Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Nâng cao sức cạnh tranh của công ty cổ phần quốc tế Sơn Hà trên thị trường miền Trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.19 KB, 43 trang )

LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp là sản phẩm nghiên cứu khoa học đầu đời của mỗi sinh
viên,cũng là thành quả của quá trình học tập và rèn luyện trong trường đại học. Chính
vì thế, việc hoàn thành khóa luận đòi hỏi rất nhiều công sức, sự chuyên tâm, nhiệt
huyết cũng như thời gian của người viết. Tuy nhiên, một trong những yếu tố không
nhỏ tạo nên “sản phẩm trí tuệ” này là sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn,
các thầy cô đã giảng dạy cũng như sự ủng hộ của gia đình và bạn bè. Trước hết, em xin
gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới cô Trần Thị Thu Phương người trực tiếp
hướng dẫn em trong quá trình làm luận văn. Không chỉ gợi ý và hướng dẫn em trong
quá trình tìm hiểu, đọc tài liệu và lựa chọn đề tài, cô còn tận tình chỉ bảo em những kĩ
năng phân tích, khai thác tài liệu để có được những lập luận phù hợp với nội dung của
khóa luận. Hơn nữa, cô còn rất nhiệt tình trong việc đốc thúc quá trình viết khóa luận,
đọc và đưa ra những nhận xét, góp ý để em có thể hoàn thành luận văn một cách tốt
nhất. Bên cạnh đó, em cũng xin gửi đến các thầy cô giáo đã và đang công tác, giảng
dạy tại khoa Kinh tế - Luật chuyên ngành Luật thương mại lòng biết ơn sâu sắc về
những kiến thức và kĩ năng mà các thầy cô đã truyền đạt cho em trong suốt quá trình
học tập và rèn luyện tại trường.
Trong quá trình thực hiện khóa luận, em cũng rất may mắn nhận được sự giúp
đỡ nhiệt tình từ các anh chị trong phòng hành chính nhân sự của công ty TNHH
Kuroda Kagaku Việt Nam. Cảm ơn các anh chị đã tạo điều kiện cho em có thể tiếp cận
với những vụ việc thực tế và cung cấp cho em những tài liệu quý báu để phục vụ cho
việc viết khóa luận.
Cuối cùng, em xin được gửi đến bố mẹ, gia đình và bạn bè lời cảm ơn và lòng
biết ơn sâu sắc vì những sự động viên, ủng hộ và cổ vũ tinh thần trong suốt quá trình
gian nan và vất vả này.

1


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN...............................................................................................................i


MỤC LỤC.................................................................................................................... ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT.............................................................iv
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài..........................................................................................1
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan...................................................2
3. Xác lâp và tuyên bố vấn đề nghiên cứu..................................................................3
4. Đối tượng mục tiêu, phạm vi nghiên cứu...............................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................4
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp..................................................................................5
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG........................................6
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.....................................................................................6
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan......................................................................6
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của trọng tài thương mại..............................................6
1.1.2. Khái niệm về pháp luật điều chỉnh phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại.....................................................................................................9
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh về giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thương mại ở Việt Nam......................................................................9
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại....................................................................................................................9
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại..................................................................................................................10
1.3. Các nguyên tắc pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại.........................................................................................17
1.3.1. Nguyên tắc tôn trọng thoả thuận của các bên.................................................17
1.3.2. Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định
pháp luật..................................................................................................................... 18
1.3.3. Nguyên tắc các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.............18
1.3.4. Nguyên tắc xét xử kín, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác...............19
1.3.5. Nguyên tắc chung thẩm....................................................................................19

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ PHƯƠNG
THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI......20
2.1. Tổng quan về tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề pháp luật điều
chỉnh phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại..................20
2.1.1. Tổng quan chung về tình hình pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài thương mại.............................................................................................................20
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về vấn đề giải quyết tranh chấp bằng

2


trọng tài thương mại...................................................................................................21
2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại.................................................................................................................22
2.2.1. Thực trạng quy phạm pháp luật về các điều kiện tham gia giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại.................................................................................22
2.2.2. Thực trạng các quy phạm pháp luật quy định tiêu chuẩn trọng tài viên........23
2.2.3. Thực trạng các quy phạm pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thương mại..........................................................................................24
2.2.4. Thực trạng các quy phạm pháp luật về các thủ tục giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại...................................................................................................25
2.2.5. Thực trạng các quy phạm pháp luật quy định về phán quyết và việc cưỡng
chế thi hành phán quyết của trọng tài.......................................................................25
2.3. Thực tiễn thực hiện quy phạm pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài thương mại tại các doanh nghiệp chung và tại công ty TNHH Kuroda Kagaku
Việt Nam.....................................................................................................................26
2.3.1. Thực tiễn thực hiện quy phạm pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài thương mại tại các doanh nghiệp..........................................................................26
2.3.2. Thực tiễn thực hiện quy phạm pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài thương mại tại công ty TNHH Kuroda Kagaku Việt Nam...................................28

2.4. Kết luận nghiên cứu............................................................................................30
2.4.1 Về pháp luật điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài........30
2.4.2 Về việc thực hiện của chủ thể............................................................................31
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ( KIẾN NGHỊ) NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI...................................................................................33
3.1. Quan điểm định hướng hoàn thiện....................................................................33
3.1.1. Sự cần thiết và khách quan trong việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.............................................................33
3.1.2. Bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật...........................................33
3.1.3. Bảo đảm tính khả thi của văn bản pháp luật...................................................33
3.1.4. Bảo đảm tính minh bạch của hệ thống pháp luật............................................34
3.2. Các giải pháp kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại..................................................................................................34
3.2.1. Về phía pháp luật điều chỉnh giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại.........................................................................................34
3.2.2. Về phía trọng tài viên và trung tâm trọng tài..................................................35
3.2.3. Về phía doanh nghiệp......................................................................................36
3.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu...................................................37
3.3.1. Về ý thức tuân thủ pháp luật của thương nhân kinh doanh..........................37
3.3.2. Về hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan............................................37

3


KẾT LUẬN................................................................................................................38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
Từ viết tắt


Nghĩa đầy đủ
Trách nhiệm hữu hạn
Tòa án nhân dân
Bộ luật Dân sự
Bộ luật Tố tụng dân sự
Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh
Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc
tế của ủy ban liên hiệp quốc về luật
thương mại quốc tế
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

TNHH
TAND
BLDS
BLTTDS
CNDKKD
UNCITRAL
(United Nations Commission on
International Trade Law)
ASEAN
(Association of Southeast Asian Nations)

4


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội VI(12/1986), Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng lên công cuộc đổi mới
và mở cửa nền kinh tế. Công cuộc này đã đem lại những thành quả to lớn về mặt kinh
tế và xã hội. Nền kinh tế nước ta sau hơn 30 năm đổi mới và mở cửa đã có những

chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng trở nên đa dạng và
phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong
nước mà còn mở rộng tới các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Chính vì vậy, tranh chấp
thương mại là điều không thể tránh khỏi và cần được quan tâm giải quyết kịp thời.
Pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật thương mại Việt Nam nói riêng đã
quy định nhiều hình thức giải quyết tranh chấp như: thương lượng, hòa giải, tòa án hay
trọng tài thương mại. Với những quy định của pháp luật hiện hành đã góp phần giải
quyết các tranh chấp trong quan hệ thương mại một cách nhanh chóng, bảo vệ quyền lợi
và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế
và xu thế hội nhập quốc tế, tranh chấp cũng ngày càng nhiều và mức độ ngày càng phức
tạp. Trước tình hình đó, vấn đề đặt ra là cần phải lựa chọn phương thức giải quyết tranh
chấp nào cho phù hợp vì phương thức giải quyết ấy có tầm quan trọng đặc biệt, nó có
thể quyết định đến mức độ thiệt hại của doanh nghiệp khi một thương vụ bị đổ bể.
Hiện nay, không có phương thức giải quyết tranh chấp nào chiếm vị thế tuyệt
đối cả, Tuy nhiên, căn cứ vào những ưu điểm vượt trội thì trọng tài thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại được các thương nhân sử dụng một
cách phổ biến. Đã xuất hiện trên thế giới từ lâu, nhưng tại Việt Nam, các chủ thể kinh
doanh chỉ biết đến phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại từ
những năm 1960. Trong suốt hơn 50 năm tồn tại, các tổ chức trọng tài thương mại Việt
Nam cũng như phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài dần
trưởng thành theo sự chuyển đổi, phát triển của đất nước. Từ những năm 1990, Việt
Nam phát triển kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu thương mại với nhiều quốc gia
trên thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội giao dịch thương mại với các
đối tác nước ngoài nên đã làm quen và sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài nhiều hơn trước. Nhưng các doanh nghiệp vẫn còn e ngại khi chọn trọng
tài thương mại để giải quyết tranh chấp thuộc lĩnh vực thương mại, một mặt do hiểu
biết hạn chế, mặt khác do hệ thống pháp luật về trọng tài thương mại của Việt Nam
còn nhiều bất cập. Mặc dù vậy, với tốc độ phát triển như hiện nay của kinh tế thị
trường, giới luật gia quốc tế và trong nước đều cho rằng giải quyết tranh chấp thương
mại qua trọng tài thương mại là một phương thức có nhiều ưu điểm, ngày càng ưa

1


chuộng và phát triển. Cũng vì vậy mà hoàn thiện hành lang pháp lý về trọng tài thương
mại đang được coi là một trong những mục tiêu hàng đầu trong nỗ lực tạo điều kiện để
phát triển trọng tài thương mại nói riêng và hỗ trợ có hiệu quả hoạt động kinh doanh
thương mại nói chung ở nước ta. Đây cũng chính là lý do tôi lựa chọn đề tài “Pháp
luật về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại - Thực tiễn
thực hiện tại công ty TNHH Kuroda Kagaku.”
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
a. Trong nước
Các nghiên cứu trong nước đã có sự quan tâm nhất định đến vấn đề trọng tài
thương mại, vì vậy có rất nhiều bài viết bình luận đến vấn đề này. Chẳng hạn như cuốc
sách “Giải quyết tranh chấp hợp đồng – Những điều doanh nhân cần biết” (do Trung
tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) biên soạn, nhà xuất bản tri thức xuất bản).
Cuốn sách gồm 100 chủ đề được sắp xếp theo thứ tự từ vấn đề chung tới vấn đề riêng
liên quan đến hợp đồng thương mại cũng như tranh chấp xảy ra và cách thức giải
quyết nó. Cuốn sách đã cô đọng những kiến thức cơ bản về giải quyết tranh chấp trong
thương mại. Tuy nhiên, cuốn sách trình bày nhiều đến vấn đề liên quan đến phương
thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án là nhiều mà chưa có sự quan tâm nhiều đến vấn
đề trọng tài thương mại.
Luận văn thạc sỹ: “Thủ tục tố tụng của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam”
Hoàng Thanh Giang, luận văn đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận, nghiên cứu thủ tục tố tụng của
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, phân tích thực tiễn áp dụng các quy định về thủ
tục tố tụng của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, đánh giá những kết quả, hạn chế và
chỉ ra các nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định về thủ tục
tố tụng của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, từ đó, đề xuất những giải pháp có cơ
sở lý luận và phù hợp với thực tiễn nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục tố tụng trọng tài,
Quy tắc tố tụng trọng tài, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp thương mại tại Trung
tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam. Tuy vậy, luận văn chưa nêu được những bất cập của quy

định pháp lý hiện hành trong vấn đề thủ tục tố tụng trọng tài.
b. Nước ngoài
Ở nước ngoài, trong số các các công trình nghiên cứu về trọng tài, giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài, tiêu biểu có công trình của các tác tác giả sau đây:
Công trình của tác giả Gary B.Born có nhan đề: “International commercial
arbitration”, bao gồm 02 phần: Phần thứ nhất nghiên cứu về lịch sử hình thành trọng
tài thương mại quốc tế và phần thứ hai phân tích về hoạt động giải quyết các tranh
chấp về hợp đồng quốc tế của trọng tài quốc tế, trong đó nhấn mạnh về thủ tục tố tụng
khi tranh tụng tại các tổ chức trọng tài thương mại quốc tế.

2


Tại các nước Anh, Mỹ thì việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
rất phổ biến bởi những ưu điểm vượt trội của nó. Vì vậy, có rất nhiều cuốn sách nổi
tiếng viết về đề tài trọng tài thương mại, chẳng hạn cuốn sách “A Guide to the
UNCITRAL Arbitration Rules” ( C.Croft, C.Kee and J.Waincymer (2013)). Cuốn sách
đã cung cấp một cái nhìn tổng quan vững chắc của các quy tắc trọng tài UNCITRAL,
phân tích từng Điều của các quy tắc và đưa bình luận hữu ích. Tuy nhiên cuốn sách chỉ
chủ yếu phân tích về quy tắc trọng tài UNCITRAL mà không có cái nhìn tổng quan
chung về vấn đề phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài này.
Cuốn sách “Arbitration Advocacy in Changing Times” (A.J van den Berg
(2011)). Cuốn sách này bao gồm các bài luận của các trọng tài khác nhau đến từ quốc
tế, tập trung vào các chủ đề có liên quan đến vận động trọng tài như phát hiện, việc sử
dụng các phương tiện truyền thông cho các tranh chấp nhất định, chuẩn bị chứng kiến,
và sự điều chỉnh và làm rõ quyết định trọng tài. Cuốn sách là sự tổng hợp các bài luận
của các trọng tài viên vì vậy nó là sự bình luận chủ quan của từng người mà không có
cái nhìn khách quan tổng thể tới vấn đề pháp lý liên quan đến trọng tài thương mại.
3. Xác lâp và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu trong đề tài khóa luận là nghiên cứu những quy định cũng

như thực trạng của pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại và thực tiễn áp dụng chúng ở các doanh nghiệp nói chung và công ty
Kuroda Kagaku nói riêng. Cụ thể là:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về hoạt động giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại để có thể hiểu một cách cơ bản nhất về khái niệm, đặc
điểm, vai trò cũng như ưu nhược điểm của trọng tài thương mại trong thực tiễn thực hiện.
Thứ hai, bài khóa luận đã tập trung nghiên cứu về các quy định của pháp luật
hiện hành điều chỉnh trực tiếp hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại. Từ những tìm hiểu, nghiên cứu đó sẽ tạo điều kiện tốt để đánh giá một cách đúng
đắn về ưu điểm đã đạt được khi thực hiện pháp luận về trọng tài thương mại cũng như
phân tích được những bất cập, hạn chế còn tồn tại của pháp luật từ thực tế áp dụng.
Thứ ba, từ những phân tích và đánh giá đó sẽ đưa ra các giải pháp, kiến nghị
mang tính định hướng để hoàn thiện và phát triển tốt nhất hệ thống pháp luật.
4. Đối tượng mục tiêu, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định hiện hành của pháp luật Việt
Nam đối với phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và việc thực hiện các
quy định pháp luật này thực tiễn. Các quy định của pháp luật đối với trọng tài hiện nay
bao gồm những quy định về thẩm quyền của trọng tài thương mại, các hình thức trọng
tài, tổ chức trọng tài, trọng tài viên; trình tự, thủ tục trọng tài; quyền, nghĩa vụ và trách
3


nhiệm của các bên trong tố tụng trọng tài; thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động
trọng tài; tổ chức và hoạt động của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, thi hành phán
quyết trọng tài.
Mục đích nghiên cứu đề tài là phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về
phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Từ đó, phân tích được thực trạng
thực hiện quy định nhằm đưa ra kiến nghị hoàn thiện hơn để xây dựng tốt hành lang
pháp lý góp phần phát triển đất nước. Qua đề tài này, tôi hi vọng sẽ góp được phần nhỏ
trong việc tìm hiểu giải pháp để giải quyết các vấn đề còn tồn tại trong các quy định

của pháp luật Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định pháp luật về điều kiện để có thể
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng như các quy tắc, thẩm quyền và thủ tục giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài được quy định tại Luật trọng tài thương mại 2010 và
nghị định hướng dẫn thi hành luật thương mại cũng như các văn bản pháp luật khác có
liên quan như Bộ Luật dân sự (sau đây viết tắt là BLDS), Bộ Luật tố tụng dân sự (sau
đây viết tắt là BLTTDS)
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh;
đường lối của Đảng về Nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài
luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: lịch
sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn logic… Cụ thể như
Thứ nhất, phương pháp thu thập dữ liệu:
Đối với những dữ liệu sơ cấp, tiến hành thu thập bằng cách tìm hiểu các văn bản
quy phạm pháp luật, cụ thể là Luật Trọng tài thương mại 2010, và các văn bản hướng
dẫn thi hành dưới luật; thu thập bằng cách quan sát, trao đổi đối với các nhân viên tại
đơn vị thực tập để có thông tin. Đối với những dữ liệu thứ cấp, tiến hành thu thập bằng
cách tìm hiểu, tra cứu đối với các bài viết hay các công trình nghiên cứu liên quan.
Đặc biệt phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong Chương I để có thể nghiên cứu
phân tích rõ ràng những quy định của pháp luật.
Thứ hai, phương pháp phân tích – tổng hợp.
Từ những thông tin dữ liệu pháp lý liên quan đã thu thập được trong quá trình
nghiên cứu tiến hành tập trung phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Từ kết quả phân tích đó, tổng hợp đánh
giá một cách khách quan, có dẫn chứng thực trạng của pháp luật điều chỉnh về giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại nhằm định hướng đề xuất các giải pháp
cần hoàn thiện pháp luật. Bên cạch đó tiến hành nhận xét chung về thực tiễn thực hiện
4



pháp luật về trọng tài thương mại nói chung ở các doanh nghiệp và thực tiễn tại công
ty TNHH Kuroda Kagaku nói riêng.
Đồng thời, việc nghiên cứu còn dựa vào số liệu thống kê hàng năm của Trung
tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam và các vụ việc trong thực tiễn xét xử, cũng như thông
tin trên mạng Internet để tổng hợp và làm sáng tỏ các tri thức khoa học luật kinh tế và
luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,… khóa
luận được chia làm ba chương.
Chương I: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Chương II: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về phương thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại.
Chương III: Những bất cập và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.

5


CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của trọng tài thương mại.
a. Khái niệm
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp khá phổ biến trên thế
giới, nhất là tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. tại Việt Nam, tuy mới
được hình thành nhưng trọng tài cũng được khuyến khích sử dụng trong một loạt các
đọa luật như Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp,… Hiện nay, đã có
Luật Trọng tài 2010 quy định khá chi tiết về trọng tài, trình tự giải quyết tranh chấp

bằng trọng tài. Theo khoản 1 điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì “Trọng
tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được
tiến hành theo quy định của Luật này”.
Như vậy ta có thể hiểu trọng tài thương mại là hình thức tài phán mà quyền lực
của nó được tạo nên bởi chính các bên trong quan hệ tranh chấp thương mại. Tôn trọng
quyền tự định đoạt của các đương sự, pháp luật quy định nguyên tắc loại trừ thẩm
quyền của Tòa án khi các bên đã lựa chọn trọng tài.
b. Đặc điểm
Thứ nhất, trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp được hình thành
do sự thỏa thuận của các bên và được tiến hành theo quy định của pháp luật về
trọng tài. Có thể khẳng định quyền lực của trọng tài không tự nhiên mà có phải xuất
phát tự sự thỏa thuận giữa các bên chủ thể tranh chấp đối với trọng tài. Trong tố tụng
trọng tài, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi các bên tranh chấp có
thỏa thuận lựa chọn trọng tài giải quyết. Nếu không có thỏa thuận trọng tài trước và
sau khi xảy ra tranh chấp về việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp cho mình
hoặc có những thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì trọng tài không có thẩm quyền giải
quyết. Chính các chủ thể tranh chấp, với việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp
cho mình đã trao quyền lực xét xử cho trọng tài. Nói các khác, giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài nhân danh ý chí tối cao của chủ thể tranh chấp mà không nhân danh
quyền lực của Nhà nước. Tiếp nữa là trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông
qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, các
trọng tài viên và các bên đương sự phải tuân thủ đúng trình tự tố tụng mà pháp luật
trọng tài, Điều lệ và Quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó quy định.

6


Thứ hai, trọng tài thương mại là một tổ chức phi Chính phủ. Trọng tài là tổ
chức xã hội - nghề nghiệp do các trọng tài viên tự thành lập nên để giải quyết tranh
chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Trọng tài không phải là cơ quan

xét xử Nhà nước, không do Nhà nước thành lập nên, không hoạt động bằng ngân sách
của Nhà nước. Các trọng tài viên không phải là các viên chức Nhà nước, không do
Nhà nước bổ nhiệm và cũng không hưởng lương từ ngân sách. Khi xét xử trọng tài
không nhân danh Nhà nước để ra phán quyết.
Thứ ba, phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể kháng
cáo trước bất kỳ cơ quan, tổ chức nào. Trọng tài chỉ xét xử một lần, phán quyết có giá
trị chung thẩm, và nếu không bị hủy thì phán quyết sẽ được chuyển sang Cơ quan thi
hành án. Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của tố tụng trọng tài là nhân danh ý chí
và quyền tự định đoạt của đương sự. Các bên đương sự đã lựa chọn và tín nhiệm người
phán xử cho mình thì phải phục tùng quyết định đó. Với nguyên tắc này, một phán
quyết trọng tài sẽ nhanh chóng được thực thi trong thực tiễn, tránh được tình trạng bên
phải thực hiện nghĩa vụ cố tình dây dưa kéo dài thời gian thi hành đồng thời giúp bên
kia có thể sớm khắc phục những thiệt hại về tiền, tài sản do bên vi phạm gây ra.
Thứ tư, trọng tài thường nhận được sự hỗ trợ của cơ quan có quyền lực nhà
nước trong quá trình tố tụng. Chẳng hạn như các hỗ trợ của Tòa án trong việc ra
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thông qua trình tự, thủ tục công nhận
và cho thi hành quyết định của trọng tài thương mại...
c. Một số ưu điểm, hạn chế của trọng tài thương mại
 Ưu điểm.
Hiện nay trọng tài thương mại được xem như là một phương thức giải quyết
tranh chấp được ưa chuộng nhất, đặc biệt là trong lĩnh vựa kinh doanh thương mại bởi
trọng tài không những khắc phục được những nhược điểm của các phương thức khác
như thương lượng, hòa giải, Tòa án mà còn có khả năng phát huy tối đa ưu điểm của
các phương thức đó.
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đảm bảo sự tối đa quyền tự do
thỏa thuận của các bên. Khác với Tòa án, trọng tài không bị ràng buộc bởi nguyên tắc
lãnh thổ nên các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài của nước nào để giải
quyết tranh chấp cho mình, bất kỳ họ ở đâu, trong nước hay nước ngoài đồng thời các
bên có quyền thỏa thuận lựa chọn trọng tài viên có chuyên môn, nghiệp vụ, lựa chọn
quy tắc, thủ tục tố tụng, lựa chọn ngôn ngữ, thời gian, địa điểm,… giải quyết tranh

chấp. Thủ tục trọng tài đơn giản, nhanh chóng, các bên có thể chủ động về thời gian,
địa điểm giải quyết tranh chấp, không trải qua nhiều cấp xét xử như ở toà án, cho nên
hạn chế tốn kém về thời gian và tiền bạc cho doanh nghiệp.
7


Thứ hai, nguyên tắc trọng tài xét xử không công khai, phần nào giúp các bên
giữ được uy tín trên thương trường. Các nhà kinh doanh tham gia vào tranh chấp luôn
e ngại rằng tranh chấp liên quan đến bí mật kinh doanh thương mại, các khuyết điểm
của hàng hóa sự kém chất lượng của sản phẩm sẽ bị xét sử dưới sự theo dõi của công
luận vì điều này ảnh hưởng xấu đến công việc kinh doanh của họ trong tương lai. Vì
vậy, với nguyên tắc xét xử kín, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài sẽ giúp các bên
tách rời khỏi sự chú ý của công luận, đảm bảo bí mật của tranh chấp. Đây được coi là
ưu điểm được các bên tranh chấp ưa chuộng nhất.
Thứ ba, trọng tài luôn có hẳn một khung pháp lý riêng điều chỉnh, trong đó
pháp luật trọng tài thương mại được coi trung tâm, là “sương sống” của pháp luật về
trọng tài thương mại nên quyết định của trọng tài nếu các bên không tự nguyện thi
hành thì có thể yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cưỡng chế thi hành. Tuy là
tổ chức phi chính phủ nhưng trọng tài lại được sự đảm bảo, hỗ trợ về mặt pháp lý của
Tòa án. Trong khi đó, hoạt động thương lượng, hòa giải ở nước ta hiện nay hoàn toàn
mang tính tự phát, theo truyền thống chưa có sự tổng kết lý luận, chưa có văn bản pháp
luật nào điều chỉnh quá trình thương lượng, hòa giải. Quyền thương lượng hòa giải
xuất phát từ quyền tự do hợp đồng và quyền tự do định đoạt được Hiến pháp và pháp
luật quy định. Do đó, giá trị của kết quả thương lượng, hòa giải không được xác định
rõ ràng thường bị các bên lợi dụng để kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ. Trên thực
tế, việc thực hiện kết quả thương lượng, hòa giải hoàn toàn phụ thuộc và thiện chí của
các bên nên trong nhiều trường hợp thính khả thi không cao.
Thứ tư, trọng tài khi giải quyết tranh chấp nhân danh ý chí của các bên, không
nhân danh quyền lực tự pháp của nhà nước, nên rất phù hợp để giải quyết các tranh
chấp có nhân tố nước ngoài.

 Nhược điểm.
Mặc dù có những ưu điểm vượt trội so với các phương thức giải quyết tranh
chấp khác nhưng phương thức trọng tài vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định, đó là:
Đầu tiên, trọng tài không phải cơ quan quyền lực nhà nước nên khi xét xử, trong
trường hợp cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo chứng cớ, trọng
tài không thể ra quyết định mang tính chất bắt buộc về điều đó mà phải yêu cầu Tòa án
thi hành các phán quyết trọng tài.
Tiếp nữa, việc thực hiện các quyết định của trọng tài hoàn toàn phụ thuộc vào ý
thức tự nguyện của các bên. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, uy tín của doanh
nghiệp được đặt lên hàng đầu do đó việc họ tự giác thực hiện các quyết định của trọng
tài khá cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước hiện nay vẫn chưa coi trọng việc
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nên vẫn chưa có ý thức tự nguyện thực hiện.
8


Ngoài ra, phí giải quyết thường cao hơn với cơ chế giải quyết bằng Tòa án.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cho thấy chi phí trọng tài thường ấn
định trước, nhất là những tranh chấp được giải quyết tại các trung tâm trọng tài thường
có cả biểu phí được quy định sẵn và biểu phí này thường cao hơn nhiều so với các cơ
chế giải quyết tranh chấp bằng Tòa án hay thương lượng, hòa giải mà không phải chủ
thể tranh chấp nào cũng có khả năng đáp ứng dù họ rất muốn được giải quyết tranh
chấp tại trọng tài.
1.1.2. Khái niệm về pháp luật điều chỉnh phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thương mại
Pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là
tổng thể những quy phạm pháp luật quy định nhằm điều chỉnh về việc giải quyết tranh
chấp của các bên bằng trọng tài, đó là những quy định pháp luật về thẩm quyền của
trọng tài thương mại, các hình thức trọng tài, tổ chức trọng tài, trọng tài viên; trình tự,
thủ tục trọng tài, thi hành phán quyết trọng tài,…
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đã được sử dụng ở Việt Nam từ

rất lâu. Cùng với sự tồn tại của hệ thống trọng tài kinh tế Nhà nước là sự tồn tại của
trọng tài phi chính phủ trong suốt hơn mấy chục năm qua, thậm chí khi hệ thống trọng
tài kinh tế Nhà nước đã chấm dứt sứ mạng lịch sử của nó vào năm 1994, trọng tài phi
chính phủ vẫn phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường. Mặc dù là tổ
chức phi chính phủ, tuy nhiên các cơ quan trọng tài thương mại vẫn nằm trong sự quản
lý của pháp luật. Đã có riêng một cơ chế pháp lý dành riêng cho hoạt động giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài. Tiêu biểu là Luật Trọng tài thương mại 2010 và văn bản
nghị định hướng dẫn thi hành nó.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh về giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại ở Việt Nam
1.2.1.Cơ sở ban hành pháp luật điều chỉnh về giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại
Thứ nhất, về bối cảnh kinh tế-xã hội Việt Nam và quốc tế. Nền kinh tế nước ta
sau hơn ba mươi năm đổi mới và mở cửa đã có những chuyển biến tích cực, hợp tác và
giao lưu thương mại ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Các doanh nghiệp ngày
càng có điều kiện được thành lập với nhiều hình thức khác nhau và càng nhiều ngành
nghề khác nhau thì việc liên kết, hợp tác hay thậm chí là cạnh tranh nhau đang ngày
càng trở nên phổ biến, đặc biệt khi Việt Nam hợp tác giao lưu tham gia vào trị trường
quốc tế. Bên cạnh những hợp đồng hợp tác, những giao kết “thuận buồm xuôi gió” vẫn
còn tồn tại khá nhiều những mâu thuẫn, bất đồng thậm chí vi phạm quyền lợi lẫn nhau
giữa các doanh nghiệp”. Hơn lúc nào hết, tranh chấp và giải quyết tranh chấp đang là
9


vấn đề “nổi cộm” của nền kinh tế thế giới hiện nay. Pháp luật hoàn toàn cho phép các
nhà kinh doanh, các cá nhân, tổ chức có quyền được lựa chọn mô hình mà mình yêu
thích để giải quyết những tranh chấp phát sinh. Chính điều này đã tạo cơ sở cho sự ra
đời của các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, mà phương thức có vị trí quan
trọng nhất trong số đó là giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Do đó, ở các nước trên
thế giới, ngoài toà án, đều có một cơ quan tài phán khác là trọng tài.

Thứ hai, về cơ sở pháp lý, luật trọng tài thương mại được ban hành theo cơ sở của
Hiến pháp. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Hiến pháp có vị trí đặc biệt quan trọng
và được quy định Khoản 1 Điều 119 Hiến pháp 2013“Hiến pháp là luật cơ bản của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản
pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp”. Hiến pháp là nguồn, là căn cứ để ban
hành luật, pháp lệnh, nghị quyết và các văn bản khác thuộc hệ thống pháp luật: Tất cả
các văn bản khác không được trái với Hiến pháp mà phải phù hợp với tinh thần và nội
dung của Hiến pháp, được ban hành trên cơ sở quy định của Hiến pháp và để thi hành
Hiến pháp. Và tất nhiên văn bản pháp luật quy định về trọng tài thương mại cũng phải
phù hợp với quy định này, nếu không văn bản ấy sẽ bị đình chỉ việc thi hành hoặc bãi
bỏ.
Tiếp nữa là pháp luật về trọng tài thương mại của Việt Nam cần tuân thủ đúng
các nguyên tắc cơ bản của luật mẫu về Trọng tài Thương mại Quốc tế UNCITRAL làm
cơ sở để xây dựng luật về trọng tài của quốc gia mình, thừa nhận các nguyên tắc cơ
bản của trọng tài đã được áp dụng rộng rãi ở các nước và phải đáp ứng được yêu cầu
của hoạt động kinh doanh như bí mật, linh hoạt, nhanh gọn.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại
a. Nội dung pháp luật về điều kiện để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại
Điều kiện tiên quyết và duy nhất để có thể tiến hành thủ tục giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại đó chính là phải có thỏa thuận trọng tài thương mại,
theo Khoản 1 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định:
“Điều 5. Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
1. Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng
tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.”
Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì:
“Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài
tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”. Như vậy có thể hiểu khái quát thỏa
thuận trọng tài thương mại là một thỏa thuận bằng văn bản, theo đó các bên kí kết nhất

trí đưa tất cả hoặc một số tranh chấp đã hoặc có thể phát sinh từ giao dịch thương mại
10


có khả năng được áp dụng trọng tài ra giải quyết bằng con đường trọng tài
 Về hình thức của thỏa thuận trọng tài
Điều 16 Luật Trọng tài thương mại 2010 đã quy định, theo đó thỏa thuận trọng
tài có thể tồn tại dưới một trong hai hình thức:
Điều khoản trong hợp đồng: Các bên kí kết hợp đồng đồng thời ghi nhận luôn
về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là một điều khoản trong hợp
đồng đó.
Thỏa thuận riêng: Các bên kí kết hợp à ghi nhận thỏa thuận này trong một văn
bản hoàn toàn tách biệt với tên gọi thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại hợp đồng đã kí trước đó.
Mặt khác, thỏa thuận trọng tài thương mại không thể tồn tại dưới hình thức lời
nói hoặc hành vi mà phải được xác lập dưới hình thức văn bản, bao gồm cả:
- Thỏa thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex,
thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật
- Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi
chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
- Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận
trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;
- Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của
thỏa thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.
 Về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
 Thỏa thuận trọng tài không vô hiệu.
Điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định cụ thể sáu trường hợp thỏa
thuận trọng tài được xem là vô hiệu.Bên cạnh đó, vấn đề này còn được quy định tại
Điều 3 Nghị quyết 01/2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo
đó, thỏa thuận trọng tài được coi là có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:

Thứ nhất, đối tượng của thỏa thuận trọng tài (Khoản 1 Điều 18 Luật Trọng tài
thương mại 2010, Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết 01/2014): Thỏa thuận trọng tài chỉ được
xem là có hiệu lực khi có tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền
giải quyết của trọng tài thương mại: Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động
thương mại; Tranh chấp giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt động thương
mại; Tranh chấp khác theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, về chủ thể kí kết thỏa thuận trọng tài, theo quy định tại Khoản 2,
Khoản 3 Điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010 thì trường hợp bên tranh chấp là
doanh nghiệp tư nhân thì người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài cho doanh
nghiệp tư nhân đó là chủ doanh nghiệp tư nhân với tư cách là người đại diện theo pháp
11


luật hoặc người khác do chủ doanh nghiệp ủy quyền. Đối với bên tranh chấp là công ty
các loại thì người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài cho công ty đó là người
đại diện theo pháp luật cho công ty hoặc người đại diện theo pháp luật ủy quyền. Đối
với công ty hợp doanh thì người đại diện là bất kỳ thành viên hợp danh nào.
Thứ ba, thỏa thuận trọng tài không vi phạm về hình thức. Thỏa thuận trọng
tài phải thực hiện theo đúng quy định về hình thức tại Điều 16 Luật Trọng tài
thương mại 2010
Thứ tư, về nguyên tắc xác lập thỏa thuận trọng tài (Khoản 5 Điều 18 Luật
Trọng tài thương mại 2010, Khoản 5 Điều 3 Nghị quyết 01/2014): Thỏa thuận trọng tài
phải được xác lập dựa trên nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận. Nghĩa là ý chí và sự thể
hiện ý chí của các bên phải có sự thống nhất với nhau. Nói một cách cụ thể, nó phải
được xác lập mà không thuộc trường hợp một trong các bên bị đe dọa, lừa dối, cưỡng
ép.
Thứ năm, về nội dung, mục đích của thỏa thuận trọng tài (Khoản 6 Điều 18
Luật Trọng tài thương mại 2010, Khoản 6 Điều 3 Nghị quyết 01/2014): Thỏa thuận
trọng tài chỉ được xem là có hiệu lực khi không vi phạm điều cấm của pháp luật
(Khoản 6 Điều 18) và không trái đạo đức xã hội (Điều 4 Luật trọng tài thương mại

2010).
 Thỏa thuận trọng tài thương mại có thể thực hiện được. Vấn đề này được
quy định tại Khoản 3,4,5 Điều 43 Luật Trọng tài thương mại 2010, đặc biệt Điều 4
Nghị quyết 01/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định cụ thể
như : Các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài cụ
thể nhưng Trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng
tài kế thừa và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trung tâm trọng tài khác
để giải quyết tranh chấp; Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lực chọn Trọng tài
viên trọng tài vụ việc nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng
hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp
hoặc Trung tâm trọng tài, Tòa án không thể tìm được Trọng tài viên như các bên thỏa
thuận và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác thay thế;
 Xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài thương mại: Thẩm quyền xem
xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài thuộc về Hội đồng trọng tài. Trong trường hợp
Hội đồng trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo sự thỏa thuận của các bên
xem xét thỏa thuận trọng tài, xét thấy thỏa thuận đó có hiệu lực thì Hội đồng trọng tài
tiến hành giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp xét thấy thỏa thuận đó không có
hiệu lực (Vô hiệu hoặc không thể thực hiện được) thì Hội đồng trọng tài ra quyết định
đình chỉ giải quyết và thông báo ngay cho các bên biết.
12


b. Tiêu chuẩn trọng tài viên
Trọng tài viên là người được các bên lựa chọn hoặc được Trung tâm trọng tài
hoặc Tòa án chỉ định để giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật Trọng tài thương
mại 2010.
Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định tiêu chuẩn trọng tài viên trọng tài thương
mại như sau:
“1. Những người có đủ các tiêu chuẩn sau đây có thể làm Trọng tài viên:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật dân sự;

b) Có trình độ đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ 5 năm
trở lên;
c) Trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có
nhiều kinh nghiệm thực tiễn dù không đáp ứng được yêu cầu tại điểm b cũng có thể
được chọn là trọng tài viên…”
Ngoài các tiêu chuẩn trên, các trung tâm trọng tài có thể quy định thêm các tiêu
chuẩn cao hơn. Tuy nhiên cũng có các trường hợp mà những người có đủ tiêu chuẩn
quy định trên cũng không được làm trọng tài viên, đó là các trường hợp: Người đang
là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, công chức thuộc Tòa án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án; hoặc người
đang là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự hoặc đã chấp hành xong bản
án nhưng chưa được xóa án tích.
c. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
Đặc trưng của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là
thẩm quyền giải quyết tranh chấp vụ việc của trọng tài cụ thể được xác lập trên cơ sở
và trong phạm vi thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, thẩm quyền vụ việc mà các bên
trao cho trọng tài cũng không được vượt quá thẩm quyền chung của trọng tài theo luật
định tại Luật trọng tài 2010. Điều 2 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định ba nhóm
vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại, cụ thể:
Thứ nhất, “tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại”. Tranh
chấp này đòi hỏi các bên trong tranh chấp đều phải có hoạt động thương mại, mà tiêu
chí nhận diện hoạt động thương mại theo Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 là
mục đích sinh lời.
Thứ hai, “tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có
hoạt động thương mại”. Với quy định này, chỉ cần một bên trong tranh chấp có hoạt
động thương mại, bên còn lại có thể tham gia quan hệ với các mục đích phi lợi nhuận
như tiêu dùng, nhu cầu cá nhân,…
13



Thứ ba, “tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định phải giải quyết
bằng trọng tài”. Trong trường hợp này, tiêu chí hoạt động thương mại thậm chí còn
không được đặt ra, mà chỉ cần trong pháp luật chuyên ngành có quy định tranh chấp có
thể giải quyết bằng trọng tài thương mại. Ví dụ: Trọng tài có thể được sử dụng để giải
quyết tranh chấp trong nội bộ công ty, như theo quy định tại khoản 1 điều 107 Luật
Thương mại 2005: “Khi trình tự và thủ tục triệu tập họp đại hội đồng cổ đông không
thực hiên theo đúng quy định của Luật và Điều lệ công ty” thì “cổ đông, thành viên
Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Ban kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa
án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông”.
Mặt khác, theo quy định tại điều 6 Luật Trọng tài thương mại 2010: “Trong
trường hợp các bên tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại
Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu
hoặc thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được”. Do đó, Khi các bên đã thỏa
thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài, họ trao cho hội đồng trọng tài
thẩm quyền giải quyết tranh chấp và phủ định thẩm quyền xét xử đó của tòa án trừ khi
thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc các bên hủy thỏa thuận trọng tài.
d. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
Khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định:“Trọng tài thương
mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành
theo quy định của pháp luật ”.Thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài
thương mại bao gồm:
Bước 1: Nộp đơn kiện và thụ lý đơn kiện
Bước đầu của quá trình tố tụng trọng tài, nguyên đơn phải gửi đơn kiện đến
trung tâm trọng tài hoặc trọng tài viên. Đơn kiện phải đáp ứng đầy đủ các thông tin
quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 30 Luật trọng tài thương mại. Một trong những nội
dung quan trọng của đơn kiện là nguyên đơn chỉ ra cụ thể thông tin về người được
nguyên đơn chọn làm trọng tài viên. Cùng theo đơn kiện các bên cần gửi theo bản thỏa
thuận trọng tài, đây là tài liệu quan trọng để trung tâm trọng tài đánh giá tranh chấp có
được thụ lí hay không. Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ khi nhận được đơn kiện,
trung tâm trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện của nguyên đơn và những

chứng cớ tài liệu mà nguyên đơn đã gửi.
Bước 2: Bị đơn nộp bản tự bảo vệ ( Điều 35 Luật trọng tài thương mại 2010)
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kiện và các tài liệu liên quan,
bị đơn có trách nhiệm gửi cho trung tâm trọng tài hoặc bị đơn bản tự bảo vệ, nếu trung
tâm trọng tài không có quy định khác. Và bị đơn cũng có quyền kiện ngược lại nguyên
đơn, thời gian và hình thức cũng tương tự nguyên đơn khởi kiện, nếu như bị đơn thấy
14


như các nội dung mà nguyên đơn khởi kiện là không đúng.
Bước 3: Thành lập hội đồng trọng tài, lựa chọn trọng tài viên (Theo Điều 39
Luật Trọng tài thương mại 2010
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và yêu cầu chọn
Trọng tài viên, bị đơn phải chọn phải chọn các Trọng tài viên. Trong trường hợp vụ
tranh chấp có nhiều bị đơn thì các bị đơn thống nhất chọn một Trọng tài viên trong
thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Trọng tài viên được các bên lựa chọn các
trọng tài viên phải chọn Trọng tài viên thứ ba bầu làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài.
Bước 4: Hòa giải
Trong tố tụng trọng tài, hòa giải không phải là nguyên tắc, là thủ tục bắt buộc
song hội đồng trọng tài vẫn phải tôn trọng việc tự hòa giải của các bên. Mặc dù đã có
đơn yêu cầu trọng tài giải quyết, các bên vẫn có thể tự hòa giải. Nếu các bên tự hòa
giải được với nhau thì theo yêu cầu của các bên, hội đồng trọng tài sẽ đình chỉ tố
tụng.Trong trường hợp hòa giải thành thì các bên có thể yêu cầu hội đồng trọng tài lập
biên bản hòa giải thành và ra quyết định công nhận hòa giải thành. Biên bản hoà giải
thành phải được các bên và các Trọng tài viên ký. Quyết định công nhận hoà giải
thành của Hội đồng Trọng tài là chung thẩm và được thi hành.
Bước 5: Tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp và quyết định trọng tài
Thời gian tiến hành, địa điểm giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận.
Trong trường hợp các bên không thỏa thuận thì chủ tịch hội đồng trọng tài quyết định

thời gian mở phiên họp giải quyết tranh chấp và phải gửi giấy triệu tập cho các bên
đương sự tham gia phiên họp chậm nhất là 30 ngày trước nhày mở phiên họp. Các bên
có thể trực tiết tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp hoặc cử đại diện của mình,
nếu bị đơn đã được gửi giấy triệu tập mà vắng mặt không có lí do thì phiên họp vẫn
được tiến hành, các bên đương sự cũng có thể yêu cầu hội đồng trọng tài hoãn phiên
họp giải quyết tranh chấp nếu có lí do chính đáng.
Kết thúc quá trình giải quyết tranh chấp hội đồng trọng tài phải đưa ra phán quyết
trọng tài. Quyết định trọng tài được biểu quyết theo nguyên tắc đa số, nếu vụ tranh chấp
do trọng tài viên duy nhất giải quyết thì trọng tài viên này quyết định. Quyết định của
trọng tài phải đảm bảo về nội dung và hình thức theo quy định của luật này.
e. Phán quyết của trọng tài thương mại
Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài bằng cách biểu quyết theo nguyên tắc
đa số.Trường hợp biểu quyết không đạt được đa số thì phán quyết trọng tài được lập
theo ý kiến của Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Quyết định của trọng tài phải đảm bảo về
nội dung và hình thức theo quy định của luật này. Phán quyết Trọng tài có tính chung
15


thẩm, kể từ ngày ban hành.
 Đăng kí hủy phán quyết của trọng tài thương mại
Theo yêu cầu của một hoặc các bên tranh chấp, phán quyết của Trọng tài vụ
việc được đăng ký tại Tòa án nơi Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết trước khi yêu
cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ chức thi hành phán quyết trọng tài
đó. Tuy nhiên, việc đăng ký hoặc không đăng ký phán quyết trọng tài không ảnh
hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài. Trong thời hạn 01 năm,
kể từ ngày ban hành phán quyết trọng tài, bên yêu cầu đăng ký phán quyết trọng tài vụ
việc phải gửi đơn xin đăng ký phán quyết trọng tài tới Tòa án có thẩm quyền
Bên yêu cầu phải chịu trách nhiệm về tính xác thực của các tài liệu gửi cho Tòa
án. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn xin đăng ký phán
quyết, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm phán xem xét đơn đăng ký phán

quyết. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải kiểm tra
tính xác thực của các tài liệu gửi kèm theo đơn và thực hiện việc đăng ký. Trường hợp
xác định phán quyết trọng tài không có thật thì Thẩm phán từ chối đăng ký, trả lại đơn
yêu cầu và các tài liệu kèm theo và phải thông báo ngay cho bên có yêu cầu biết, đồng
thời nêu rõ lý do. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo
của Tòa án, người yêu cầu đăng ký phán quyết trọng tài có quyền khiếu nại với Chánh
án Tòa án về việc từ chối đăng ký phán quyết trọng tài. Trong thời hạn 03 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Chánh án Tòa án phải xem xét và ra quyết định
giải quyết khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án Tòa án là quyết
định cuối cùng.
 Hủy quyết định trọng tài
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài, nếu một bên
có đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một
trong những trường hợp sau, thì có quyền làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền yêu cầu
huỷ phán quyết trọng tài.
Tòa án sẽ xem xét việc hủy phán quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên
và thuộc một trong các trường hợp sau đây:Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa
thuận trọng tài vô hiệu; Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không
phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này; Vụ tranh
chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán quyết trọng tài
có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì nội dung đó bị huỷ;
Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết
là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên
tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài;
16


Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
 Thi hành quyết định trọng tài:
Hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết

không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo quy
định tại Điều 69 của Luật này, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm
đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài.
Đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền làm đơn
yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài sau
khi phán quyết được đăng ký theo quy định tại Điều 62 của Luật này.
f. Cưỡng chế thi hành phán quyết của trọng tài thương mại
Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại có tính ràng buộc các
bên đương sự về mặt pháp lý. Phán quyết trọng tài mang hiệu lực pháp luật, các bên có
nghĩa vụ phải thi hành và không thể bị kháng cáo. Do các bên đương sự đã tự nguyện
lựa chọn và tín nhiệm người phán xử cho mình thì đương nhiên phải phục tùng quyết
định của người đó. Và hơn nữa, bản thân tố tụng trọng tài là tố tụng một cấp và quyết
định trọng tài khi ban hành có giá trị chung thẩm. Do vậy, phán quyết trọng tài là phán
quyết chung thẩm không thể bị kháng cáo, kháng nghị theo bất cứ thủ tục nào. Phán
quyết của trọng tài sẽ được thi hành nếu phán quyết đó là hợp pháp (khi không có đơn
yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, hoặc hội đồng xét xử đã bác đơn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài).
Nếu phán quyết trọng tài không bị tòa án hủy bỏ theo đơn yêu cầu của một
trong các bên, mà bên phải thi hành không tự nguyện thi hành sau thời hạn 30 ngày, kể
từ ngày hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài, bên được thi hành phán quyết trọng
tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành dân sự có thẩm quyền thi hành phán
quyết trọng tài.
Còn trong trường bên phải thi hành phán quyết trọng tài đã không tự nguyện thi
hành trong phán quyết trong thời hạn quy định mà bên được thi hành cũng không làm
đơn yêu cầu đến cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng
tài thì pháp luật về trọng tài cũng không đặt ra chế tài xử lý trong trường hợp này.
1.3. Các nguyên tắc pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại
1.3.1.Nguyên tắc tôn trọng thoả thuận của các bên
Một trong những ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài là

các bên có tranh chấp được đảm bảo tối đa quyền tự do định đoạt trên nhiều phương
diện trong quá trình giải quyết. Các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận với nhau về
nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục giải quyết mà Trọng tài viên phải tôn trọng, nếu
không sẽ dẫn đến hậu quả là quyết định của Hội đồng Trọng tài sẽ bị Tòa án hủy theo
17


yêu cầu của các bên.
Quyền hạn của hội đồng trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp là do các bên
giao cho họ. Các bên thỏa thuận chọn Trung tâm Trọng tài nào và hình thức trọng tài
nào thì chỉ có Trung tâm trọng tài và hình thức trọng tài đó được giải quyết. Các bên
lựa chọn Trọng tài viên nào thì Trọng tài viên đó có quyền giải quyết. Trọng tài thương
mại là hình thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, nên khi giải quyết tranh chấp, trọng tài
viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên về thời gian, địa điểm giải quyết tranh
chấp; về thời hạn thực hiện các thủ tục tố tụng; về giới hạn nội dung vụ tranh chấp nhờ
trọng tài phán quyết.
1.3.2. Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy
định pháp luật
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại 2010 thì Trọng tài
viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân teo quy định của pháp luật. Nguyên tắc
này xuất phát từ chức năng của Trọng tài là cơ quan giải quyết tranh chấp với phán
quyết có giá trị như bản án và trong chừng mực đó phải đáp ứng các yêu cầu về tư
cách như đối với thẩm phán. Mặt khác nguyên tắc này cũng đảm bảo các trọng tài viên
tuân thủ được quy tắc đạo đức nghề nghiệp của mình.
Nguyên tắc này còn đòi hỏi bản thân Trọng tài viên phải từ chối tranh chấp
trong trường hợp mình là người thân thích hoặc là người đại diện của một bên có lợi
ích liên quan trong vụ tranh chấp hoặc đã là hòa giải viên, người đại diện, luật sư của
bất cứ bên nào trước khi đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Trọng tài, trừ trường
hợp được các bên chấp thuận bằng văn bản. Việc Trọng tài viên không đáp ứng các
điều kiện hoặc không tuân thủ các nghĩa vụ theo nguyên tắc này cũng còn là căn cứ để

một bên yêu cầu thay đổi Trọng tài viên đó.
1.3.3. Nguyên tắc các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình Theo khoản 3 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại thì “Các bên tranh
chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều
kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình”. Theo nguyên tắc này thì giữa
các bên có tranh chấp thương mại khi tham gia vào giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài thương mại thì đều có quyền và nghĩa vụ pháp lí ngang nhau. Họ được đảm bảo tối
đa quyền tự do định đoạt trên nhiều phương diện trong quá trình giải quyết. Các bên
có thể lựa chọn trung tâm trọng tài, hình thức trọng tài, trọng tài viên… Và giữa các
bên có thể thỏa thuận với nhau về nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục giải quyết tranh
chấp.
Khi các bên tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng
tài thì Hội đồng trọng tài phải tôn trọng và có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực
18


hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Nếu không sẽ dẫn tới hậu quả là quyết định của
Hội đồng trọng tài sẽ bị Tòa án hủy theo yêu cầu của các bên.
1.3.4. Nguyên tắc xét xử kín, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại 2010 thì giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận khác. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp không công khai được thiết
lập nhằm tạo nên sự hấp dẫn của phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.
Nguyên tắc này đáp ứng yêu cầu giữ bí mật các thông tin được coi là nhạy cảm của
thương nhân xuất phát từ đặc thù của hoạt động thương mại. Việc giải quyết tranh
chấp không công khai có thể giúp giảm thiểu khả năng bí mật kinh doanh bị tiết lộ ra
ngoài khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Mặt khác việc xét xử không công
khai cũng có thể giảm thiểu các tác động bất lợi phát sinh từ việc tranh chấp đến uy tín
của thương nhân. Đây là yếu tố mà trong thực tiễn thường được các bên cân nhắc khi

thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.Nguyên tắc giải quyết tranh chấp
không công khai không chỉ đòi hỏi phiên họp giải quyết tranh chấp được tiến hành
không công khai và Hội đồng trọng tài chỉ được cho phép người khác tham dự phiên
họp trong trường hợp được sự đồng ý của các bên mà còn đòi hỏi Trọng tài viên phải
giữ bí mật nội dung vụ tranh chấp mà mình giải quyết, trừ trường hợp phải cung cấp
thông tin cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
1.3.5. Nguyên tắc chung thẩm
Theo quy định tại Khoản 5 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại 2010 thì phán
quyết trọng tài là chung thẩm. Điều đó có nghĩa là phán quyết trọng tài không thể bị
kháng cáo để xét xử lại bởi bất kỳ một Trọng tài hay Tòa án nào khác. Quy định này
không chỉ bao hàm “phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài giải
quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài” mà còn cả quyết
định của Hội đồng trọng tài về việc công nhận sự thỏa thuận của các bên trong quá
trình tiến hành tố tụng trọng tài.
Phán quyết trọng tài là chung thẩm, không được xét xử lại, bởi vậy các bên
tranh chấp chỉ có thể loại bỏ phán quyết trọng tài trong một số ít trường hợp bằng cách
yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Tính chất chung thẩm của phán quyết trọng tài là
nguyên tắc luật định, nên các bên tranh chấp không cần thỏa thuận điều đó. Một điều
khoản như vậy trong thỏa thuận trọng tài chỉ có ý nghĩa biểu lộ sự sẵn sàng chấp nhận
phán quyết trọng tài của các bên.

19


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ PHƯƠNG
THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
2.1. Tổng quan về tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề pháp luật
điều chỉnh phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
2.1.1.Tổng quan chung về tình hình pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại

Ngày 25/02/2003, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Trọng tài
thương mại, thể hiện nỗ lực hội nhập to lớn của Việt Nam cũng như đánh dấu giai
đoạn chuyển tiếp trong quá trình phát triển của pháp luật trọng tài ở nước ta. Pháp lệnh
mang ý nghĩa quan trọng về mặt điều chỉnh pháp luật, là nền tảng pháp lý cho trọng tài
Việt Nam tiếp cận, hoà nhập với xu hướng chung của nền tài phán trọng tài quốc tế.
Tiêu biểu, Pháp lệnh đã xác định phạm vi cụ thể thẩm quyền của trọng tài bằng cách
liệt kê các loại việc trọng tài được giải quyết, đưa ra cơ chế xác định hiệu lực pháp lý
của thoả thuận trọng tài, quy định chặt chẽ quy trình tố tụng, xác định rõ những
nguyên tắc quan trọng nhất phù hợp với thông lệ trọng tài trên thế giới cũng như quy
định sự hỗ trợ của toà án đối với trọng tài và xác lập giá trị pháp lý của phán quyết
trọng tài. Tuy có nhiều điểm tiến bộ, qua hơn sáu năm áp dụng và cùng với sự phát
triển của kinh tế – xã hội, một số quy định của Pháp lệnh đã bộc lộ bất cập và không
còn phù hợp với tình hình mới. Mặc dù vậy, Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 đã
đánh dấu bước ngoặt quan trọng mang tính chuyển tiếp trong tiến trình phát triển của
pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại.
Bước vào giai đoạn mới, Luật Trọng tài thương mại 2010 được Quốc hội thông
qua ngày 17/06/2010 và chính thức có hiệu lực ngày 01/01/2011, gồm 13 chương và
82 điều, thể hiện sự đột phá của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam. Luật Trọng
tài thương mại đã tiếp thu được những nguyên tắc cơ bản nhất về việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài trên thế giới và trong Luật Mẫu UNCITRAL, cụ thể như đã khắc
phục việc phân định không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của trọng tài đối với các tranh
chấp thương mại, giới hạn các tình huống làm thoả thuận trọng tài vô hiệu đồng thời
quy định hướng giải quyết khi thoả thuận trọng tài không rõ ràng, lần đầu tiên có điều
khoản bảo vệ người tiêu dùng trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp,
cho phép trọng tài viên là người nước ngoài cũng như nội luật hoá các cam kết quốc tế
của Việt Nam về dịch vụ trọng tài. Từ đó, Luật Trọng tài thương mại 2010 bảo đảm sự
tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành, nâng cao khả năng tính khả thi trong
20



thực tế và tiến đến gần hơn các tiêu chuẩn quốc tế.
Nghị quyết số 01/2014 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Trọng tài
thương mại thông qua ngày 20 tháng 03 năm 2014 và có hiệu lực ngày 01 tháng 07 năm
2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao đã giải quyết một số vấn đề còn
chưa rõ của Luật Trọng tài thương mại như phân định thẩm quyền giữa trọng tài và tòa
án, việc hỗ trợ và giám sát của tòa án đối với hoạt động trọng tài nước ngoài trên lãnh
thổ Việt Nam, các vấn đề về thỏa thuận trọng tài hay làm rõ các căn cứ hủy phán quyết
trọng tài, đặc biệt là khái niệm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Các vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước về trọng tài; hoạt động của Trung
tâm trọng tài và Chi nhánh Trung tâm trọng tài; Văn phòng đại diện của Tổ chức trọng
tài nước ngoài tại Việt Nam; thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
của Hội đồng trọng tài được quy định trong Nghị định 63/2011/NĐ-CP ngày 28 tháng
7 năm 2011.
Ngoài ra, Bộ Luật tố tụng dân sự, Bộ luật dân sự cũng đang được bổ sung, sửa
đổi theo hướng ủng hộ và khuyến khích sự phát triển của việc giải quyết tranh chấp
bằng hòa giải và trọng tài thương mại, đặc biệt là không chỉ đối với trọng tài trong
nước mà còn đối với cả trọng tài nước ngoài.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về vấn đề giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thương mại
Thứ nhất, bối cảnh kinh tế xã hội. Giai đoạn hiện nay của nước ta là đang trong
quá trình hội nhập với kinh tế quốc tế. Trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển
vẫn là xu thế chủ đạo; toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ được đẩy nhanh;
đầu tư, lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, lao động và vốn ngày càng mở rộng. Kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, hợp tác trong khu vực, nhất
là ASEAN ngày càng mở rộng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mỗi
quốc gia. Quá trình hội nhập ấy đã giúp nền kinh tế nước ta phát triển không ngừng.
Trong khi nước ta tham gia cơ chế thị trường thì các chủ thể kinh tế có quyền tự chủ
rất cao và họ có toàn quyền quyết định việc thiết lập các quan hệ kinh tế - thương mại
của mình miễn là không trái với quy định của pháp luật. Chính vì vậy các quan hệ
thương mại trong nền kinh tế rất đa dạng và phức tạp. Tính phức tạp và chồng chéo

đan xen của các quan hệ thương mại ẩn chứa một nguy cơ cao phát sinh tranh chấp.
Chỉ một trục trặc nhỏ trong "mắt xích" sẽ làm kéo theo hàng loạt các trục trặc khác và
làm nảy sinh tranh chấp. Các chủ thể kinh kế khi tham gia vào những quan hệ thương
mại mà họ cho là có lợi, có thể là lợi ích vật chất hoặc phi vật chất và khi mà mục đích
có nguy cơ không đạt được cũng sẽ làm phát sinh tranh chấp. Trong quan hệ thương
mại, quyền lợi của bên này cũng tương ứng với một nghĩa vụ của bên kia, điều đó khiến
21


×