Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

BTL Luật tài chính: Vấn đề thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật thuế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.02 KB, 11 trang )

MỞ ĐẦU
Thuế là một trong những chính sách kinh tế, xã hội rất quan trọng của Đảng và Nhà nước
ta. Thuế là công cụ để điều tiết kinh tế, thuế góp phần đảm bảo công bằng xã hội và hội nhập
quốc tế. Thuế có vai trò quan trọng như vậy nên Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm về vấn đề
thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế trong việc quan lý thuế. Thanh tra, kiểm tra,
xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế đang là một vấn đề được quan tâm. Vì vậy, em xin chọn đề
tài:” Vấn đề thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật thuế - thực trạng từ năm 2015 đến nay
và những vấn đề cần hoàn thiện ở Việt Nam” để làm rõ hơn về vấn đề thanh tra, kiểm tra, xử lý
vi phạm pháp luật thuế.
NỘI DUNG
I.
Khái quát chung về thanh tra- kiểm tra – xử lý vi phạm pháp luật thuế
1.
Khái niệm Thanh tra – Kiểm tra thuế - xử lý vi phạm pháp luật thuế

Thanh tra – kiểm tra thuế
Thanh tra và kiểm tra thuế là hoạt động giám sát của cơ quan thuế đối với các hoạt động,
giao dịch liên quan đến phát sinh nghĩa vụ đóng thuế và tình hình thực hiện thủ tục hành chính
thuế, chấp hành nghĩa vụ nộp thuế nhằm đảm bảo pháp luật thuế được thực hiện nghiêm chỉnh
trong đời sống kinh tế - xã hội
Kiểm tra thuế là công việc thường xuyên, mang tính nhiệm vụ của cơ quan quản
lý thuế được thực hiện ngay tại trụ sở cơ quan quản lý thuế dựa trên hồ sơ khai thuế của người
nộp thuế. Việc kiểm tra thuế được thực hiện tại trụ sở của người nộp thuế, chỉ thực hiện khi họ
không tự giác sửa đổi bổ sung những nội dung sai sót mà cơ quan thuế đã kiểm tra phát hiện và
yêu cầu. Nội dung kiểm tra thuế là kiểm tra tính đầy đủ, chính xác của các thông tin, tài liệu
trong hồ sơ thuế nhằm đánh giá sự tuân thủ của người nộp thuế.
Thanh tra thuế là kiểm tra đối tượng nộp thuế ở mức cao hơn, hoàn thiện hơn.
Tranh tra thuế được thực hiện định kì đối với các đối tượng nộp thuế lớn, ngành nghề kinh doanh
đa dạng, quy mô lớn hoặc với người nộp thuế có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế, và thanh tra
thuế để gải quyết các khiếu nại, tố cáo về thuế hoặc theo yêu cầu của thủ tướng cơ quan thuế các
cập hoặc Bộ trưởng Bộ tài chính



Pháp luật về thanh tra – kiểm tra thuế
Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động
thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực thuế của nhà nước.
Ngoài những đặc điểm chung của pháp luật thanh tra, kiểm tra thì pháp luật thanh tra,
kiểm tra thuế có những đặc điểm đặc thù như sau:
Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế chứa đựng những quy định mang tính chât
chuyên ngành
Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế là một bộ phận của pháp luật thanh tra, kiểm tra
vì vậy nó được quy định trong luật thanh tra.
Ngoài vai trò chức năng, quyền hạn được quy định trong pháp luật thanh tra nói
chung thì pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế còn được quy định về việc áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời
Nội dung chủ yếu của pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế gồm có :
Những quy định về nguyên tắc thanh tra, kiểm tra thuế : Đây là tư tưởng, quan điểm chủ
đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện pháp luật về thanh tra, kiểm tra
thuế và có tính bắt buộc các chủ thể có liên quan phải tuân theo trong quá trình tiến hành thanh
tra, kiểm tra thuế

1


Những quy định về kiểm tra thuế : đây là một bộ phận pháp luật quy định về các hình
thức kiểm tra thuế, nội dung, mục đích, quy trình kiểm tra thuế và cách thức xử lý trong và sau
hoạt động kiểm tra thuế
Những quy định về thanh tra thuế : bộ phận pháp luật này quy định về các trường hợp
thanh tra thuế, thủ tục, trình tự tiến hành, quy định cơ cấu thành phần đoàn thanh tra, điều kiện
đối với trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên…..
Những quy định về quyền và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế, trách nhiệm, quyền hạn

chủ yếu có thẩm quyền khi tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế
Những quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được áp dụng trong quá trình
thanh tra, kiểm tra thuế.

Xử lý vi phạm pháp luật thuế
Vi phạm pháp luật về thuế là hành vi làm trái các quy định pháp luật về thuế, do tổ chức,
cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, gây thiệt hại đến trật tự công cộng và phải chịu trách
nhiệm pháp lý về hành vi đó của mình
Nhìn một cách tổng quát, có thể nhận diện hành vi vi phạm pháp luật thuế nhờ ở các dấu
hiệu cơ bản sau:
Về phương diện chủ thể : vi phạm pháp luật về thuế là hành vi được thực hiện bởi
các chủ thể là tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động hành thu thuế như người nộp thuế, cơ
quan thuế hoặc công chức ngành thuế
Về phương diện khách quan : vi phạm pháp luật thuế là hành vi trái pháp luật
Về phương diện chủ quan : vi phạm pháp luật thuế bao giờ cũng phản ánh mức độ
lỗi ( cố ý hoặc vô ý ) của người thực hiện
Về phương diện khách thể : hành vi vi phạm pháp luật thuế đã phương hại đến
những lợi ích cụ thể được pháp luật bảo vệ.
Cho dù các vi phạm pháp luật về thuế tồn tại dưới hình thức nào thì về phương diện bản
chất, mỗi vi phạm đó đều thuộc về một trong các loại hình vi phạm chủ yếu sau đây :
Vi phạm hành chính về thuế : là hành vi làm trái các quy định pháp luật hành
chính trong lĩnh vực thuế, do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách vô ý hoặc cố ý, xâm hại đến
những lợi ích được pháp luật hành chính bảo vệ nhưng chưa đến mức xử lí hình sự và phải chịu
trách nhiệm hành chính.
Vi phạm hình sự về thuế : là hành vi trái pháp luật hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm hại đến các lợi ích phát sinh từ quan hệ nộp
thuế được luật hình sự bảo vệ.
Các vi phạm khác về thuế: nhìn từ góc độ pháp lý thì còn có các vi phạm khác về
thuế như : quy định về hình thức tờ khai đăng kí thuế, hình thức của văn bản đăng ký kê khai
thuế và văn bản thông báo thuế, hình thức văn bản quyết định giải quyết khiếu nại về thuế…

Đối với từng loại hình vi phạm pháp luật về thuế sẽ có các biện pháp chế tài xử lí vi
phạm pháp luật tương ứng và được quy định rõ ràng trong pháp luật quản lí thuế hiện hành
2.
Sự cần thiết của công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật thuế
Công tác thanh tra, kiểm trra, xử lý vi phạm trong quản lý thuế là hoạt động không thể
thiếu được trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và hoạt động quản lý thuế nói riêng.
Trong hoạt động quản lý thuế thì công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm càng trở nên hết
sức cần thiết. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, là công cụ phân phối thu nhập
quốc dân, là công cụ bảo vệ kinh tế trong nước và ngăn ngừa, răn đe các hiện tượng vi phạm
pháp luật thuế, chống thất thu ngân sách nhà nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế nước ta đang thực hiện cải cách công tác quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự

2


nộp thuế thì công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm thuế càng cần được coi trọng để có thể
mang lại hiệu quả thực hiện cao nhất.
3.
Mục tiêu của công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về thuế
Phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Đây là mục
đích chủ yếu của hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm. Công tác thanh tra, kiểm tra và
xử lý vi phạm là hoạt động thường xuyên của cơ quan quản lý thuế nhằm đảm bảo cho các quy
định về nộp thuế được chấp hành một cách đầy đủ. Chính tính chất thường xuyên của hoạt động
này đã có tính chất phòng ngừa các vi phạm pháp luật thuế. Các cuộc thanh tra, kiểm tra thuế sẽ
chỉ rõ các sai phạm của đối tượng bị thanh tra, kiểm tra và có tính chất răn đe với những người
có ý định vi phạm pháp luật thuế.
Bảo đảm hiệu quả, hiệu lực của các chính sách thuế mà nhà nước ban hành. Bảo
đảm không bị thất thoát từ các khoản thu thuế của ngân sách nhà nước.
Bảo đảm pháp luật thuế được thi hành nghiêm trên thực tế; bảo đảm sự cân bằng
trong nghĩa vụ nộp thuế; bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp cuat

công dân thực hiện các nghĩa vụ nộp thuế.
Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý thuế mà cụ thể là cán bộ thực hiện
công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, nâng cao ý thức trách nhiệm tuân thủ các quy định
của pháp luật thuế
II.
Thực trạng vấn đề thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về thuế từ năm 2015
đến nay
1.
Thực trạng việc thực hiện thanh tra, kiểm tra thuế
a.
Kết quả đạt được
Kể từ khi Luật quản lý thuế được ban hành thì công tác thanh tra, kiểm tra thuế đã đạt
được những bước phát triển nhất định. Cụ thể : Cơ quan thuế các cấp đã tiến hành áp dụng rộng
rãi kỹ thuật quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra thuế với việc tăng cường thu nhập thông tin
về người nộp thuế, tiến hành phân tích, đánh giá các thông tin từ các nguồn thông tin khác nhau
về người nộp thuế để tiến hành lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra. Việc lựa chọn đối tượng
thanh tra, kiểm tra có trọng điểm tránh mất thời gian, tiết kiệm được chi phí của cơ quan thuế và
người nộp thuế đem lại số truy thu lớn. Từ năm 2015 đến nay, công tác thanh tra, kiểm tra thuế
đã đạt được những con số ấn tượng.
Theo báo cáo của Tổng cục Thuế cho thấy, trong 6 tháng đầu năm 2015, cơ quan thuế đã
thực hiện thanh tra, kiểm tra đối với 29.034 doanh nghiệp (đạt 40,29 % kế hoạch đề ra và bằng
101,62% so với 6 tháng đầu năm 2014); số thuế xử lý tăng thu qua thanh tra, kiểm tra 4,543.82
tỷ đồng (bằng 86,71% so cùng kỳ năm 2014) giảm khấu trừ 455,4 tỷ đồng; giảm lỗ 7.870,4 tỷ
đồng. Đôn đốc nộp vào NSNN trên 2.981,97 tỷ đồng đạt 66,41% số thuế xử lý tăng thu qua
thanh tra, kiểm tra (bằng 87,16% so với cùng kỳ năm 2014), cụ thể:
- Về thanh tra: đã thanh tra tại 3.958 doanh nghiệp (đạt 42,63% kế hoạch và bằng
105,94% so với cùng kỳ); xử lý truy thu, truy hoàn và phạt 2.157,87 tỷ đồng (bằng 79,26% so
cùng kỳ năm 2014); giảm khấu trừ 221 tỷ đồng; giảm lỗ 4.130,4 tỷ đồng và nộp NSNN 1.107,2
tỷ đồng bằng 77,89% so với cùng kỳ.
- Về kiểm tra: đã kiểm tra tại 25.077 doanh nghiệp (đạt 39,94% nhiệm vụ kiểm tra và

bằng 100,97% so cùng kỳ năm 2014); xử lý truy thu, truy hoàn và phạt 2.195 tỷ (bằng 97,99% so
cùng kỳ năm 2014), giảm khấu trừ 214,7 tỷ đồng; giảm lỗ 4.79,1 tỷ đồng và nộp NSNN 1.683,8
tỷ đồng (bằng 97,77% so với cùng kỳ năm 2014). Đã thực hiện kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở
cơ quan thuế với 865.353 hồ sơ (bằng 97,6% so cùng kỳ năm 2014), xử lý điều chỉnh tăng thu
190,9 tỷ đồng (bằng 68,8% so cùng kỳ năm 2014).

3


Riêng về thanh tra, kiểm tra chống chuyển giá 6 tháng đầu năm 2015: đã thực hiện thanh
tra, kiểm tra đối với 513 doanh nghiệp lỗ, doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá và doanh nghiệp
có hoạt động giao dịch liên kết; giảm lỗ 1.171,2 tỷ đồng; truy thu, truy hoàn và phạt 177,7 tỷ
đồng; giảm khấu trừ là 138,5 tỷ đồng.
Qua tổng hợp báo cáo nhanh, trong 11 tháng đầu năm 2015 cơ quan thuế đã thanh tra,
kiểm tra được 68.001 doanh nghiệp, đạt 83,5% kế hoạch năm 2015, bằng 108,5% cùng kỳ năm
2014; với tổng số thuế tăng thu qua thanh tra, kiểm tra là 10.246,8 tỷ đồng, bằng 97% cùng kỳ
năm 2014. Riêng về thanh tra, kiểm tra chống chuyển giá, năm 2015 ước thực hiện thanh tra,
kiểm tra 2.421 DN lỗ, có dấu hiệu chuyển giá và có hoạt động giao dịch liên kết, giảm lỗ 4.437,6
tỷ đồng; truy thu, truy hoàn và phạt 508,1 tỷ đồng; giảm khấu trừ là 190,1 tỷ đồng.
Những tháng đầu năm 2016, Tổng cục Thuế tiếp tục tập trung thanh tra, kiểm tra đối với
các cơ sở kinh doanh có dấu hiệu rủi ro cao về thuế; chú trọng thanh tra, kiểm tra 100% hồ sơ
sau hoàn có số thuế hoàn lớn; thanh tra các doanh nghiệp có giao dịch liên kết, có dấu hiệu
chuyển giá; thanh tra về công tác xử lý hóa đơn nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi sử dụng bất
hợp pháp hóa đơn nhằm trốn thuế, gian lận thuế... Trên cơ sở đó, trong quí I, toàn ngành Thuế
ước thực hiện thanh tra, kiểm tra tại 2.982 doanh nghiệp và kiểm tra 1.554 hồ sơ khai thuế tại cơ
quan thuế. Số thuế xử lý tăng thu qua thanh tra, kiểm tra là 1.282.646 triệu đồng. Bên cạnh đó,
trong công tác kiểm tra nội bộ, Tổng cục Thuế đã chỉ đạo các đơn vị trong hệ thống chủ động rà
soát, xây dựng, triển khai kế hoạch kiểm tra và đã tiến hành thực hiện 159 cuộc. Trong đó, có
128 cuộc theo kế hoạch và 31 cuộc đột xuất tại 191 đơn vị và đã phát hiện số tiền thuế sai phạm
là 401 triệu đồng do cán bộ thuế không chấp hành đầy đủ các quy định trong thanh tra, kiểm tra,

quản lý thuế, lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn được giao chiếm dụng, xâm tiêu, sử dụng trái phép
tiền thuế của Nhà nước với số tiền kiến nghị thu hồi là 379 triệu đồng, kiến nghị khác 22 triệu
đồng.
b.
Những hạn chế, bất cập

Hạn chế trong quy định pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế:
thẩm quyền của cơ quan thuế trong thanh tra, kiểm tra thuế còn bị hạn chế. Theo
quy định pháp luật hiện hành về thanh tra thuế, cơ quan thuế đã được trao một số quyền quan
trọng để đảm bảo hiệu quả thanh tra thuế như quyền khám nơi cất giấu tài liệu, tang vật liên quan
đến trốn thuế, gian lận thuế (Điều 94 Luật Quản lý thuế); các quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy
phép (Điều 90 Luật Quản lý thuế và Điều 69 Thông tư 156/2013/TT-BTC), niêm phong tài liệu,
kiểm kê tài sản (Khoản 3 và 4 Điều 69 Thông tư 156/2013/TT-BTC). Tuy nhiên, quyền kiểm kê
tài sản chỉ được thực hiện trong thanh tra thuế tại trụ sở DN. Do vậy, theo quy định pháp luật
hiện hành, cơ quan thuế không có quyền kiểm kê đột xuất tài sản của người nộp thuế khi phát
hiện có dấu hiệu trốn thuế, gian lận thuế. Điều này đã phần nào làm hạn chế khả năng chứng
minh hành vi trốn thuế của người nộp thuế, đặc biệt là trường hợp trốn thuế qua hành vi bán
hàng không phản ánh vào sổ sách kế toán.
một số quy định trong các văn bản pháp luật về các sắc thuế cụ thể còn chưa rõ
ràng, chưa minh bạch và có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, gây khó khăn cho hoạt động
thực thi pháp luật. Ví dụ: Khoản chi không được trừ tại Điểm 2.18, Khoản 2, Điều 6, Thông tư
78/2014/TT-BTC được quy định như sau “Phần chi trả tiền vay vốn tương ứng với phần vốn điều
lệ (đối với DN tư nhân là vốn đầu tư) đã đăng ký còn thiếu theo tiến độ góp vốn ghi trong điều lệ
của DN kể cả trường hợp DN đã đi vào sản xuất, kinh doanh”.
các thủ tục cần thiết phải thực hiện trong thanh tra, kiểm tra thuế, mặc dù đã được
bổ sung, song vẫn chưa được quy định đầy đủ trong các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý
thuế và quy phạm pháp luật chuyên biệt về thanh tra tài chính. Đó là các quy định về cách thức

4



và thời hạn yêu cầu người nộp thuế cung cấp thông tin trước khi tiến hành thanh tra (có nhất thiết
phải bằng văn bản không, trong thời hạn bao lâu); thời hạn tạm dừng thanh tra, kiểm tra thuế
trong quá trình thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế; thời hạn bãi bỏ quyết định kiểm
tra trong những trường hợp được bãi bỏ quyết định kiểm tra thuế theo quy định của pháp luật;
quy định về trình tự, thủ tục kiểm tra lại các kết luận kiểm tra thuế (đã có quy định về thanh tra
lại kết luận thanh tra thuế.

Công tác thi hành pháp luật còn tồn tại nhiều bất cập:
Vẫn còn tình trạng trùng lặp, chồng chéo trong hoạt động của cơ quan thanh tra,
kiểm tra, kiểm soát đối với doanh nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao và sự trùng lặp vẫn xảy ra nhiều
nhất trong lĩnh vực thuế. Hiện nay còn có quá nhiều cơ quan, các cấp thanh tra dưới nhiều hình
thức như : thanh tra, kiểm tra, phúc tra, kiểm soát…Có những cán bộ thanh tra không được đào
tạo về chuyên môn nghiệp vụ làm cho công tác thanh tra, kiểm tra không đạt được hiệu quả cao
thậm chí một trong những cán bộ này còn đưa ra các quyết định sai sau đó phát hiện ra thì không
chịu trách nhiệm về kết luận trước đó của mình.
Trình độ hiểu biết về thuế, ý thức chấp hành các luật, pháp lệnh về thuế của đại bộ
phận nhân dân còn hạn chế, chưa tạo dư luận xã hội lên án mạnh mẽ các hành vi trốn thuế, gian
lận thuế. Đặc biệt là hiện nay khi nền kinh tế đang phát triển hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp ngày càng thường xuyên và liên tục thì hành vi trốn thuế và gian lận thuế xảy ra
ngày càng nhiều
Từ thực tiễn cho ta thấy, sự phối hợp giữa các cơ quan, đặc biệt là kho bạc nhà
nước, ngân hàng, cơ quan kế hoạch và đầu tư, cơ quan quản lý đất đai, tổng cục thống kê và các
cơ quan khác có liên quan còn hạn chế
2.
Thực trạng việc xử lý vi phạm pháp luật thuế
a.
Kết quả đạt được
Trong những năm qua, lực lượng công an các cấp đã tiến hành rà soát, kiểm tra, xử lý và
truy tố hình sự nhiều vụ án trốn thuế của hàng trăm hoang nghiệp, đơn vị, truy thu cho NSNN

hàng trăm tỷ đồng. Cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản để tổ chức, thực hiện xử
lý vi phạm pháp luật thuế. Trong 5 năm (2007-2013), ngành Thuế và Công an đã phối hợp trao
đổi 27.516 công văn, tài liệu liên quan đến lĩnh vực thuế. Kết quả, cơ quan Công an đã khám phá
và phối hợp với cơ quan Thuế xử lý hình sự 218 vụ; xử lý hành chính 10.155 vụ vi phạm trong
lĩnh vực thuế. Hai đơn vị đã xử lý, thu hồi nộp ngân sách 782,6 tỷ đồng tiền thuế trốn, tiền phạt
vi phạm hành chính về thuế. Qua công tác thanh, kiểm tra của ngành Thuế cho thấy, trung bình 1
năm ngành Thuế thanh tra khoảng 18 đến 20% doanh nghiệp (tương đương 11 đến 12 nghìn
doanh nghiệp) nhưng có đến 92% doanh nghiệp có vi phạm về thuế. Và mỗi năm qua công tác
thanh tra đã góp phần làm tăng thu ngân sách 12.600 tỷ đồng. Riêng 9 tháng đầu năm 2013 đã
thu được 8.500 tỷ đồng.1
Trong 6 tháng đầu năm 2014, toàn Ngành đã thu được 17.500 tỷ đồng, chiếm 29% số nợ
thuế tại thời điểm 31/12/2013 chuyển sang, trong đó thu và xử lý nợ thuế bằng biện pháp quản lý
nợ chiếm 82,7%; bằng biện pháp cưỡng chế nợ thuế là 17,3%.
b.
Hạn chế, bất cập tồn tại
Hành vi trốn thuế, gian lận ngày càng tinh vi phức tạp, đặc biệt của các doanh nghiệp.
Một số thủ đoạn gian lận thuế điển hình2 như :

1 VTC News Hơi thở cuộc sống : />2 Sở tài chính tỉnh Bạc Liêu:
/>
5


- Lợi dụng cơ chế thông thoáng về thủ tục thành lập DN, thủ tục tự in hóa đơn, một số cá
nhân ở Đồng Nai, Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh đã thành lập một chuỗi DN để cung cấp hóa
đơn giá trị gia tăng (GTGT) cho các DN “đen” tại Tây Nguyên làm thất thoát tiền hoàn thuế
GTGT, gây thất thu NSNN.
Lợi dụng cơ chế xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới đất liền, chính sách thanh toán biên
mậu Việt Nam – Campuchia (thanh toán bằng đồng Việt Nam thông qua tài khoản vãng lai mở
tại các chi nhánh ngân hàng thương mại Việt Nam sát biên giới), cơ chế miễn kiểm tra Hải quan

hoặc kiểm tra theo tỷ lệ (phân luồng xanh) đối với hàng hóa xuất khẩu tiểu ngạch, mua hóa đơn
của các DN "ma", siêu thị… hợp thức hóa đầu vào để lập hồ sơ xuất khẩu khống một phần hoặc
toàn bộ hàng hóa nhằm chiếm đoạt tiền hoàn thuế từ NSNN.
- Lợi dụng sự thông thoáng về thủ tục thành lập DN của Luật DN, một số cá nhân sử
dụng chứng minh thư nhân dân thất lạc, hoặc thuê, mua chứng minh nhân dân rồi báo mất sau đó
thuê người làm giám đốc để thành lập DN nhằm kinh doanh mua bán bất hợp pháp hóa đơn, tiếp
tay cho việc chiếm đoạt tiền hoàn thuế từ NSNN.
- Tạo chứng từ thanh toán qua ngân hàng cho hàng hóa mua vào từ 20 triệu đồng trở lên
để được khấu trừ thuế đầu vào (hoàn thuế) thông qua phương thức nộp tiền mặt vào tài khoản
của người mua hóa đơn, sau đó người mua hóa đơn chuyển trả vào tài khoản cho người bán hóa
đơn; Hoặc sau khi người mua chuyển khoản thanh toán cho người bán thì lập tức người bán
chuyển trả cho người mua qua một tài khoản khác. Hành vi này diễn ra khá phổ biến và song
trùng với hành vi mua bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp đã phát hiện tại một số địa phương
như: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Lâm Đồng, Đắc Lắk…
- Tạo chứng từ thanh toán qua ngân hàng cho hàng hóa xuất khẩu qua biên giới đất liền
để đủ điều kiện được hoàn thuế xuất khẩu thông qua phương thức quay vòng tiền thanh toán
hàng hóa nhập khẩu (của người nước ngoài) nộp vào tài khoản vãng lai, để hợp thức hóa thủ tục
thanh toán qua ngân hàng đối với doanh thu hàng xuất khẩu nhằm gian lận tiền hoàn thuế. Hành
vi này khá phổ biến và song trùng với hành vi xuất khẩu khống một phần hoặc toàn bộ hàng hóa,
hoặc khai không đúng mặt hàng xuất khẩu đã được phát hiện được tại các tỉnh Tây Nam Bộ, TP.
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Sử dụng hóa đơn bất hợp pháp cùng với ủy nhiệm chi giả để chiếm đoạt tiền thuế:
Trường hợp này cơ quan thuế đã phối hợp với công an điều tra vụ trốn thuế xảy ra tại một số
công ty về sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để kê khai thuế GTGT đầu vào nhằm chiếm đoạt tiền
thuế GTGT.
- Một số DN nhập lậu các mặt hàng nhập khẩu thuế nhập khẩu cao, sau đó mua hóa đơn
của DN "ma" để hợp thức hóa đầu vào và hợp thức hóa thủ tục thanh toán qua ngân hàng, gây
thất thu thuế GTGT khâu nhập khẩu, thuế nhập khẩu và các khoản nộp NSNN.
- Tổ chức hệ thống DN mà nhân thân trong gia đình làm giám đốc, kế toán trưởng, thủ
kho… các DN này thường có lãi lớn nhưng lại thực hiện 2 hệ thống sổ sách kế toán với mục đích

kê khai nộp thuế thấp để trốn thuế.
Hiện nay số thất thu thuế so với tổng thu thuế là rất lớn, bên cạnh số thất thu tiềm năng
do ngành thuế chưa bao quát hết các nguồn thu thì số thu thực tế do bản thân các đối tượng cố
tình trốn lậu thuế là không nhỏ. Thất thu thuế càng nhiều, bội chi ngân sách càng lớn, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến thực hiện các chức năng điều hành kinh tế, xã hội của Nhà nước như thay đổi
kế hoạch phân phối lại thu nhập từ thuế, giảm đầu tư phát triển, vay nợ nước ngoài để bù đắp…
và nhiều hậu quả kinh tế xã hội khac.
Trốn lậu thuế, tránh thuế diễn ra ở các mức độ khác nhau, ở mọi loại hình doanh nghiệp.
Nhiều đơn vị, doanh nghiệp trốn thuế trong một thời gian dài, trốn nhiều lầm, trốn nhiều sắc

6


thuế…thì chủ đơn vị, doanh nghiệp thường có sự móc ngoặc với cán bộ thuế, cán bộ hải quan,
quản lý thị trường. Không ít trường hợp cán bộ trong các cơ quan Nhà nước có chức năng quản
lý doanh nghiệp lại làm tư vấn cho doanh nghiệp luồn lách trốn thuế. Thậm chí ở một số địa
phương còn có hiện tượng cán bộ thuế tính toán tiền thuế phải nộp hàng tháng, hàng quý cho
doanh nghiệp ở mức thấp nhất để sau đó cán bộ thuế cũng được nhận một số tiền “bồi dưỡng”
đáng kể
Đặc biệt, chính sách thuế trong điều kiện hội nhập có độ nhạy cảm cao về kinh tế- xã hội
của mỗi quốc gia. Trong điều kiện của Việt Nam, nền kinh tế chuyển đổi và đẩy mạnh hội nhập
quốc tế, thực hiện cam kết với WTO về thuế đang gặp phải nhiều khó khăn, thách thức.
Các mâu thuẫn thường xuyên nảy sinh trong xử lý các lợi ích khác nhau trong nền kinh
tế. Trong khi đó, các văn bản pháp luật về thuế còn thiếu đồng bộ, có những sơ hở, thiếu sót, cơ
chế quản lý thu thuế còn nhiều bất cập...
Mặt khác, chính sách pháp luật thường xuyên sửa đổi, bổ sung; hành vi trốn thuế, gian
lận ngày càng tinh vi, phức tạp, đòi hỏi phải tập trung nhiều lực lượng, nhiều thời gian. Trong khi
đó, kinh phí phục vụ cho công tác xác minh, điều tra không được bố trí cũng là rào cản lớn đối
với việc tiến hành xử phạt những hành vi trốn thuế, gian lận thuế.
III.

Những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề thanh
tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay.
1.
Những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề thanh tra,
kiểm tra thuế
Để hành lang pháp lý về thanh tra, kiểm tra thuế thực sự là khuôn khổ, nền tảng cho hoạt
động thanh tra, kiểm tra thuế, cần khắc phục những hạn chế, bất cập đã nêu.
Một là, cần nghiên cứu bổ sung cho cơ quan thuế quyền kiểm kê tài sản đột xuất. Quyền
kiểm kê tài sản đột xuất giúp đấu tranh có hiệu quả hành vi bán hàng không phản ánh vào sổ
sách kế toán để trốn thuế - một hành vi trốn thuế phổ biến của người nộp thuế hiện nay, bởi lẽ
nếu người nộp thuế bán hàng không phản ánh vào sổ sách kế toán thì chắc chắn sẽ có chênh lệch
giữa tồn kho trên sổ sách kế toán với tồn kho thực tế. Nếu được báo trước, việc kê khai tài sản sẽ
giảm tác dụng rất nhiều do người nộp thuế có thể tìm cách đối phó để đảm bảo sự thống nhất
giữa số liệu trên sổ kế toán với thực tế tồn kho tài sản. Để vừa đảm bảo tính hiệu quả của hoạt
động thanh tra thuế, vừa không gây cản trở quá trình sản xuất, kinh doanh của người nộp thuế,
cần quy định rõ các trường hợp cơ quan thuế được kiểm kê tài sản đột xuất, thủ tục pháp lý để
kiểm kê đột xuất…
Hai là, nhanh chóng ban hành quy trình kiểm tra, thanh tra mới sao cho phù hợp với trên
thực tế. Cần rà soát lại toàn bộ các văn bản luật và hướng dẫn thi hành các luật thuế để sửa đổi
những nội dung không rõ ràng, có thể hiểu nhiều cách khác nhau. Đặc biệt, cần sửa đổi cách diễn
đạt văn bản theo hướng tránh sử dụng những câu phức và câu ghép với những cụm từ liệt kê liên
tiếp gắn với những mệnh đề bổ nghĩa không rõ áp dụng cho trường hợp nào. Trong những trường
hợp cần liệt kê nhiều nội dung quy định pháp luật thì nên áp dụng cách liệt kê tách biệt thành
những đoạn văn riêng biệt. Việc minh bạch hóa các văn bản pháp luật thuế giúp hoạt động thanh
tra, kiểm tra thuế có căn cứ pháp lý vững chắc để kết luận đúng sai.
Ba là, tiếp tục và thường xuyên rà soát để bổ sung cho đầy đủ các thủ tục cần thiết phải
thực hiện trong quá trình thanh tra, kiểm tra thuế để tránh sự vận dụng tùy tiện của người thực thi
pháp luật
Bốn là , hoàn thiện quy định về mô hình tổ chức, thanh tra, kiểm tra của các cơ quan tạo
ra sự đồng bộ thống nhất trong quá trình thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra thuế, tạo điều


7


kiện cho các cơ quan thanh tra, kiểm tra hoạt động có hiệu quả cao, theo đúng khuôn khổ pháp
luật
2.
Những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về xử lý vi phạm
pháp luật thuế ở Việt Nam hiện nay
Để làm tốt công tác tuyên truyền pháp luật thuế và chính sách thuế, có biện pháp đấu
tranh hiệu quả đối với các hành vi vi pạm, tội phạm trốn thuế, chủ động phát hiện vi phạm, tội
phạm trốn thuế, đánh trúng các vụ trốn thuế, thu hồi tiền cho ngân sách, xử lý nghiêm minh các
đối tượng phạm tội nhằm bảo vệ kỷ cương pháp luật, tạo môi trường lành mạnh trong sản xuất
kinh doanh, bảo vệ nguồn thu cho NSNN
Thứ nhất, cần hoàn thiện hơn chế tài về xử lý vi phạm pháp luật về thuế pháp luật hiện
nay, các quy định trong lĩnh vực xử lý vi phạm pháp luật đã từng bước được hoàn thiện, góp
phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác xử lý vi phạm pháp luật thuế tăng
cường tính răn đe, giáo dục người vi phạm, thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội. Tuy nhiên, pháp
luật trong lĩnh vực xử lý vi phạm pháp luật thuế đã bộc lộ một số điểm bất cập như: nguyên tắc
xử lý vi phạm thuế chưa đầy đủ; các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm thuế trong
nhiều lĩnh vực được bổ sung, thay thế kịp thời dẫn tới tình trạng không thể thay thế.
Thứ hai, Để cơ chế tự khai, tự nộp thuế phát huy hiệu quả, tránh vi phạm cần tăng cường
công tác hướng dẫn, kiểm tra, tổ chức hệ thống thông tin dịch vụ kế toán, kê khai và tính thuế.
Đồng thời cần có lộ trình triển khai thực hiện phù hợp, từng bước từ đơn giản đến phức tạp, từ
thấp đến cao, chia theo từng nhóm để quản lý; nên có cơ chế khuyến khích các đối tượng nộp
thuế tự nguyện áp dụng phương pháp tự khai tự nộp thuế, chẳng hạn như cho phép được hưởng
các khoản khấu trừ đặc biệt hoặc các chế độ ưu đãi khác.
Thứ ba, cùng với việc hoàn thiện cơ chế tự khai tự nộp thuế, thì công tác thanh tra kiểm
tra xử lý vi phạm pháp luật thuế cần được đẩy mạnh, đòi hỏi cơ quan thuế phải tập trung lực
lượng lớn vào việc tuyên truyền và thanh tra kiểm tra việc chấp hành luật thuế. Cơ quan thuế

phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng như cơ quan công an, cơ quan ngoại vụ, cơ
quan quản lý lao động,… để nắm bắt kịp thời thông tin về đối tượng nộp thuế, nguồn phát sinh
thu nhập, có biện pháp phân loại đối tượng nộp thuế thành các nhóm khác nhau để thanh tra,
kiểm tra một cách có hiệu quả.
Thứ tư, Nên xây dựng khung phạt theo hướng giảm nhẹ hơn mức phạt với hành vi vi
phạm thủ tục thuế và chỉ phạt nặng với hành vi trốn thuế vì nước ta là nước có trình độ phát
triển chưa cao, trình độ quản lý còn thấp và hầu hết các doanh nghiệp nước ta là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ nên việc vi phạm thủ tục thuế là điều khó tránh khỏi đối với bất cứ doanh
nghiệp nào.
Nên xem xét đưa “ cố ý” và ” vô ý“ vào các chế tài của thông tư cho phù hợp và khung
phạt được xây dựng theo hướng giảm nhẹ hơn đối với hành vi được coi là vi phạm do lỗi vô ý
được
Cần quy định các chế tài đối với người nộp thuế thì quy định khá chi tiết ( nhất là về thời
gian chấp hành, thời hiệu…) trong khi quy định chế tài đối với cán bộ của cơ quan quản lý thuế
vi phạm thì chung chung nên tạo nên tâm lý không bình đẳng giữa người nộp thuế và cán bộ của
cơ quan quản lý thuế
Thứ năm, có thể thấy trong thực tiễn pháp lý, các hành vi vi phạm hình sự về thuế tuy
diễn ra ít hơn so với vi phạm hành chính về thuế nhưng mức độ nguy hiểm cho xã hội thường
cao hơn. Tuy các vi phạm mang tính chất hình sự về thuế có thể do tổ chức và cá nhân thực hiện
nhưng pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay mới chỉ quy định vấn đề truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với cá nhân chứ chưa thừa nhận việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tổ chức là pháp

8


nhân. Thực trạng này của pháp luật hình sự nước ta khiến cho việc xử lý vi phạm pháp luật thuế
của tổ chức, cá nhân không được công bằng.
Thứ sáu, để nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế cần phải tăng cường phối hợp giữa cơ
quan thuế với các cơ quan chức năng của các ngành, các lĩnh vực có liên quan, trong đó, phải đề
cao vai trò và thẩm quyền của cơ quan thuế trong việc giám sát thu nhập, thanh tra kiểm tra thuế,

xử lý vi phạm và cưỡng chế thuế.
Thứ bảy, Phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng, các tổ chức xã hội tuyên
truyền, giáo dục, vận động toàn dân tích cực tham gia phong trào phòng chống tội phạm, bảo vệ
an ninh.
3.
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi
phạm pháp luật thuế
Nâng cao nhân lực ngành thuế:
o Tổ chức sắp xếp, sớm bổ sung nguồn nhân lực tối đa cho công tác thanh tra, kiểm
tra; triển khai giao nhiệm vụ cụ thể đến từng đòan, đội gắn với động viên, thi đua
khen thưởng , phấn đấu hoàn thành dự toán thu NSNN.
o Tăng cường kiểm soát tuân thủ đối với hoạt động công vụ của các đoàn, đội và
cácn bộ thực thi nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp để đề phòng, ngăn
chặn, xử lý kịp thời vi phạm về thưế,
o Nâng cao chất lượng cán bộ công tác thanh tra, kiểm tra về cả nghiệp vũ lẫn đạo
đức nghề nghiệp, tổ chức việc đào tạo và đào tạo lại về nghiệp vụ cho đỗi ngũ cán
bộ công thức thuế; tập trung đào tạo để cấp chứng chỉ thanh tra viên cho lực
lượng thanh tra thuế
o Tăng cường cong tác đào tại, tập huấn, trao đổi nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra thuế
nâng cao năng lực và kỹ năng cho công chức làm công tác thanh tra, kiểm tra
thuế. Tăng cường bồi dưỡng kiến thứ kế toán nâng cao, kỹ năng phân tích báo cáo
tài chính, chuẩn mực kế toán cho lực lượng thanh tra, kiểm tra thuế.
o Kiện toàn nhân lực thanh tra, kiểm tra toàn ngành thuế theo hướng: Tiếp tục tăng
cường lực lượng cho công tác thanh tra, kiểm tra , Hình thành tổ chức thanh tra tại
các chi cục thuế đảm bảo điều kiện theo quy định của Luật; Xây dựng và triển
khai thí điểm cơ chế đánh giá hiệu quả công việc kết hợp với bố trí, sử dụng luân
phiên, luậ chuyển các bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
Cơ quan thuế địa phương tham mưu cho UBND cùng cấp chỉ đạo các cơ quan
ngành địa phương phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế, có các giải pháp đề phòng, xử lý, ngăn
chặn kịp thời đối với các hành vi trốn thuế, gian lận thuế và chiếm đoạt tiền thuế.

Tập trung triển khai công tác “ chống các hành vi vi phạm về hóa đơn”, nhằm
phát hiện, ngăn chặm, xử lý kịp thời hành vi kinh doanh mua bán hóa đơn bất hợp pháp, trốn
thuế, chiếm đoạt tiền thuế. Phối hợp với cơ quan an ninh điều tra, cơ quan cảnh sát phòng chống
tội phạm về kinh tế để điều tra, xác minh một số đường dây sử dụng hóa đơn bất hợp pháp chiếm
đoạt tiền thuế của nhà nước nhằm răn đe, ngăn chặn đối với dạng tội phạm này và góp phần tạo
môi trường cạnh tranh lành mạnh bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Bộ phận thanh tra, kiểm tra phối hợp chặt chẽ với bộ phận kê khai, tin học thường
xuyên rà soát. Quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế, phân loại giám sát chặt chẽ các đối tượng có
dấu hiệu kinh doanh mua bán hóa đơn bất hợp pháp, trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế .
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền và công tác hỗ trợ người nộp thuế, đặc
biệt hỗ trợ về kiến thức nghiệp vụ thuế và nghiệp vụ kế toán cho các doanh nghiệp nhở và vừa,

9


các doanh nghiệp mới thành lập, tránh những sai sót không đáng có để tập trung giải quyết
những vấn đề, vụ việc nghiêm trọng hơn.
Tập trung thanh tra các đơn vị lớn, có rủi ro cao về thuế, cơ quan thuế các cấp
phải nhanh chóng triển khai xây dựng kho dữ liệu thông tin về người nộp thuế, thông tin về quản
lý thu thuế và thông tin liên quan từ các ngành khác để cung cấp nhanh chóng, kịp thời, chính
xác, phục vụ công tác nghiệp vụ, quản lý, chỉ đạo điều hành của các cấp
Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, địa phương trong quá trình triển
khai thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
Hiện đại hóa công tác quản lý thuế nói chung và thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
pháp luật thuế nói riêng
Hoàn thiện các vấn đề pháp lí để công tác quản lý thuế đi vào nề nếp, đúng theo
yêu cầu của Luật Quản lý thuê.
KẾT LUẬN
Thanh tra, kiểm tra thuế nhằm kịp thời phát hiện và xử lí các sai phạm trong lĩnh vực thuế; ngăn
ngừa các hiện tượng vi phạm pháp luật thuế; chống thất thu ngân sách nhà nước. Trong điều kiện

phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế nước ta đang thực hiện cải cách công tác
quản lí thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thuế thì công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm
pháp luật thuế ngày càng được coi trọng. Trong thời gian tới, hy vọng rằng sẽ hoàn thiện hơn nữa
cả về hành lang pháp lý và công tác thực tiễn để hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý pháp luật
thuế thực sự phát huy hết vai trò to lớn của mình.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam,
Nxb CAND,
2.
Luật Quản lý thuế
3.
Mof.gov.vn, Tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra.
/>dDocName=MOF155928&_afrLoop=33352891494498374#!%40%40%3F_afrLoop
%3D33352891494498374%26dDocName%3DMOF155928%26_adf.ctrl-state%3Dgurzfcac_29
4. />5.
Nghi Kiều, tapchitaichinh.vn, nhìn lại công tác thanh tra, kiểm tra chống thất thu
NSNN nửa đầu năm.
6.
Hà Thị Anh, Pháp luật thanh tra, kiểm tra thuế ở Việt Nam hiện nay – những vấn
đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp 2009
7.
Nguồn internet khác

11




×