.825.000.000 đồng, số thu thực hiện là 12.390.000.000 đồng, tăng lên 1,05%;
18


năm 2018 số thu kế hoạch là 12.840.000.000 đồng, số thu thực hiện là
14.200.000.000 đồng, tăng lên 1,11%. Đây là một kết quả đáng khích lệ cho toàn
thể cán bộ BHXH tỉnh Điện Biên nói chung và các cán bộ thu nói riêng. Ở đây kế
hoạch đặt ra là hoàn toàn hợp lý, khoa học như đã phân tích ở phần quy trình tổ
chức thu BHXH. Số kế hoạch lập ra hoàn toàn sát với tình hình thực tế. Việc số
thu luôn vượt mức chỉ tiêu là kết quả của sự nỗ lực cố gắng của các cán bộ thu
cũng như Ban Lãnh Đạo BHXH tỉnh Điện Biên.
2.2.6: Thực trạng nợ đọng BHXH khối doanh nghiệp NQD:
Mặc dù trong những năm qua, số thu BHXH bắt buộc tại một số đơn vị luôn
lớn hơn số phải thu nhưng thực tế trên địa bàn huyện vẫn còn xảy ra tình trạng nợ
đọng BHXH bắt buộc kéo dài. Dưới đây là bảng tình hình nợ BHXH khối doanh
nghiệp NQD giai đoạn 2016 – 2018.
Bảng 2.6: Tình hình nợ đọng BHXH khối doanh nghiệp NQD tại BHXH tỉnh
Điện Biên giai đoạn 2016 – 2018.
Đơn vị: (triệu đồng, %)
Năm
Doanh
nghiệp
khối
NQD

2016

2017


2018

Tỷ
Số
nợ trọng
(đồng)
(%)
458.000.000 48,18

Tỷ
Số
nợ trọng
(đồng)
(%)
515.000.00 57,93
0

Số nợ (trđ)
593.000.000

Tỷ
trọng
(%)
52,33

(Nguồn: Bộ phận thu BHXH tỉnh Điện Biên)
Qua bảng trên có thể thấy rằng số tiền nợ của khối này có xu hướng tăng
theo thời gian, năm sau cao hơn năm trước và chiếm một tỷ trọng lớn. Năm 2016,
số nợ là 458.000.000 đồng nhưng năm 2018 tăng thêm 135.000.000 đồng số nợ đã
lên tới 593.000.000 đồng, chiếm 52,33% tổng số nợ BHXH. Điều đó thể hiện rằng,

ý thức chấp hành Luật BHXH của các ĐVSDLĐ ở khối này là rất thấp. Tuy nhiên,
xét theo nguyên nhân khách quan thì việc điều chỉnh mức lương tối thiểu cho NLĐ
khiến mức đóng BHXH tăng lên khá nhiều làm cho doanh nghiệp không xoay sở
kịp. Nợ đọng BHXH sẽ gây ảnh hưởng đến nguồn quỹ BHXH. Nếu các doanh
nghiệp nợ trong thời gian dài, với số tiền lớn thì sẽ làm thâm hụt quỹ. Điều này sẽ
làm giảm khả năng chi trả chế độ cho người lao động của quỹ BHXH do thu không
đủ chi và làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động.
19


Bên cạnh đó, nguồn thu không đủ làm cho hệ thống BHXH không có đủ
kinh phí để hoạt động, không thể tổ chức được nhiều các hoạt động nâng cao chất
lượng công việc của cả hệ thống BHXH trong đó có cả công tác thu làm cho số thu
sẽ càng ít đi.
Nợ đọng không chỉ ảnh hưởng đến quỹ BHXH, người lao động mà còn có
tác động xấu đến chính bản thân doanh nghiệp.
2.3: Một số đánh giá về công tác quản lý BHXH khối DNNQD tại tỉnh Điện
Biên giai đoạn 2016 – 2018:
2.3.1: Kết quả đạt được:
Trong 3 năm trở lại đây BHXH tỉnh Điện Biên luôn hoàn thành tốt và vượt
kế hoạch được giao về số lượng đơn vị sử dụng lao động và số lượng đơn vị
DNNQD tham gia, dẫn đến số thu ngày càng tăng lên. Công tác tuyên truyền phổ
biến và những văn bản quy định bắt buộc đối với người tham gia BHXH được kết
hợp với các chế tài sử vi phạm BHXH đã được giao đến từng cơ quan đơn vị ,
phường xã ,... nên số người tham gia đã tăng lên tương đối .
Cán bộ BHXH tỉnh Điện Biên được trau dồi phẩm chất , nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, ý thức, trách nhiệm, tinh thần vì người tham gia và thụ
hưởng và phục vụ. Cán bộ BHXH cũng đã dành phần lớn thời gian đến từng đơn vị
sử dụng lao động được phân công phụ trách để tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn
và cùng cơ sở xử lý kịp thời những vướng mắc khó khăn trong việc thực hiện

chính sách cho người lao động .
Cơ quan BHXH tỉnh Điện Biên đã từng bước thực hiện cải cách thủ tục hành
chính trong công tác quản lý và giải quyết chế độ chính sách cho người lao động
thông qua việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý sổ và cơ chế “ Một cửa
liên thông “ đem lại hiệu quả tích cực ; hồ sơ thủ tục giấy tờ liên quan đến việc
tham gia và hưởng chế độ đã từng bược được đơn giản hóa ; các quy định quy trình
nghiệp vụ ngày càng phù hợp với thực tiễn , dễ hiểu dễ thực hiện hơn các thủ tục
người sử dụng lao động và người lao động phải làm ngày càng giảm; thời gian giải
quyết được rút ngắn hơn; khiếu nại, kêu ca về những sai sót phiền hà chậm giải
quyết chế độ chính sách cho người lao động đã được giảm đáng kể.
BHXH tỉnh Điện Biên đã thường xuyên phối hợp với các sở ban ngành có
liên quan tổ chức càng đoàn kiểm tra liên ngành để kiểm tra về an toàn lao động và
thực hiện chính sách xã hội cho người lao động trong các doanh nghiệp. Qua kiểm
tra cán bộ BHXH còn tuyên truyền cho chủ sử dụng lao động và người lao động
hiểu rõ thêm về quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia BHXH, từ đó làm chuyển biến
về nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động . Đồng thời kiến nghị
các cơ quan có thẩm quyền thực hiện sử phạt những đơn vị cố tình vi phạm luật
BHXH và cũng đề xuất ủy ban nhân dân tỉnh khen thưởng những doanh nghiệp
điển hình làm tốt công tác BHXH.
20


Thông qua các công tác vận động tuyên truyền, nhận thức về BHXH của các
cấp, các ngành, các cơ quan đơn vị, nhất là người lao động và chủ sử dụng lao
động từng bước được nâng lên.
Sự phát triển của BHXH tỉnh Điện Biên là bền vững thể hiện kêt quả các
mặt công tác năm sau đều tăng hơn năm trước , giải quyết chế độ BHXH cho
người lao động ngày càng nhanh hơn tiện ích hơn . Đơn thư khiếu nại được giải
đáp và giải quyết dứt điểm từ cơ sở nên không có đơn thư vượt cấp phức tạp xảy ra
2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân:

2.3.2.1: Hạn chế:
Bên cạnh những thành tựu đạt được, BHXH tỉnh Điện Biên cũng tồn tại
nhiều mặt hạn chế và yếu kém trong công tác quản lý đối tượng tham gia cần phải
nhanh chóng sửa đổi và khắc phục. Đó là :
- Chưa nắm vững được số đơn vị và số người tham gia BHXH khối DNNQD
trên địa bàn thành phố:
+ Có những trường hợp đơn vị kê khai đăng ký không chính xác số người
tham gia lẫn mức lương trích nộp dưới nhiều hình thức như: chỉ ký hợp đồng lao
động dưới 3 tháng hoặc không ký hợp đồng lao động…Một số đơn vị sử dụng trên
10 lao động nhưng vẫn chưa tham gia BHXH.
+ Tình trạng người sử dụng lao động không đóng BHXH cho người lao
động, đóng không đúng thời hạn, không đúng mức quy định, đóng không đủ số
người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc còn xảy ra nhiều . Những trường hợp
đơn vị sử dụng lao động lập danh sách báo tăng giảm chậm, thời gian tăng giảm
không đúng với các quy định hoặc hợp đồng lao động của người lao động.
- Nhận thức về BHXH của mọi người dân nói chung và người lao động nói
riêng bị hạn chế, chưa thấy rõ bản chất ưu việt của BHXH. Người lao động chưa
hiểu đầy đủ về quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia BHXH. Nhiều người
còn có thành kiến không tốt về BHXH, hiểu sai về bản chất BHXH.
- Một trong những tồn tại lớn nhất hiện nay là công tác quản lý chưa đồng
bộ, cơ quan BHXH tỉnh Điện Biên cũng như các phòng ban ngành chức năng chưa
nắm chắc hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình sử dụng lao động của các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ngoài
công lập. Có những doanh ngiệp ngoài quốc doanh có đăng ký thành lập trên địa
bàn tỉnh nhưng không có trụ sở giao dịch không hoạt động theo nội dung đăng ký,
giải thể sau khi thành lập và hoạt động một thời gian ngắn, không đăng ký sử dụng
lao động…cũng không cơ quan nào quản lý theo dõi và nắm được thông tin về
những doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh, có mã số thuế nhưng không có trụ sở
làm việc thực chất có hoạt động hay không, còn kinh doanh hay đã dừng hoặc thay
đổi phạm vi hoạt động. Ngoài ra khu vực ngoài công lập còn có nhiều nhà trẻ mầm

non tư thục, các quán bar….không ký kết hợp đồng với người lao động. Do vậy,
việc quản lý theo dõi yêu cầu người sử dụng lao động thực hiện chính sách BHXH
21


cho người lao động theo luật định ở các đơn vị này thực sự là vấn đề không dễ đảm
bảo .
- Trình độ của cán bộ công nhân viên chức trong BHXH tỉnh Điện Biên
còn nhiều bất cập. Đa số là các cán bộ thuộc ngành khách chuyển sang, chưa nắm
vững đươc công tác BHXH. BHXH thành phố còn thiếu cán bộ, một cán bộ phải
đảm đương nhiều công việc dẫn đến hiệu quả công việc chưa cao.
- Kinh phí hoạt động của ngành thấp. Thiếu cơ sở vật chất phục vụ, thiếu
kinh phí đào tạo và chưa có cơ chế khuyến khích thỏa đáng cho những đơn vị, cá
nhân thực hiện tốt BHXH.
2.3.2.2: Nguyên nhân:
a, Về phía người lao động:
Do áp lực từ việc làm và tiền lương, tâm lý thỏa hiệp với chủ sử dụng lao
động nên một bộ phận người lao động trên địa bàn không dám đấu tranh đòi quyền
lợi của mình. Bên cạnh đó, người lao động còn thiếu hiểu biết đầy đủ về các chính
sách BHXH của Nhà nước làm cho người lao động gặp khó khăn trong việc bảo vệ
quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong quan hệ lao động.
b, Về phía người sử dụng lao động:
Nhiều đơn vị cố tình chiếm dụng quỹ BHXH để quay vòng vốn làm ăn.
Mặc dù họ biết sẽ bị phạt nhưng vẫn cố tình chiếm dụng và chấp nhận chịu phạt vì
số tiền phạt nhỏ hơn rất nhiều lần số tiền thu lại được.
Nhiều đơn vị kê khai, thống kê chưa đầy đủ số lượng lao động làm việc
trong cơ quan mình, hoặc là lao động mới được tuyển vào làm việc nhưng bị kéo
dài thời gian thử việc một cách bất hợp lý. Không ít doanh nghiệp cố tình ký hợp
đồng lao động với thời hạn dưới 03 tháng, hợp đồng lao động mùa vụ để trốn đóng
BHXH cho người lao động.

Hiện nay, một nghịch lý tồn tại ở hầu hết các doanh nghiệp trên địa bàn là
nhân viên văn phòng tại các doanh nghiêp có khối lượng công việc rất lớn. Họ vừa
làm kế toán vừa giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động nên việc xảy ra
các thiếu sót trong việc tham gia BHXH cho người lao động là không thể tránh
khỏi.
c, Về phía cơ quan BHXH:
Về tổ chức thu: mặc dù BHXH Việt Nam đã có chủ trương cải cách hành
chính trong các cơ quan BHXH nhưng tại BHXH huyển Cẩm Xuyên thì quy trình
“Một cửa” vẫn chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình dẫn đến tình trạng NLĐ
22


còn phải đi lại nhiều giữa các phòng để được giải quyết chế độ, không những thế
còn gây ra áp lực cho các cán bộ khi tiếp xúc giao dịch với nhiều đối tượng.
Công tác thông tin tuyên truyền vẫn chưa thực sự sâu rộng, hình thức
tuyên truyền chưa phong phú nên nhận thức của NLĐ về BHXH tại nhiều đơn vị
còn chậm chuyển biến.
Sự phối kết hợp giữa cơ quan BHXH với các ngành chức năng còn thiếu
đồng bộ chưa tạo được động lực cần thiết thúc đẩy công tác quản lý thu BHXH.
Cơ quan BHXH không nắm chắc số lượng lao động thuộc diện tham gia
BHXH trong khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, không đăng ký chính xác tổng
quỹ lương làm căn cứ đóng.
Trong quá trình lập kế hoạch thu BHXH năm sau cán bộ thường đề xuất
với cấp trên kế hoạch thu thấp. Do đó các năm thực hiện đều đạt và vượt kế hoạch
tỉnh giao nhưng số nợ đọng vẫn còn.
Cán bộ trực tiếp quản lý thu chưa thường xuyên đén cơ sở thu thập nắm
bắt tình hình hoạt động của đơn vị, tình hình biến động về lao động và tiền lương.
Công tác thanh tra, kiểm tra chưa được thực hiện một cách thường xuyên,
chưa đủ sức răn đe các đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH cho NLĐ.
d, Về phía Nhà nước:

Chính sách BHXH đang trong quá trình hoàn thiện, các chế độ, quy định,
luật thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới. Nhưng các cơ quan Nhà
nước lại không có những hướng dẫn kịp thời, cụ thể trong việc triển khai. Do vậy,
người lao động, người sử dụng lao động cũng như cán bộ làm công tác thu khó
nắm vững nhiều chính sách làm cho việc triển khai thực hiện không đúng quy định.
Và đôi khi các quy định không chặt chẽ khiến cho các doanh nghiệp dễ dàng lách
luật.Tình trạng nợ đọng, chậm đóng, trốn đóng vẫn diễn ra vì pháp luật chưa có các
chế tài xử lý thích đáng đối với các trường hợp vi phạm. Hiện nay, chế tài xử phạt
với các doanh nghiệp vi phạm là chưa đủ sức răn đe. Do vậy nếu so với việc đóng
tiền BHXH thì việc trốn đóng và chịu nộp phạt doanh nghiệp vẫn có lợi hơn.
Cơ chế xử lý vi phạm hiện nay là không kịp thời. Cơ quan BHXH nắm
chắc nguồn thu nộp BHXH của đơn vị nhưng không có thẩm quyền xử lý vi phạm
vì đây chỉ là cơ quan sự nghiệp. Việc xử lý này lại do chủ tịch UBND quận huyện,
tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã
hội, Chánh thanh tra Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Chánh thanh tra Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội thực hiện. Để có thể xử phạt được thì những người
23


này phải chờ báo cáo từ BHXH, kiểm tra và làm thủ tục xử phạt. Việc này rất mất
thời gian, khiến cho việc xử lý vi phạm không kịp thời và nhanh chóng, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp kéo dài thời gian trốn đóng, nợ đọng.
e, Về phía các chính sách pháp luật:
Do cơ chế chính sách về BHXH ban hành chưa đồng bộ, chưa phù hợp
với thực tế, chậm được triển khai. Trong quá trình quản lý có quá nhiều văn bản
của nhiều cơ quan Bộ ngành, ban hàng nên rất khó khăn cho cơ quan quản lý,
ĐVSDLĐ và NLĐ hiểu và nắm vững về chế độ, cập nhật thông tin để thực hiện
đúng quy định.
Các chế tài thu, xử phạt vi phạm về BHXH tuy đã được ban hành nhưng
chưa đủ mạnh, mức phạt còn quá nhẹ, tính khả thi chưa cao nên chưa phát huy hiệu

quả. Mặc dù mức phạt đã nâng từ 20 triệu đồng lên mức xử phạt 30 triệu đồng cho
các hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ BHXH đối với DVSDLĐ, như vậy sẽ có
nhiều doanh nghiệp sẵn sàng nộp phạt trốn Luật BHXH để có tiền sử dụng cho
mục đích khác.
Mức lãi suất chậm nộp: Theo quy định của Luật BHXH mức lãi suất
chậm nộp bằng mức lãi đầu tư quỹ BHXH nên thấp hơn lãi suất tiền vay của các
ngân hàng thương mại, do đó nhiều DN cố tình chậm nộp, chấp nhận phạt để
chiếm dụng quỹ BHXH.
Một số quy định của Luật BHXH chưa chặt chẽ tạo nhiều kẽ hở cho các
đơn vị lách luật. Ví dụ như quy định về mức lương làm căn cứ trích nộp BHXH là
mức lương ghi trên hợp đồng lao động nên các doanh nghiệp thường ghi mức
lương trên hợp đồng thấp hơn mức lương thực tế mà DVSDLĐ trả cho NLĐ. Hay
việc quy định đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là lao động có hợp đồng lao
động có thời hạn từ đủ 03 tháng trở lên thì các đơn vị lợi dụng bằng cách ký hợp
đồng lao động có thời hạn dưới 03 tháng.
f, Về phía tổ chức công đoàn:
Công đoàn là tổ chức đại diện hợp pháp đứng ra bảo vệ quyền lợi của
người lao động. Tuy nhiên ở đa số các doanh nghiệp hiện nay, tổ chức công đoàn
chưa thể hiện được hết vai trò của mình, tiếng nói của công đoàn chưa có trọng
lượng, chưa đủ sức để lên tiếng bảo vệ cho người lao động, buộc doanh nghiệp
phải thực hiện đúng luật. Vì ở các doanh nghiệp, cán bộ công đoàn đều là kiêm
nhiệm, do người sử dụng lao động chỉ định. Họ cũng như những người lao động
khác trong doanh nghiệp, là người làm công ăn lương, lệ thuộc việc làm và thu
24


nhập vào chủ doanh nghiệp. Nếu không thực hiện theo sự chỉ đạo của chủ doanh
nghiệp thì sẽ bị điều chuyển, ảnh hưởng tới công việc và thu nhập. Do vậy tổ
chức công đoàn chưa thể phát huy hết tác dụng của mình trong việc bảo vệ
người lao động.

Ở nhiều doanh nghiệp dù đã hoạt động lâu song vẫn chưa thành lập tổ
chức công đoàn và phải đến khi thanh tra lao động hoặc cơ quan BHXH yêu cầu
gắt gao thì họ mới thành lập. Vì vậy người lao động không có tổ chức đứng ra đại
diện cho mình.
g, Một số nguyên nhân khác:
BHXH Việt Nam chưa xây dựng được một hệ thống mạng liên kết toàn
ngành, giữa BHXH các quận huyên, thành phố với nhau.
Việc thiết kế các phần mềm chuyên ngành còn một số lỗi khiến cho phần
mềm mà các cán bộ sử dụng hiện nay có những hạn chế gây ảnh hưởng đến công
tác kiểm tra thông tin.

25


×