Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu luận đặc trưng và so sánh thuế TTĐB và GTGT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.64 KB, 15 trang )

A.MỞ ĐẦU
Ở nước ta, thuế và hệ thống thuế đã và đang không chỉ là mối quan tâm
của các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, của các nhà nghiên cứu
mà còn của cả các doanh nghiệp và đông đảo người dân. Trong giai đoạn
cải cách hệ thống chính sách thuế, nhiều chính sách thuế đã được nghiên
cứu, sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội trong thời
đại mới, đảm bảo hiệu quả quản lý Nhà nước, trong đó có chính sách thuế
tiêu thụ đặc biệt. Thuế tiêu thụ đặc biệt được đánh vào một số hàng hóa,
dịch vụ đặc biệt nhằm điều tiết hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng đồng thời
tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt, và cả
thuế giá trị gia tăng sau nhiều năm thực hiện đã dần đi vào đời sống và có
những tác động tích cực đến tình hình kinh tế - xã hội đất nước cũng như
góp phần đáng kể vào việc tăng nguồn thu cho ngấn sách nhà nước, đồng
thời đem lại những kết quả nhất định trong việc hướng dẫn sản xuất, tiêu
dùng hàng hoá, dịch vụ được coi là đặc biệt và điều tiết thu nhập. Và kể từ
sau những lần sửa đổi thì Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt càng đem lại hiệu quả
rõ rệt hơn cho Nhà nước trong việc phát triển xã hội tiêu dùng và nền kinh
tế quốc gia. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin chọn đề bài số 12
“Phân tích những đặc trưng của thuế tiêu thụ đặc biệt (Trong đó có so
sánh với thuế giá trị gia tăng). Cho biết về sự thay đổi của danh mục
hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt từ Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt năm
1990 cho đến nay”.
B.NỘI DUNG
I. Khái quát chung về thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB)
1. Khái niệm về thuế và thuế tiêu thụ đặc biệt
 Khái niệm về thuế
Thuế ra đời là mang tính tất yếu gắn liền với sự tồn tại của nhà nước.
Như chúng ta đã biết, mỗi nhà nước muốn tồn tại thì phải có một nguồn vật
chất nhất định để duy trì sự tồn tại và thực hiện chức năng của nhà nước.
Nguồn vật chất đó hình thành từ nhiều hoạt động khác nhau nhưng hoạt
động chủ yếu vẫn là hoạt động thu thuế. Việc thu thuế tạo ra một nguồn thu


tài chính lớn cho nhà nước, qua đó nhà nước có thể tồn tại và thực hiện
chức năng của mình. Do vậy thuế là một hiện tượng tất yếu, xuât hiện và
tồn tại cùng các hiện tượng kinh tế xã hội khác, nó có thể khái quát qua
định nghĩa như sau:”Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ
chức cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất
định”.


Như vậy có thể thấy thuế là một khoản giá trị mà người có nghĩa vụ
thực hiện phải nộp cho nhà nước theo quy định pháp luật thuế.Thuế là
nghĩa vụ của người nộp thuế.Trong lịch sử, khoản giá trị đó có thể tồn tại
dưới dạng vật có giá trị nhưng hiện tại thì thuế tồn tại dưới dạng tiền tệ.
 Khái niệm về thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế gián thu đánh vào một số hàng hóa
đặc biệt do các doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ tại. Thuế này do các cơ sở
trực tiếp sản xuất ra hàng hoá đó nộp nhưng người tiêu dùng là người chịu
thuế vì thuế được cộng vào giá bán.
Như vậy, không phải tất cả hàng hóa, dịch vụ đều là đối tượng chịu thuế
của thuế TTĐB. Thông thường, thuế TTĐB đánh vào hàng hóa không được
khuyến khích tiêu dùng, có thể do chúng có khả năng gây ảnh hưởng bất lợi
tới sức khỏe người sử dụng (thuốc lá, rượu, bia) hoặc đánh vào những hàng
hóa chỉ được sử dụng bởi những người có thu nhập cao và rất cao trong xã
hội (ô tô, tàu bay, du thuyền...) hoặc đánh vào việc sử dụng các dịch vụ
không cần thiết cho cuộc sống (vũ trường, massage, karaoke, casino). Việc
thu thuế TTĐB giúp cho Nhà nước có thể định hướng tiêu dùng xã hội, góp
phần tích cực vào việc hình thành xu hướng tiêu dùng xã hội lành mạnh, xu
hướng tiêu dùng phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh kinh tế của đất nước.
Bên cạnh đó, Nhà nước còn có thể huy động một bộ phận thu nhập của
những đối tượng có thu nhập cao và có khả năng tiêu dùng hàng hóa, dịch
vụ không thiết yếu, không được khuyến khích tiêu dùng vào ngân sách nhà

nước để sử dụng cho những mục tiêu công cộng, góp phần bảo đảm công
bằng xã hội.
2. Vai trò của của thế gái trị gia tăng
 Thuế TTĐB là một trong những công cụ giúp Nhà nước thực hiện
chính sách quản lý đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh và nhập
khẩu hàng hóa, dịch vụ,góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh đối
với hàng hóa, dịch vụ cùng loại sản xuất trong nước: Việc thu thuế
TTĐB ở khâu sản xuất giúp Nhà nước nắm bắt được một cách tương
đối chính xác số lượng thực tế các cơ sở sản xuất mặt hàng chịu thuế
TTĐB trong nền kinh tế, cũng như năng lực sản xuất của từng cơ sở
sản xuất từng loại mặt hàng chịu thuế TTĐB, giúp Nhà nước sắp xếp
có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doan các mặt hàng chịu thuế
TTĐB. Bên cạnh đó việc thu thuế TTĐB ở khâu nhập khẩu cũng
giúp Nhà nước quản lí được hoạt động nhập khẩu mặt hàng, dịch vụ
được coi là đặc biệt, không khuyến khích tiêu dùng. Thuế TTĐB thu
vào hàng hóa, dịch vụ chịu thuế ở khâu nhập khẩu còn nhằm hạn chế
việc tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu từ nước ngoài, qua đó
khuyến khích việc tiêu dùng sản phẩn hàng hóa, dịch vụ sản xuất
cùng loại ở trong nước.


 Thuế TTĐB là một trong những công cụ kinh tế để Nhà nước điều
tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư có thu nhập cao, hướng dẫn tiêu
dùng hợp lí: Thuế TTĐB không đánh vào tất cả các loại hàng hóa và
dịch vụ mà chỉ đánh vào một số loại hàng hóa, dịch vụ đặc biệt Nhà
nước không khuyến khích tiêu dùng. Ví dụ, thuế TTĐB đánh vào
những hàng hóa không được khuyến khích tiêu dùng, có thể do
chúng có khả năng gây ảnh hưởng bất lợi tới sức khỏe con người như
thuốc lá, rượu, bia, hoặc đánh vào những hàng hóa mà chỉ được sử
dụng bởi những người có thu nhập cao hoặc rất cao trong xã hội như:

oto, tàu bay, du thuyền, hoặc đánh vào việc sử dụng những dịch vụ
không cần thiết cho cuộc sống như vũ trường, massage, karaoke,
casino…Thông qua việc thu thuế TTĐB, Nhà nước có thể định
hướng tiêu dùng xã hội, góp phần tích cực vào việc hình thành xu
hướng tiêu dùng xã hội lành mạnh, xu hướng tiêu dùng phù hợp với
điều kiện và hoàn cảnh kinh tế của đất nước. Mặt khác, cũng thông
qua việc tiêu thuế TTĐB, nhà nước còn huy động một bộ phận thu
nhập của những đối tượng có thu nhập cao và có khả năng tiêu dùng
hàng hóa, dịch vụ không thiết yếu, không được khuyến kích tiêu
dùng vào ngân sách nhà nước để sử dụng cho những mục tiêu công
cộng, góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
 Thuế TTĐB là công cụ quan trọng được sử dụng nhằm ổn định và
tăng cường nguồn thu cho ngân sách nhà nước: Thuế TTĐB mặc dù
có diện thu hẹp nhưng lại có thuế suất cao hơn thuế suất của các loại
thuế gián thu khác, vì vậy số tiền thu được từ thuế TTĐB chiếm tỉ
trọng đáng kể trong tổng thu ngân sách nhà nước. Theo các con số
thống kê, thì ở nước ta, tỉ trọng số thu từ TTĐB lớn thứ tư trong tỉ
trọng các số thu của từng sắc thuế hiện hành, số thu từ thuế TTĐB
chiếm từ 15 đến 18% trong tổng số thu từ thuế gián thu, chiếm từ 7
đến 10% trong tổng thu thuế và phí.
3. Chủ thể quan hệ pháp luật thuế TTĐB
 Cơ quan nhà nước là chủ thể quyền lực tham gia vào quan hệ pháp
luật thuế TTĐB, có thẩm quyền trong lĩnh vực thu thuế, xem xét và
quyết định miễn, giảm thuế TTĐB gồm Bộ tài chính, Tổng cục thuế
và các cơ quan thu. Bộ tài chính và Tổng cục thuế tham gia vào quan
hệ pháp luật thuế TTĐB với tư cách chủ thể quyền lực, xem xét và
quyết định các trường hợp miễn hoặc giảm thuế TTĐB cho đối
tượng nộp thuế khi nhận được hồ sơ xin miễn, giảm thuế TTĐB của
đối tượng này do cơ quan thu gửi tới. Cơ quan thu gồm cơ quan thuế,
hải quan, cơ quan tài chính tham gia vào quan hệ trên với tư cách

chủ thể quyền lực, có thâm quyền hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc
thu nộp thuế TTĐB và áp dụng các chế tài khi cần thiết.
 Theo điều 4 Luật thuế TTĐB năm 2008, chủ thể có nghĩa vụ nộp
thuế TTĐB là các tổ chức, cá nhân có sản xuất, nhập khẩu hoàng hóa
hoặc kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB. Trường


II.








hợp tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh xuất khẩu mua hàng
hóa thuộc diện chịu thuế TTĐB của cơ sở sản xuất để xuất khẩu
nhưng không xuất khẩu mà tiêu dùng trong nước thì tổ chức cá nhân
có hoạt động kinh doanh xuất khẩu là người nộp thuế TTĐB. Phạm
vi chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế TTĐB, vì vậy, phụ thuộc hoàn toàn
vào phạm vi đối tượng chịu thuế TTĐB. Bất kể chủ thể nào có thể
sản xuất hoặc nhập khẩu các mặt hàng hoặc kinh doanh các dịch vụ
theo điều 2 luật thuế TTĐB 2008 đều phải có nghĩa vụ nộp thuế
TTĐB.
Đặc trưng của thuế TTĐB
Thuế tiêu thụ đặc biệt có tính chất gián thu, thể hiện ở chỗ: Thuế
TTĐB đánh vào thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ chịu
thuế TTĐB một cách gián tiếp thông qua giá cả của hàng hoá, dịch vụ
mà người đó tiêu dùng và người sản xuất và kinh doanh hàng hoá, dịch

vụ chịu thuế TTĐB là người nộp thuế cho nhà nước thay cho người tiêu
dùng. Như vậy, người sản xuất, nhập khẩu hàng hoá, kinh doanh dịch
vụ sẽ nộp thuế TTĐB và khoản thuế này được chuyển vào giá bán sản
phẩm và chuyển sang cho người tiêu dùng cuối cùng phải gánh chịu.
Thuế TTĐB tập trung vào điều tiết một số dịch vụ không được Nhà
nước khuyến khích tiêu dùng. Nhìn chung các quốc gia thường đánh
thuế TTĐB vào một số mặt hàng được coi là cao cấp và không thiết
yếu, Nhà nước không khuyến khích tiêu dùng.
Thuế suất thuế TTĐB có thể là thuế suất cố định hoặc thuế suất tỉ lệ và
thường cao hơn so với thuế suất của các loại thuế gián thu khác. Thuế
suất TTĐB có thể là thuế suất cố định hoặc thuế suất tỉ lệ. Đối với thuế
suất tỉ lệ, việc điều chỉnh mức thu thường được đặt ra khi Nhà nước chủ
trương thay đổi chính sách hướng dẫn phát triển sản xuất, kinh doanh,
tiêu dùng xã hội, hoặc khi cần thay đổi tỉ lệ động viên vào ngân sách
nhà nước. Đối với thuế suất cố định, ngoài chịu ảnh hưởng của những
yếu tố dẫn đến việc sửa đổi mức thu, mức độ lạm phát cũng là một tác
nhân quan trọng phải thường xuyên chỉnh sửa mức thu theo kịp sự biến
động giá trị của đồng tiền.
Thuế TTĐB chỉ được thu một lần ở khâu sản xuất hoặc xuất nhập khẩu.
Cùng một mặt hàng chịu thuế TTĐB, khi luân chuyển qua khâu lưu
thông sẽ không bị đánh thuế TTĐB. Đặc điểm này cho thấy thuế TTĐB
khác với thuế doanh thu và thuế GTGT ở chỗ các loại thuế này đánh
trên toàn bộ doanh thu bán hàng hoặc trên giá trị tăng thêm của hàng
hòa ở mỗi khâu lưu thông.
Thuế TTĐB thường có mức thuế suất cao nhằm điều tiết sản xuất và
hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, thông qua đó nhằm điều tiết một phần thu
nhập của những người tiêu dùng các hàng hoá, dịch vụ này. Do đối
tượng của Thuế TTĐB chỉ áp dụng với một số hàng hoá, dịch vụ nên
các nước thường áp dụng mức thuế suất thuế TTĐB cao để hướng dẫn
sản xuất, tiêu dùng qua đó cũng điều tiết một phần thu nhập của những



người tiêu dùng các hàng hoá dịch vụ có thu nhập cao, đảm bảo công
bằng xã hội.
 Thuế TTĐB chỉ thu ở khâu sản xuất hoặc khâu nhập khẩu, cung ứng
hàng hoá dịch vụ. Khi hàng hoá và dịch vụ này chuyển qua khâu lưu
thông thì không phải chịu thuế TTĐB.
 Số thuế TTĐB phải nộp= Số thuế TTĐB phải nộp của hàng xuất kho
tiêu thụ trong kỳ - Số thuế TTĐB đã nộp ở khâu nguyên vật liệu mua
vào tương ứng với số hàng xuất kho tiêu thụ trong kỳ. Đặc điểm này
cho phép phân biệt thuế TTĐB với thuế GTGT. Thuế GTGT được thu
trên mỗi khâu sản xuất luân chuyển của hàng hoá, dịch vụ. Vì vậy, việc
quản lý thuế TTĐB đòi hỏi phải kiểm tra, giám sát chặt chẽ, đảm bảo
hạn chế đến mức tối đa sự thất thu thuế TTĐB tại khâu sản xuất, cung
ứng dịch vụ hoặc nhập khẩu.
III. Những điểm tương đồng và khác nhau giữa Thuế tiêu thụ đặc biệt
(TTĐB) và Thuế giá trị gia tăng (GTGT):
1. Những điểm tương đồng giữa Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) và
Thuế giá trị gia tăng (GTGT):
1.1 Mục đích:
Mỗi loại thuế khác nhau, ý chí ấy cũng được biểu hiện ở những khía cạnh
khác nhau nhưng luôn xuất phát từ 2 mục đích lớn nhất và cơ bản nhất là
nhằm phục vụ lợi ích của Nhà nước và tạo ra trật tự chung cho xã hội. Với
thuế GTGT và thuế TTĐB, chúng cùng thể hiện những mục đích có thể kể
đến như:
 Đối với ngân sách nhà nước: nhằm đảm bảo và ổn định cho ngân sách
nhà nước bởi chúng là loại thuế đánh vào người tiêu dùng, được áp
dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm hàng
hoá hoặc cung ứng dịch vụ nên có thể tạo ra được nguồn thu lớn cho
ngân sách nhà nước.

 Đối với hệ thống thuế Việt Nam: Thuế GTGT, thuế TTĐB được ban
hành gắn liền với việc sửa đổi bổ sung một số thuế khác nhau như:
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế thu nhập... nhằm giúp cho hệ
thống thuế của Việt Nam ngày càng hoàn thiện phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế của đất nước, tương đồng với hệ thống thuế trong khu
vực và trên thế giới.
 Đối với doanh nghiệp: nhằm thực hiện chính sách quản lý đối với các cơ
sở sản xuất kinh doanh và nhập khẩu hàng hoá dịch vụ và nhằm tăng
cường công tác hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp thúc đẩy việc
mua bán hàng hoá có hoá đơn chứng từ.
 Đối với nền kinh tế: nhằm tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu cạnh tranh
thuận lợi trên thị trường quốc tế (vì có những trường hợp được hoàn
thuế) và thuế GTGT, thuế TTĐB kết hợp với thuế nhập khẩu làm tăng


giá vốn hàng nhập khẩu có tác dụng tích cực bảo vệ sản xuất kinh doanh
hàng nội địa, từ đó tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp trong
nước phát triển.
1.2 Phạm vi áp dụng
Đối tượng chịu thuế và không chịu thuế của Luật Thuế TTĐB được quy
định tại điều 2 và 3 Luật Thuế TTĐB 2008 còn đối tượng chịu thuế của
Luật Thuế GTGT được quy định tại điều 3 và điều 5 Luật Thuế GTGT
2008. Cùng một mục đích nên Thuế GTGT và thuế TTĐB cũng có những
nét chung về phạm vi áp dụng như sau:
 Đối tượng chịu thuế:
Hàng hóa:
a) Thuốc lá điếu, xì gà và chế phẩm khác từ cây thuốc lá dùng để hút,
hít, nhai, ngửi, ngậm;
b) Rượu;
c) Bia;

d) Xe ô tô dưới 24 chỗ, kể cả xe ô tô vừa chở người, vừa chở hàng
loại có từ hai hàng ghế trở lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang
chở người và khoang chở hàng;
đ) Xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích xi lanh trên
125cm3;
e) Tàu bay, du thuyền;
g) Xăng các loại;
h) Điều hoà nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trở xuống;
i) Bài lá;
k) Vàng mã, hàng mã.
Dịch vụ:
a) Kinh doanh vũ trường;
b) Kinh doanh mát-xa (massage), ka-ra-ô-kê (karaoke);
c) Kinh doanh ca-si-nô (casino); trò chơi điện tử có thưởng bao gồm
trò chơi bằng máy giắc-pót (jackpot), máy sờ-lot (slot) và các loại máy
tương tự;
d) Kinh doanh đặt cược;
đ) Kinh doanh gôn (golf) bao gồm bán thẻ hội viên, vé chơi gôn;
e) Kinh doanh xổ số.
 Đối tượng không chịu thuế:
Hàng hóa nhập khẩu trong trường hợp viện trợ nhân đạo, viện trợ


không hoàn lại; quà tặng cho cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; quà biếu, quà tặng
cho cá nhân tại Việt Nam theo mức quy định của Chính phủ; đồ dùng của
tổ chức, cá nhân nước ngoài theo tiêu chuẩn miễn trừ ngoại giao; hàng
mang theo người trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế.
Hàng hoá chuyển khẩu, quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam; hàng hoá,

dịch vụ được mua bán giữa nước ngoài với các khu phi thuế quan và giữa
các khu phi thuế quan với nhau.
2. Những điểm khác nhau giữa Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) và
Thuế giá trị gia tăng (GTGT):
2.1 Mục đích
Thuế GTGT: Nhằm góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở
rộng lưu thông phân phối hàng hoá, bảo hộ hợp lý.
Thuế TTĐB: Nhằm hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng hàng hoá,
dịch vụ được coi là đặc biệt, điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân
cư có thu nhập cao, thực hiện phân phối thu nhập công bằng hợp lý.
2.2 Phạm vi áp dụng:
 Thuế GTGT: Hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và
tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, trừ các đối
tượng quy định tại Điều 5 của Luật này, bao gồm cả những đối tượng
chịu thuế TTĐB
 Thuế TTĐB:
1.Hàng hóa:
a) Thuốc lá điếu, xì gà và chế phẩm khác từ cây thuốc lá dùng để hút,
hít, nhai, ngửi, ngậm;
b) Rượu;
c) Bia;
d) Xe ô tô dưới 24 chỗ, kể cả xe ô tô vừa chở người, vừa chở hàng
loại có từ hai hàng ghế trở lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang
chở người và khoang chở hàng;
đ) Xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích xi lanh trên
125cm3;
e) Tàu bay, du thuyền;
g) Xăng các loại.
h) Điều hoà nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trở xuống;
i) Bài lá;



k) Vàng mã, hàng mã.
2. Dịch vụ:
a) Kinh doanh vũ trường;
b) Kinh doanh mát-xa (massage), ka-ra-ô-kê (karaoke);
c) Kinh doanh ca-si-nô (casino); trò chơi điện tử có thưởng bao gồm
trò chơi bằng máy giắc-pót (jackpot), máy sờ-lot (slot) và các loại máy
tương tự;
d) Kinh doanh đặt cược;
đ) Kinh doanh gôn (golf) bao gồm bán thẻ hội viên, vé chơi gôn;
e) Kinh doanh xổ số.
2.3 Đối tượng chịu thuế:
 Thuế GTGT: Người nộp thuế giá trị gia tăng là tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng (sau đây
gọi là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu
thuế giá trị gia tăng (sau đây gọi là người nhập khẩu).
 Thuế TTĐB: Người nộp thuế tiêu thụ đặc biệt là tổ chức, cá nhân sản
xuất, nhập khẩu hàng hóa và kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu
thuế tiêu thụ đặc biệt. Trường hợp tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh
doanh xuất khẩu mua hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt
của cơ sở sản xuất để xuất khẩu nhưng không xuất khẩu mà tiêu thụ
trong nước thì tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh xuất khẩu là
người nộp thuế tiêu thụ đặc biệt.
3. Đối tượng không chịu thuế:
Bên cạnh đó, đối tượng chịu thuế của thuế GTGT rộng hơn nhiều so với
thuế TTĐB do thuế TTĐB chỉ tập trung điều tiết một số mặt hàng và dịch
vụ nhất định, không được nhà nước khuyến khích tiêu dùng.
Mối liên hệ giữa thuế TTĐB và thuế GTGT:
 Thuế nhập khẩu có mục đích bảo hộ, thuế TTĐB có mục đích điều

tiết đặc biệt, thuế GTGT có mục đích điều tiết phổ cập. Mỗi mục
đích được một sắc thuế đảm nhiệm, vì vậy chúng độc lập với nhau.
Chúng có quan hệ với nhau thông qua việc chuyển thuế thông qua
việc chuyển thuế vào giá cả hàng hoá, dịch vụ.
 Hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì phải chịu thuế giá trị
gia tăng đối với số lượng hàng hóa, dịch vụ đã kê khai nộp thuế tiêu
thụ đặc biệt. Chẳng hạn, cơ sở trực tiếp sản xuất khi bán ra những
mặt hàng thuộc diện chiụ thuế tiêu thụ đặc biệt thì cơ sở này kê khai


nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đồng thời phải kê khai nộp thuế giá trị gia
tăng để đảm bảo tính liên hoàn của thuế GTGT.
 Các hàng hóa, dịch vụ đã chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, khi lưu thông
trên thị trường, tức là được chuyển qua khâu thương nghiệp thì các
cơ sở kinh doanh các mặt hàng này không phải nộp thuế tiêu thụ đặc
biệt nhưng phải nộp thuế giá trị gia tăng .
 Cơ sở nhập khẩu hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp thuế
tiêu thụ đặc biệt cùng với thuế Nhập khẩu và thuế GTGT theo từng
lần nhập khẩu.
IV. Sự thay đổi của danh mục hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt từ
Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990 cho đến nay:
Ở nước ta, Luật Thuế TTĐB lần đầu tiên được ban hành vào năm 1990
trong chương trình cải cách thuế giai đoạn I. Quá trình thực hiện, thuế
TTĐB đã được sửa đổi và hoàn thiện nhiều lần để đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn và các yêu cầu đặt
ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những lần sửa đổi, bổ sung
quan trọng nhất là các Luật được ban hành trong các năm 1998, 2003 và
2005.
Tổng kết hơn 20 năm thực hiện Luật Thuế TTĐB và các Luật sửa đổi,
bổ sung đã cho thấy về cơ bản, thuế TTĐB đã đạt được mục tiêu đặt ra là

hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng của xã hội, điều tiết thu nhập của người tiêu
dùng một cách hợp lý, và tăng cường quản lý sản xuất, kinh doanh đối với
một số hàng hoá và dịch vụ. Thuế suất cao áp dụng đối với nhiều mặt hàng
như thuốc lá, rượu, bia, ôtô du lịch, kinh doanh vũ trường,... không chỉ
nhằm mục tiêu động viên nguồn thu cho NSNN mà còn thực hiện vai trò
định hướng tiêu dùng. Chính sách miễn, giảm thuế TTĐB được công bố
trước theo lộ trình giảm dần bảo hộ đối với doanh nghiệp sản xuất bia hơi,
sản xuất, lắp ráp ôtô trong nước,... tạo điều kiện thuận lợi cho việc sắp xếp
lại SXKD trong nước và cùng với thuế nhập khẩu đã góp phần vào việc
hình thành nên một ngành công nghiệp mới. Mặc dù đạt được nhiều kết quả
thiết thực nhưng trước đòi hỏi của sự phát triển kinh tế xã hội hiện nay và
trong thời gian tới, Luật Thuế TTĐB của nước ta vẫn cần được tiếp tục
hoàn thiện.
Ngày 14/11/2008, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội Khoá XII đã thông qua
Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt với nhiều nội dung đổi mới. Đến nay, Chính
phủ, Bộ Tài chính đã hoàn tất công việc ban hành văn bản hướng dẫn để
triển khai thực hiện Luật đúng thời điểm hiệu lực từ ngày 01/04/2009. Dưới
đây là những thông tin mới về nội dung chính sách và công tác quản lý thuế
TTĐB được thể hiện trong Luật và các văn bản hướng dẫn.
 Về đối tượng chịu thuế
Trong lần sửa đổi này, Luật Thuế TTĐB có phạm vi điều chỉnh rộng,
ngoài các mặt hàng truyền thống (đồ uống có cồn như rượu, bia; thuốc lá;


xăng và các chế phẩm dùng để pha chế xăng, điều hoà nhiệt độ, ôtô du lịch
dưới 24 chỗ ngồi,... một số mặt hàng mới được bổ sung vào đối tượng chịu
thuế, đáng lưu ý là:
- Xe mô tô có dung tích xi lanh trên 125 phân khối (cm3), với đặc thù là đại
bộ phận thuộc loại xe tay ga, xe đua, thường có giá trị lớn, chủ yếu được sử
dụng và lưu thông ở các thành phố lớn, người sử dụng phần đông là bộ

phận dân cư có thu nhập cao. Việc đưa loại xe môtô có dung tích xi - lanh
trên 125 cm3 vào diện chịu thuế TTĐB không ảnh hưởng đến các đối
tượng sử dụng xe máy phổ thông là bà con nông dân, người lao động có thu
nhập trung bình trở xuống mà vẫn bảo đảm được yêu cầu định hướng tiêu
dùng, khuyến khích sử dụng năng lượng có hiệu quả, tiết kiệm nhiên liệu
và góp phần giảm ô nhiễm môi trường.
- Tàu bay và du thuyền (trừ loại được sử dụng cho mục đích kinh doanh
vận chuyển hàng hoá, hành khách, khách du lịch) là những mặt hàng cao
cấp phục vụ cho các đối tượng có thu nhập rất cao. Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế và thiên hướng tiêu dùng xã hội, một bộ phận dân cư có thu
nhập cao có khả năng sở hữu tàu bay, du thuyền để phục vụ nhu cầu tiêu
dùng riêng. Vì vậy, Luật Thuế TTĐB đã bổ sung vào diện chịu thuế TTĐB
các đối tượng này nhằm thực hiện chính sách điều tiết thu nhập.
- Bổ sung mặt hàng ôtô dưới 24 chỗ ngồi vừa chở người vừa chở hàng vào
đối tượng chịu thuế TTĐB. Các Luật Thuế TTĐB ban hành trước đây đều
quy định áp thuế đối với ô tô chở người dưới 24 chỗ ngồi. Trên thực tế, có
loại xe dưới 24 chỗ ngồi có tính chất lưỡng dụng: vừa chở người, vừa chở
hàng nhưng chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân (như xe VAN,
xe pick-up có từ hai hàng ghế ngồi trở lên). Để phù hợp mục tiêu của thuế
TTĐB và bảo đảm tính bao quát của Luật nên loại xe này được bổ sung vào
đối tượng chịu thuế TTĐB, tuy nhiên, có tính đến tính chất lưỡng dụng của
loại xe này nên áp dụng thuế suất thấp hơn loại xe chỉ chở người.
- Bổ sung vào diện áp thuế TTĐB đối với những mặt hàng là “các chế
phẩm khác từ cây thuốc lá” để bao quát hết các sản phẩm thuốc lá. Nội
dung này nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống là trên thị trường
hiện nay, ngoài thuốc lá điếu, xì gà còn có các chế phẩm khác từ cây thuốc
lá nhưng không hút mà dùng để nhai, ngửi.
- Đổi mới quy định về kinh doanh đặt cược: Trên giác độ quản lý xã hội thì
hoạt động cá cược, một số loại hình “vui chơi có thưởng” mang nặng tính
“ăn thua” không cần khuyến khích. Do đó, trong khung khổ Luật Thuế, các

văn bản hướng dẫn đã quy định hoạt động kinh doanh đặt cược “bao gồm:
đặt cược thể thao, giải trí và các hình thức đặt cược khác theo quy định của
pháp luật” để có thể mở rộng diện điều chỉnh trong trường hợp cần thiết.
 Về đối tượng không thuộc diện chịu thuế
Với mục tiêu điều tiết và định hướng sản xuất, tiêu dùng, Luật Thuế
TTĐB lần này quy định cụ thể diện điều chỉnh, có bổ sung thêm một số
mặt hàng phải nộp thuế TTĐB. Tuy nhiên, thực tiễn cuộc sống cho thấy
mặt hàng thuộc diện chịu thuế TTĐB cũng có thể được sử dụng cho các


mục đích không hẳn là tiêu dùng cá nhân. Do đó, trong điều kiện của nước
ta, Luật Thuế TTĐB số 27/2008/QH12 và các văn bản hướng dẫn có quy
định cụ thể những đối tượng không thuộc diện chịu thuế TTĐB như sau:
- Tàu bay, du thuyền sử dụng cho mục đích kinh doanh vận chuyển hàng
hoá, hành khách, dịch vụ du lịch (loại không dùng cho tiêu dùng cá nhân).
Quy định này nhằm không gây ảnh hưởng đến các doanh nghiệp có hoạt
động kinh doanh vận tải, du lịch.
- Thực tế có một số chủng loại xe ôtô dưới 24 chỗ ngồi được sử dụng cho
mục đích chuyên dùng như: xe cứu thương, xe chở phạm nhân, xe tang lễ;
xe ôtô thiết kế vừa có chỗ ngồi, vừa có chỗ đứng chở được từ 24 người trở
lên (xe buýt nội thành và liên tỉnh, xe buýt vận chuyển khách trong sân bay,
nhà ga). Để phù hợp với mục tiêu của thuế TTĐB đối với mặt hàng ôtô,
thực hiện điều tiết đúng đối tượng nên đã bổ sung các loại ôtô chuyên dụng
vào diện không chịu thuế.
- Theo qui định của pháp luật hiện hành, thì quan hệ trao đổi hàng hoá giữa
thị trường nội địa và khu phi thuế quan được coi như quan hệ xuất nhập
khẩu, hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan và chỉ sử
dụng trong khu phi thuế quan, hàng hoá từ khu phi thuế quan này sang khu
phi thuế quan khác không phải chịu các loại thuế gián thu như thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu, thuế GTGT. Để bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống

chính sách, pháp luật thuế, Luật Thuế TTĐB đã bổ sung các loại hàng hoá
đưa vào các khu phi thuế quan vào đối tượng không chịu thuế TTĐB.
Riêng ôtô chở người dưới 24 chỗ ngồi được nhập khẩu vào các khu phi
thuế quan nhưng thực tế do chúng chủ yếu được sử dụng trong nội địa Việt
Nam nên vẫn thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB để tránh gian lận thương
mại và phù hợp với thực tiễn.
 Về thuế suất thuế TTĐB
Việc sửa đổi mức thuế suất lần này nhằm mục tiêu vừa khắc phục
những tồn tại, bất cập của Luật Thuế TTĐB trước đây, vừa đảm bảo việc
thực hiện các cam kết quốc tế của nước ta trong Hiệp định gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), cụ thể như sau:
- Đối với mặt hàng ôtô du lịch, trong nhiều năm, Luật Thuế TTĐB quy
định mức thuế suất áp dụng đối với ôtô chở người được phân biệt theo tiêu
chí số chỗ ngồi. Theo đó, ôtô từ 5 chỗ ngồi trở xuống áp thuế suất 50%; ôtô
từ 6 đến 15 chỗ áp thuế suất 30%; ôtô từ 16 đến dưới 24 chỗ áp thuế suất
15%. Quy định như vậy trong thực tế thực hiện đã bộc lộ hạn chế, bất cập.
Đối với loại xe từ 6 đến 9 chỗ ngồi được sử dụng chủ yếu làm phương tiện
đi lại cho cá nhân, song chỉ chịu mức thuế suất bằng 60% so với mức thuế
suất áp dụng cho xe từ 5 chỗ ngồi trở xuống. Kinh nghiệm quốc tế cho
thấy, tại nhiều nước, bên cạnh việc sử dụng tiêu chí số chỗ ngồi, họ còn kết
hợp với một số tiêu chí khác để định ra mức thuế TTĐB như dung tích xi
lanh (hoặc công suất động cơ), kích thước xe liên quan đến diện tích chiếm
chỗ,... Trong lần sửa đổi này đã có sự lựa chọn kết hợp nhiều tiêu chí phân


loại để sắp xếp, cơ cấu lại thuế suất giữa các nhóm xe, có tính đến diện tích
chiếm chỗ ảnh hưởng đến giao thông, nguồn năng lượng sử dụng.
- Đối với chủng loại xe từ 6 đến 9 chỗ ngồi sẽ được xếp vào cùng nhóm với
các chủng loại xe 5 chỗ ngồi trở xuống để áp dụng một mức thuế suất phân
biệt theo dung tích xi lanh với nguyên tắc: dung tích xi lanh lớn hơn sẽ phải

chịu mức thuế suất cao hơn; Đối với loại xe có dung tích từ 2.000 cc trở
xuống áp dụng mức thuế suất là 45%, dung tích trên 2.000 cc đến 3.000 cc
mức thuế suất áp dụng là 50%, dung tích trên 3.000 cc sẽ áp mức thuế 60%
là mức thuế suất cao nhất.
Các mức thuế suất mới được áp dụng sẽ không gây ảnh hưởng đến hoạt
động và hiệu quả kinh doanh của các nhà sản xuất, lắp ráp trong nước: Với
cơ cấu hiện tại, các chủng loại xe từ 5 chỗ ngồi trở xuống phần lớn có dung
tích xi lanh dưới 2000 cc nên sẽ có lợi hơn (thuế suất giảm từ 50% xuống
còn 45%); Trong khi đó, xe sản xuất trong nước loại dung tích xi lanh trên
3.000 cc (chịu mức thuế suất tăng từ 50% lên 60%) chiếm tỷ trọng rất nhỏ
(khoảng 3% số lượng xe sản xuất và tiêu thụ thuộc diện chịu thuế TTĐB).
Đối với loại xe từ 6 đến 9 chỗ ngồi sẽ chịu tác động của việc điều chỉnh
cách tính thuế do mức thuế suất được điều chỉnh tăng từ 30% lên 45%,
50% và 60% tuỳ theo dung tích xi lanh. Tuy nhiên, trong từng doanh
nghiệp sản xuất xe ôtô hiện nay đều có sản xuất cả loại xe từ 5 chỗ ngồi trở
xuống và xe từ 6 đến 9 chỗ, do đó về cơ bản sẽ không ảnh hưởng lớn đến
tình hình sản xuất kinh doanh. Mặt khác, loại xe từ 6 đến dưới 9 chỗ có
dung tích trên 3.000cc với mức tăng thuế cao nhất (từ 30% lên 60%), hiện
trong nước sản xuất không đáng kể, chỉ chiếm khoảng 0,8% tổng số xe sản
xuất trong nước thuộc diện chịu thuế TTĐB.
 Đối với đồ uống có cồn
Thuế suất đối với mặt hàng này được các nước đối tác dành sự quan
tâm đặc biệt. Do đó, trong lần sửa đổi này, bên cạnh việc khắc phục những
tồn tại trong quy định của Luật và thực tế thi hành về thuế suất,... còn đảm
bảo việc thực hiện các cam kết quốc tế khi Việt Nam gia nhập WTO.
- Đối với mặt hàng rượu, Viêt Nam cam kết trong vòng 3 năm kể từ ngày
gia nhập WTO (tức là từ năm 2010), tất cả các loại rượu được chưng cất có
nồng độ từ 20 độ cồn trở lên sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối tính theo lít
rượu cồn nguyên chất hoặc một mức thuế phần trăm. Luật Thuế TTĐB
trước đây quy định thuế suất đối với mặt hàng rượu được phân biệt

theo nồng độ cồn, trong đó rượu dưới 20 độ, rượu hoa quả, rượu thuốc áp
thuế suất 20%; rượu từ 20 độ đến dưới 40 độ cồn áp thuế suất 30%; rượu từ
40 độ cồn trở lên áp thuế suất 65%. Hiện nay, rượu sản xuất trong nước chủ
yếu là các loại rượu có nồng độ cồn dưới 40 độ, trong đó rượu có nồng độ
cồn từ 20 độ đến dưới 40 độ chiếm tỷ trọng lớn về sản lượng (95%) và số
thu thuế TTĐB là 93,7%. Rượu từ 40 độ trở lên chiếm tỷ trọng nhỏ về sản
lượng (5%) và số thu thuế TTĐB (6,3%). Để thực hiện đúng cam kết WTO,
Luật Thuế TTĐB mới có quy định mức thuế suất đối với mặt hàng rượu từ
20 độ trở xuống là 25% thay cho mức thuế suất 20%. Các loại rượu có


nồng độ cồn từ 20 độ trở lên trong 3 năm đầu được áp dụng mức thuế suất
là 45%, từ năm 2013 trở đi sẽ áp dụng mức thuế suất là 50%.
- Đối với mặt hàng bia, theo cam kết thì trong vòng 3 năm kể từ khi gia
nhập WTO, Việt Nam sẽ phải quy định một mức thuế suất theo tỷ lệ phần
trăm (%) áp dụng chung đối với các loại bia, không phân biệt hình thức
đóng gói bao bì. Luật trước đây quy định bia chai, bia lon áp thuế suất
75%; bia hơi, bia tươi áp thuế suất là 40% (năm 2006-2007 là 30%). Luật
Thuế TTĐB sửa đổi quy định mức thuế suất áp dụng, đối với mặt hàng bia
là 50% nhưng có lộ trình áp dụng vì đây là cam kết bắt buộc khi Việt Nam
gia nhập WTO nhưng chúng ta cũng phải tính đến quyền lợi và thực trạng
của sản xuất kinh doanh trong nước. Việc áp dụng thuế suất đối với mặt
hàng bia hơi theo hướng tăng từ mức 40% lên 50% là có lộ trình đã được
xác định trước và công bố công khai nhiều năm qua. Mức 50% sẽ được áp
dụng từ năm 2013. Trong 3 năm đầu kể từ khi Luật số 27/2008 có hiệu lực,
mức thuế suất áp dụng chung với tất cả các chủng loại bia, không phân biệt
bao bì sẽ là 45% (với bia hơi có tăng 5% so với trước). Mức tăng này sẽ
không ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp bia hơi và với lộ trình 3 năm
cũng sẽ tiếp tục tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất bia hơi có thời
gian sắp xếp lại sản xuất, thay đổi cơ cấu mặt hàng (bia hơi, bia chai, bia

lon) để ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh.
- Đối với các dịch vụ khác, Luật Thuế TTĐB sửa đổi giữ nguyên mức thuế
suất đối với kinh doanh dịch vụ mát xa, karaoke là 30%. Riêng đối với kinh
doanh vũ trường được sử dụng bởi phần lớn người có thu nhập khá, vì vậy
Luật thuế mới đã điều chỉnh tăng mức thuế suất từ 30% lên 40%. Đối với
dịch vụ casino, trò chơi điện tử có thưởng, kinh doanh đặt cược: trước đây
áp mức thuế suất là 25%. Đây là loại hình dịch vụ Nhà nước không khuyến
khích kinh doanh và tiêu dùng. Do đó, Luật Thuế TTĐB sửa đổi đã điều
chỉnh tăng thuế suất lên mức 30%. Đối với kinh doanh golf, là loại hình
dịch vụ cao cấp, thu hút những người có thu nhập cao trong xã hội, do đó
Luật sửa đổi đã điều chỉnh mức thuế suất lên 20% (thay cho mức thuế
10%).
Nhìn chung, ta có thể thấy là sau những lần sửa đổi bổ sung thì Luật
thuế TTĐB đã hoàn thiện hơn rất nhiều, đặc biệt là về các đói tượng chịu
thuế, với những mức tăng thuế TTĐB đối với những dịch vụ được cho là
cao cấp, không cần thiết với cuộc sống hàng ngày như casino, karaoke, vũ
trường, rượu, bia, và có những mức giảm thiếu về thuế TTĐB đối những
hàng hóa, dịch vụ thiết yếu đối với cuộc sống con người như xe oto 24 chỗ
ngồi, tàu bay, du thuyền sử dụng cho việc vận chuyển hàng hóa, khách du
lịch, xe có dung tích nhỏ,…

C.KẾT LUẬN


Trong thời đại công nghiệp 4.0, thuế TTĐB ngày càng được quan
tâm và coi trọng. Và sau những lần sửa đổi và hoàn thiện về Luật thuế
TTĐB từ năm 1990 đến nay, thuế TTĐB đang là công cụ để Nhà nước
khuyến khích việc tiêu dùng sản phảm nội địa, tạo ra một xã hội tiêu dùng
lành mạnh, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của đất nước, góp phần vào mục
tiêu công cộng, đảm bảo công bằng xã hội.

Trên đây là kết quả bài tập học kì của em, với vốn kiến thức vẫn còn hạn
chế nên bài làm của em có thể còn nhiều sai sót. Em rất mong nhận được
sự góp ý từ phía thầy cô để bài làm được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân
thành cảm ơn!


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam,
NXB.CAND 2014
2.Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 2008
3.Luật số 106/2016/QH13
4.Nghị định 108/2015/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
thuế TTĐB
5.Luật Thuế giá trị gia tăng 2008
6. />7. />8. />9.Và một số nguồn khác trên Internet



×