Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Sự hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài thương mại theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN NAY

KHƯƠNG THỊ THÙY TRANG

HÀ NỘI – 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HIỆN NAY
KHƯƠNG THỊ THÙY TRANG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HỒ NGỌC HIỂN

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tác giả xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn hoàn
toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác và do các cơ quan chức năng đã
công bố. Các thông tin, số liệu ghi trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Tác giả luận văn

Khương Thị Thùy Trang


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa sau đại học – Trường đại học Mở Hà Nội,
được sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn TS. Hồ Ngọc Hiển tác giả đã thực hiện đề
tài “Sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam
hiện nay”.
Để hoàn thành luận văn này, trước hết tác giả xin chân thành cảm ơn các
thầy giáo, cô giáo Khoa sau Đại học - Trường đại học Mở Hà Nội, là những người
đã truyền thụ kiến thức cho tác giả trong suốt quá trình tác giả học tập tại trường.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Hồ Ngọc Hiển, người đã trực
tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tác giả hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và đặc biệt là sự khích lệ
của gia đình đã giúp tác giả trong suốt quá trình học tập, thực hiện và hoàn thành tốt
luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày


tháng

năm 2019

Tác giả luận văn

Khương Thị Thùy Trang


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật dân sự

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự.

LTTTM

Luật trọng tài thương mại.

VIAC

Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI
VỚI TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI ................................................................................ 5
1.1 Khái quát về trọng tài thương mại. ......................................................................5
1.1.1 Khái niệm trọng tài thương mại. ........................................................................5
1.1.2 Đặc điểm trọng tài thương mại. .........................................................................7
1.1.3 Các hình thức trọng tài thương mại ...................................................................9
1.2 Hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại .................................................14
1.2.1 Khái niệm, cơ sở của sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại.......14
1.2.2. Ý nghĩa của sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại ....................15
1.3 Các hình thức hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại ..........................15
1.3.1 Thay đổi trọng tài viên .....................................................................................16
1.3.2 Xem xét khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định của hội đồng trọng tài về
thẩm quyền ................................................................................................................18
1.3.3 Triệu tập người làm chứng, thu thập chứng cứ ...............................................19
1.3.4 Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời .............................................................20
1.3.5 Đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc ..............................................................27
1.3.6 Hủy phán quyết trọng tài..................................................................................28
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................................... 37
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................ 38
2.1 Các quy định chung của pháp luật về hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương
mại ở Việt Nam hiện nay. .........................................................................................38
2.1.1 Quy định của pháp luật về hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài trong lựa chọn
trọng tài viên. ............................................................................................................38
2.1.2 Quy định của pháp luật về hố trợ của Tòa án đối với trọng tài trong áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời. ....................................................................................39


2.1.3 Quy định của pháp luật về hố trợ của Tòa án đối với trọng tài trong hủy phán
quyết trọng tài ...........................................................................................................40

2.1.4 Quy định của pháp luật về hố trợ của Tòa án đối với trọng tài trong triệu tập
người làm chứng, thu thập chứng cứ ........................................................................41
2.2 Thực tiễn sự hỗ trợ của Tòa án đối với Trọng tài thương mại theo pháp luật Việt
Nam hiện nay ............................................................................................................41
2.2.1 Thực tiễn sự hỗ trợ của Tòa án trong việc ra quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời. .....................................................................................................43
2.2.2 Thực tiễn sự hỗ trợ của Tòa án trong việc xem xét khiếu nại và giải quyết
khiếu nại quyết định của hội đồng trọng tài về thẩm quyền. ....................................44
2.2.3 Thực tiễn sự hỗ trợ của Tòa án trong việc hủy phán quyết trọng tài. ............46
Tiểu kết chương 2......................................................................................................58
Chương 3: MỘT SỐ HẠN CHẾ KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC
QUY ĐỊNH VỀ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................. 59
3.1 Một số hạn chế khó khăn của Luật trọng tài thương mại 2010 trong vấn đề sự hỗ
trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam .....................59
3.2 Một số giải pháp hoàn thiện quy định sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài
thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay. ........................................................62
3.2.1 Hỗ trợ của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ và áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời. ..............................................................................................................62
3.2.2 Hỗ trợ của Tòa án trong việc xác định thẩm quyền của trọng tài, chỉ định
trọng tài viên .............................................................................................................64
3.2.3 Hỗ trợ của Tòa án trong việc triệu tập nhân chứng ........................................66
3.2.4 Hỗ trợ của Tòa án trong việc hủy quyết định trọng tài ...................................66
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................................... 68
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 71


MỞ ĐẦU
1. Cở sở khoa học và thực tiễn của đề tài

Trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp ngày càng có
điều kiện được thành lập với nhiều hình thức khác nhau và trong nhiều ngành nghề
khác nhau thì việc liên kết, hợp tác hay thậm chí là cạnh tranh nhau đang ngày càng
trở nên phổ biến. Bên cạnh những hợp đồng hợp tác, những giao kết thành công vẫn
tồn tại khá nhiều những mâu thuẫn, bất đồng thậm chí vi phạm quyền lợi lẫn nhau
giữa các doanh nghiệp. Từ đó gây thiệt hại cho các bên và cho nền kinh tế thị
trường. Chính vì vậy, thuật ngữ “ tranh chấp thương mại” hay “ tranh chấp kinh
doanh” đã là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế
giới và mới được sử dụng rộng rãi, phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây.
Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra
trong hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như
hậu quả của nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền
kinh tế nói chung, pháp luật Việt Nam cũng đã sớm có những quan tâm nhất định
đến hoạt động này, cũng như các phương thức giải quyết nó thể hiện thông qua các
quy định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật.
Trọng tài thương mại ra đời và phát triển từ rất sớm, ở nhiều nước có nền
kinh tế thị trường phát triển thì phần lớn các tranh chấp phát sinh trong hoạt động
thương mại thường được giải quyết thông qua phương thức trọng tài. Trọng tài
thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp khá phổ biến trên thế giới, nhất là tại
những nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Tại Việt Nam, tuy mới được hình
thành nhưng trọng tài cũng được khuyến khích sử dụng trong một loạt các luật như
Luật thương mại, Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp….Giải quyết tranh chấp thương
mại bằng hình thức trọng tài có 04 ưu thế so với giải quyết bằng con đường tòa án.
Thứ nhất, thủ tục giải quyết đơn giản và nhanh gọn. Thứ hai, đảm bảo bí mật ( xử
kín). Điều này rất quan trọng đối với doanh nghiệp vì nó bảo toàn được uy tín,
1


thương hiệu của doanh nghiệp. Thứ ba, các trọng tài viên là những chuyên gia hàng
đầu. Thứ tư, xét xử bằng cơ chế trọng tài chỉ một lần nên nó là chung thẩm. Quyết

định của trọng tài buộc các bên phải thi hành ngay, nếu không sẽ được chuyển sang
cơ quan thi hành án dân sự thi hành.
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại một cách nhanh
chóng, hiệu quả và cũng làm giảm bớt gánh nặng cho Tòa án. Trong thực tế, vì
trọng tài là một cơ quan phi Chính phủ nên vẫn cần có sự trợ giúp của Tòa án. Tòa
án hỗ trợ giám sát rất lớn đối với việc thực thi các phán quyết của trọng tài, hỗ trợ
trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời….Có thể nói trọng tài không
thể hoạt động tốt nếu thiếu sự hỗ trợ của Tòa án. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn
đề lý luận chung, thực trạng về trọng tài và sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động
trọng tài là cần thiết trong giai đoạn hiện nay để đảm bảo cho việc giải quyết tranh
chấp bằng con đường trọng tài thực sự đạt hiệu quả. Chính vì vậy tác giải chọn đề
tài “Sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam
hiện nay” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ trước đến nay cũng đã có một số bài báo, bài viết về vấn đề này sự hỗ trợ
của Tòa án đối với trọng tài thương mại đáng chú ý là các bài viết, công trình
nghiên cứu sau:
- Dương Văn Hậu (1999), Trọng tài thương mại Việt Nam trong tiến trình đổi mới,
NxB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Hội luật gia Việt Nam (2009), Báo cáo số 10/BCTĐ – HLGV ngày 30/4 về đánh
giá tác động dự kiến của Luật trọng tài, Hà Nội.
- Hội luật gia Việt Nam (2009), Tờ trình về dự án luật số 10/BCTĐ – HLGV ngày
30/4, Hà Nội.
- Dương Đăng Huệ (2003), “Một điển hình của việc xây dựng pháp luật theo hướng
hội nhập”, Nghiên cứu lập pháp, ( 6).
2


- Trần Hữu Quỳnh (chủ biên) ( 2007), Các quyết định trọng tài quốc tế chọn lọc,
NxB Tư pháp, Hà Nội.

- Đặng Thị Bích Liễu (1998), Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đường trọng
tài, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
- Nguyễn Đình Thơ (2007), Hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại của Việt
Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội.
- Dương Thanh Mai (chủ nhiệm đề tài) (2006), Bình luận khoa học pháp lệnh trọng
tài thương mại 2003, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ tư pháp, Hà Nội.
- Đào Trí Úc ( 2008), “Tham luận góp ý cho dự thảo Luật trọng tài thương mại”,
Hội thảo lấy ý kiến cho dự thảo Luật trọng tài thương mại 2010, Phòng thương mại
và công nghiệp Việt Nam phối hợp với Hội luật gia Việt Nam tổ chức, Hà Nội.
- Văn phòng Quốc Hội (2009), Báo cáo Tổng kết thi hành Pháp lệnh trọng tài
thương mại 2003, Hà Nội
- Tưởng Duy Lượng ( 2016), “ Bình luận bộ luật tố tụng dân sự, Luật trọng tài
thương mại và thực tiễn xét xử”.
Tuy nhiên, những bài viết công trình trên chỉ nói chung chung mà chưa đi
sâu nghiên cứu pháp luật về trọng tài thương mại bản chất thỏa thuận trọng tài cũng
như thực trạng về thỏa thuận trọng tài thương mại ở nước ta. Trong xu thế hội nhập
hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận
và thực tiễn sâu sắc. Những giải pháp của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả
thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về trọng tài của Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn có mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận về sự hỗ trợ của Tòa
án đối với trọng tài thương mại, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật và thực
3


tiễn áp dụng pháp luật về hỗ trợ của Tòa án đối trọng tài thương mại ở Việt Nam
hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật về hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Thứ nhất, luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận pháp lý về hỗ
trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại
Thứ hai, luận văn đánh giá thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật về hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại ở Việt Nam
Thứ ba, luận văn đề xuất một số kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về
hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định
của pháp luật Việt Nam hiện nay về sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương
mại.
Phạm vi nghiên cứu: Đây là một lĩnh vực nghiên cứu rộng, có thể tiếp cận
từ nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về
những vấn đề sau:
- Luận văn chỉ nghiên cứu về sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương
mại.
- Luận văn tập trung phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật thực
định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại. Do đó, Luận văn chỉ tập
trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về về sự hỗ trợ của Tòa án đối với
trọng tài thương mại như hỗ trợ thu thập chứng cứ, hỗ trợ trong việc triệu tập người
làm chứng, hỗ trợ trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời...
Luận văn có sự tiếp thu và kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu đã
được công bố trong thời gian qua.

4


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam trong tiến trình cải

cách Tư pháp về Nhà nước và pháp luật, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học duy vật biện
chứng và triết học duy vật lịch sử Mác - Lênin, chú trọng các phương pháp kết hợp
lý luận với thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Ngoài ra luận văn còn sử
dụng một số phương pháp của các bộ môn khoa học khác như luật học so sánh,
thống kê, xã hội học.
Luận văn sử dụng linh hoạt, kết hợp giữa các phương pháp cứu khoa học
chuyên ngành cụ thể như: phương pháp phân tích, chứng minh, so sánh, diễn giải,
thống kê, tổng hợp…Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng đồng thời, có sự kết
hợp, không áp dụng một cách cứng nhắc, tách biệt theo trình tự hết phương pháp này
mới đến phương pháp khác. Tuy nhiên, phương pháp logic và hệ thống được sử dụng
xuyên suốt, đảm bảo tính nhất quán, liên thông giữa các nội dung, các chương của đề
tài, còn ở mỗi chương phương pháp nghiên cứu chủ yếu, đặc trưng được sử dụng như
sau:
Chương 1 và Chương 2: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, diễn giải,
chứng minh, so sánh để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận liên quan đến sự hỗ trợ
của Tòa án đối với trọng tài thương mại.
Chương 3: Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp để
đánh giá đưa ra các giải pháp, định hướng cơ bản để hoàn thiện quy định của pháp
luật liên quan đến sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại theo pháp luật
hiện nay.

5


6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách khoa học, có hệ thống về các
vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật Việt Nam hiện nay về sự hỗ trợ của Tòa án
đối với trọng tài thương mại.

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao nhận thức của những
người trực tiếp làm công tác giải quyết trọng tài và Tòa án. Đồng thời giúp hội đồng
trọng tài, trọng tài viên, thẩm phán và chính các đương sự có cái nhìn tổng quát, hệ
thống, đảm bảo việc lựa chọn các biện pháp phù hợp của pháp luật về sự hỗ trợ của
tòa án đối với trọng tài thương mại. Góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những sai
sót, giảm thiểu khiếu nại – tố cáo có liên quan.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác tìm hiểu,
nghiên cứu và cho cho các cán bộ trực tiếp làm công tác tại Hội đồng trọng tài và
Tòa án.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài
thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài
thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về sự
hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
.

.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN
ĐỐI VỚI TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát về trọng tài thương mại.
1.1.1 Khái niệm trọng tài thương mại.

“Trọng tài” là một phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án, xét về
mặt lịch sử, hòa giải và trọng tài là hai phương thức giải quyết tranh chấp xuất hiện
sớm hơn so với sự ra đời của tòa án. Trọng tài ra đời cách đây mấy trăm năm nhưng
mãi đến sau thế kỷ 20 mới phát triển một cách mạnh mẽ.
“Trọng tài thương mại” là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thương mại, được thực hiện bởi Hội đồng trọng tài hoặc một trọng
tài viên duy nhất với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết tranh chấp bằng
việc đưa ra một phán quyết trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và có
hiệu lực bắt buộc đối với các bên. Trọng tài là một cơ quan giải quyết tranh chấp
phát sinh trong hoạt động thương mại, được thành lập tự nguyện bởi các trọng tài
viên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại bởi
các bên tranh chấp. Khái niệm trọng tài được hiểu đa dạng theo các phương diện
khác nhau.
Theo cuốn “ Đại từ điển kinh tế thị trường” thì trọng tài là phương thức giải
quyết một cách hòa bình các vụ tranh chấp. Đôi bên đương sự tự nguyện đem
những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho bên thứ ba có tư cách công bằng
chính trực xét xử, lời phán quyết do người này đưa ra có hiệu lực rằng buộc với cả
hai bên.
Theo Luật mẫu của UNCITRAL – một văn bản nhiều nước tiếp nhận khi xây
dựng luật trọng tài thì trọng tài nghĩa là mọi hình thức trọng tài có hoặc không có sự
giám sát của tổ chức.

5


Theo hội đồng trọng tài Mỹ ( AAA) thì trọng tài là cách thức giải quyết
tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét
giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh
chấp phải thi hành.
Theo cuốn “Đạo đức và kỹ năng hành nghề luật sư trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa” do PGS.TS Lê Hồng Hạnh làm chủ biên thì
trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp theo đó hai hay nhiều bên đưa vụ
tranh chấp của họ ra trước bên thứ ba trung lập để chủ thể này giải quyết tranh chấp
theo những thủ tục đặc trưng của quá trình đó.
Theo nghị định số 116/CP ngày 05/9/1994 về tổ chức và hoạt động của trọng
tài kinh tế thì: Trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội – nghề nghiệp có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế, các tranh chấp giữa công ty với các thành
viên công ty với nhau, liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; các
tranh chấp có liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
Tuy nhiên, trọng tài thương mại còn cụ thể và chi tiết hơn trọng tài kinh tế vì
hoạt động thương mại chỉ là một phần của hoạt động kinh tế. Hiểu một cách ngắn
gọn thì trọng tài thương mại trước hết phải là một trong những hình thức trọng tài,
chức năng của trọng tài thương mại là giải quyết các tranh chấp thương mại.
Pháp luật trọng tài Việt Nam cũng có quy định tương tự về khái niệm này “
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự thủ tục
do pháp lệnh này quy định [ 30, khoản 1, điều 2].
Bên cạnh đó, trọng tài với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp cũng
là cách tiếp cận khá phổ biến, ví dụ như theo từ điển Tiếng Việt thì trọng tài là
người trực tiếp được cử ra để phân xử, giải quyết những vụ tranh chấp.
Ngoài ra, khái niệm này còn được tiếp cận với tư cách là một chế định pháp
luật, theo cuốn danh từ pháp luật lược giải thì trọng tài là một chế định cử tư nhân
giải quyết sự bất hòa cho hai bên nguyên bị trong một vụ tranh chấp [6].
6


Như vậy, có rất nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về trọng tài, nhưng
tựu chung lại, có thể nhìn nhận trọng tài thương mại với hai tư cách:
Một là, trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp.
Hai là, trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết tranh chấp.

1.1.2 Đặc điểm trọng tài thương mại.
* Trọng tài với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp.
Trọng tài được hiểu là một cơ quan tài phán, có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Ở các nước có nền kinh tế phát
triển, trọng tài được thừa nhận là cơ quan tài phán độc lập tồn tại song song với tòa
án. Pháp luật tôn trọng quyền tự lựa chọn của các bên, khi có tranh chấp trong
thương mại, các chủ thể có thể lựa chọn tòa án hoặc trọng tài làm cơ quan giải quyết
tranh chấp cho mình. Nếu các bên đã có thỏa thuận trọng tài có hiệu lực, nếu một
bên đưa ra tòa án giải quyết thì tòa án không thụ lý và sẽ trả lại đơn khởi kiện do
không thuộc thẩm quyền.
So với Tòa án, trọng tài có những đặc trưng riêng khác hẳn tòa án cụ thể là:
Một là, với hình thức là một trung tâm trọng tài thì trọng tài là một tổ chức
xã hội – nghề nghiệp do các trọng tài viên tự thành lập nên để giải quyết tranh chấp
phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại; còn với hình thức là trọng tài vụ
việc (ad – hoc) thì trọng tài là một tổ chức lâm thời do các bên tranh chấp thỏa
thuận thành lập để giải quyết một vụ việc tranh chấp cụ thể. Trọng tài không phải cơ
quan xét xử của Nhà nước, không do Nhà nước lập nên và không hoạt động bằng
ngân sách nhà nước. Các trọng tài viên không phải viên chức nhà nước và cũng
không hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Khi xét xử trọng tài không nhân danh
nhà nước mà nhân danh “ quyền lực tư” để ra các phán quyết.
Hai là, thẩm quyền giải quyết của trọng tài đối với tranh chấp thương mại cụ
thể không tự nhiên mà có, không do pháp luật ấn định mà còn phụ thuộc vào sự
thỏa thuận của các chủ thể tranh chấp. Pháp luật quy định, trọng tài chỉ có thẩm
7


quyền giải quyết vụ tranh chấp khi các bên tranh chấp có thỏa thuận lựa chọn trọng
tài giải quyết. Nếu không có thỏa thuận trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp về việc
lựa chọn trọng tài hoặc có thảo thuận trọng tài nhưng vô hiệu thì trọng tài không có
thẩm quyền giải quyết. Như vậy, chính các chủ thể tranh chấp là người quyết định

cơ quan giải quyết tranh chấp cho mình.
Ba là, phán quyết trọng tài vừa có tính tài phán của cơ quan có thẩm quyền
xét xử, vừa thể hiện ý chí, sự thảo thuận của các bên. Tuy nhiên, do trọng tài không
phải là cơ quan xét xử của Nhà nước như tòa án nên phán quyết của trọng tài không
mang tính quyền lực Nhà nước. Phán quyết của trọng tài có giá trị rằng buộc đối với
các bên tranh chấp mà không có giá trị rằng buộc với bên thứ ba. Ngay cả khi một
hoặc các bên tranh chấp không tôn trọng phán quyết trọng tài, không tự nguyện thi
hành phán quyết thì trọng tài cũng không có cơ quan cưỡng chế riêng của mình để
cưỡng chế thi hành. Phán quyết trọng tài do các bên đương sự tự nguyện thi hành
hoặc nhờ đến sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước để cưỡng chế thi hành.
Như vậy, với tư cách là một cơ quan tài phán, trọng tài không nằm trong hệ
thống cơ quan quản lý Nhà nước, tồn tại độc lập, song song với tòa án và có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp khi được các bên lựa chọn.
* Trọng tài thương mại với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp
thương mại.
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh
doanh thương mại, tồn tại song song với các phương thức giải quyết tranh chấp
khác như: thương lượng, hòa giải, Tòa án và các phương thức giải quyết tranh chấp
lựa chọn ADR. Trọng tài và các phương thức ADR nói chung là các phương thức
giải quyết ngoài tòa án, không cạnh tranh với tòa án mà hỗ trợ lẫn nhau. Thực tế
trọng tài không thể phát triển mà không có sự hợp tác và kiểm soát cuối cùng của
tòa án quốc gia. Trọng tài đã trở thành phương thức được sử dụng phổ biến để giải
quyết các tranh chấp thương mại quốc tế. Với tính chất là một phương thức giải
quyết tranh chấp, trọng tài thương mại được hiểu là phương thức mà trong đó các
8


bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận với nhau để ủy thác việc giải quyết tranh chấp
đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ cho trọng tài. Và trọng tài trên cơ sở các tình tiết khách
quan của tranh chấp được quyền đưa ra quyết định cuối cùng để giải quyết tranh

chấp và quyết định này có giá trị bắt buộc với các bên. Tại Việt Nam, trọng tài theo
đúng nghĩa là một phương thức giải quyết tranh chấp ra đời năm 1993 trên cơ sở
quyết định số 204 – TTg của thủ tướng chính phủ ngày 28/4/1993 về việc thành lập
trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam ( VIAC).
Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động
kinh doanh thương mại, trọng tài có những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của
bên thứ ba – một hội đồng trọng tài hoặc một trọng tài viên duy nhất. Trọng tài do
chính các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.
Trọng tài là người hoàn toàn độc lập với các bên, đứng giữa để giải quyết tranh
chấp, đưa ra các phán quyết bắt buộc để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên.
Hai là, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua một thủ tục tố
tụng chặt chẽ. Đối với trọng tài thường trực trong quá trình giải quyết tranh chấp,
trọng tài viên và các bên tranh chấp phải tuân thủ đúng trình tự tố tụng mà pháp luật
trọng tài, điều lệ và quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó quy định. Còn đối với
trọng tài vụ việc, các bên có thể thỏa thuận thủ tục tố tụng riêng. Ngoài ra, các trọng
tài viên và các bên cũng phải tuân thủ đúng thủ tục tố tụng trọng tài mà mình đặt ra.
Ba là, kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết do
trọng tài, nó mang tính chung thẩm, vừa kết hợp yếu tố thỏa thuận (các bên đương
sự có thể thỏa thuận về trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp, luật áp dụng đối với
vụ tranh chấp…), vừa kết hợp yếu tố tài phán ( có giá trị bắt buộc với các bên).
1.1.3 Các hình thức trọng tài thương mại
Trọng tài thường được biết đến với hai hình thức phổ biến là trọng tài vụ
việc ( trọng tài ad – hoc) và trọng tài thường trực ( trọng tài quy chế).

9


* Trọng tài vụ việc ( trọng tài ad – hoc)
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài được lập ra theo yêu cầu của các

đương sự để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải thể khi tranh chấp đó đã
được giải quyết xong. Tính chất vụ việc của hình thức trọng tài này được thể hiện ở
chỗ:
Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự
chấm dứt hoạt động khi tranh chấp được giải quyết xong.
Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều
hành và không có danh sách trọng tài viên riêng. Trọng tài viên được các bên lựa
chọn hoặc được chỉ định có thể là người có tên hoặc ngoài danh sách trọng tài viên
của bất cứ trung tâm trọng tài nào.
Thứ ba, trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình, mà
quy tắc tố tụng để giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng.
Thông thường, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một quy tắc tố
tụng phổ biến nào, thường là quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài có uy tín ở
trong nước và quốc tế.
Vì vậy, khi tiến hành xét xử, hội đồng trọng tài không bị lệ thuộc vào bất kỳ
quy tắc tố tụng nào, tuy nhiên phải đảm bảo nguyên tắc xét xử khách quan, vô tư và
đúng pháp luật. Hoạt động của trọng tài vụ việc rất linh hoạt, phù hợp với những
tranh chấp đơn giản. Trọng tài viên do các đương sự thỏa thuận lựa chọn không bị
giới hạn bởi danh sách trọng tài viên sẵn có. Thông thường trọng tài viên được lựa
chọn có thể là các thương gia có tu nghiệp pháp lý hoặc luật sư làm việc cho các
công ty, họ không chỉ nắm vững kiến thức pháp luật mà còn có am hiểu hoạt động
thương mại.
Thỏa thuận trọng tài vụ việc thường được thiết lập khi tranh chấp đã xảy ra
nên thường phù hợp với tính chất, điều kiện cụ thể của tranh chấp. Thời gian giải
quyết tranh chấp nhanh chóng theo sự định đoạt của đương sự, họ có toàn quyền
trong việc xác định quy chế tố tụng. Tuy nhiên, để soạn thảo được các thỏa thuận
10


trọng tài vụ việc đòi hỏi các bên phải có luật sư chuyên gia tư vấn pháp lý có

chuyên môn trong lĩnh vực trọng tài. Giữa các bên tranh chấp có sự thiện chí, hợp
tác chặt chẽ. Mặt khác, do tính chất không ổn định, không có quy chế hoạt động
chặt chẽ nên hiệu quả giải quyết vụ việc tranh chấp của trọng tài vụ việc là không
cao.
Sự khác biệt cơ bản giữa nước ta với nhiều nước có nền kinh tế thị trường
phát triển và có lịch sử trọng tài tồn tại khá lâu đó là ngay khi xuất hiện phương
thức giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài, họ đã thừa nhận có hai hình
thức tổ chức trọng tài là ad – hoc và trọng tài thường trực.
Ở Việt Nam, trước khi pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 ra đời chưa từng
có trọng tài vụ việc. Mặc dù đã có một số văn bản điều chỉnh các quan hệ kinh tế,
thương mại với nước ngoài thừa nhận trọng tài ad – hoc trong việc giải quyết các
tranh chấp quốc tế như: Luật đầu tư nước ngoài 1987, Luật hàng không dân dụng
Việt Nam 1991…nhưng chưa có văn bản pháp luật nào về trọng tài quy định về
trọng tài vụ việc. Do vậy, trên thực tế hình thức trọng tài này hầu như không tồn tại.
Ưu điểm của hình thức trọng tài vụ việc so với trọng tài quy chế là quyền tự
định đoạt của các bên lớn hơn, chi phí cho tố tụng trọng tài thấp và thời gian giải
quyết nhanh. Tuy nhiên, trọng tài vụ việc cũng có những hạn chế nhất định, hạn chế
lớn nhất là phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của các bên. Nếu một bên không có
thiện chí quá trình tố tụng sẽ luôn có nguy cơ bị trì hoãn và nhiều khi không thể
thành lập được hội đồng trọng tài bởi vì không có quy tắc tố tụng nào được áp dụng.
Mặt khác trong quá trình tố tụng cũng không có tổ chức nào giám sát nên kết quả
phần lớn phụ thuộc vào việc tiến hành tố tụng và khả năng kiểm soát quá trình tố
tụng của các trọng tài viên. Trọng tài viên và các bên sẽ không có cơ hội nhận được
sự ủng hộ và trợ giúp đặc biệt từ một tổ chức trọng tài thường trực trong trường hợp
pháp sinh sự kiện không dự kiến trước và trong trường hợp các trọng tài viên không
thể giải quyết được vụ việc. Sự hỗ trợ duy nhất mà các bên có thể nhận được là sự
hỗ trợ của tòa án.
11



* Trọng tài thường trực ( trọng tài quy chế)
Khác với trọng tài Ad – hoc, trọng tài thường trực luôn tồn tại không phụ
thuộc vào tranh chấp của các bên, là hình thức trọng tài có tổ chức, hoạt động
thường xuyên, có điều lệ, quy tắc tố tụng riêng và có danh sách trọng tài viên.
Trọng tài thường trực được tổ chức dưới những hình thức đa dạng như: các trung
tâm trọng tài, các hiệp hội trọng tài hay các viện trọng tài, nhưng chủ yếu và phổ
biến vẫn là các trung tâm trọng tài. Có thể kể tên các trung tâm trọng tài nổi tiếng
như: Tòa án trọng tài quốc tế ( IAC) thuộc phòng thương mại quốc tế ( ICC) có trụ
sở tại Pari ( Pháp); Hiệp hội trọng tài Mỹ ( AAA); Trọng tài quốc tế Singapore;
Trọng tài quốc tế Hồng Kông; ở Việt Nam có trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam
– VIAC và một số trung tâm khác.
Trung tâm trọng tài là tổ chức phi Chính phủ có tư cách pháp nhân, có con
dấu, có tài khoản riêng và có trụ sở giao dịch ổn định.
Từ khái niệm về trung tâm trọng tài trên, có thể đưa ra một số đặc trưng cơ
bản về hình thức trọng tài như sau:
Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi Chính phủ, không nằm trong
hệ thống cơ quan nhà nước, thể hiện:
- Các trung tâm trọng tài được thành lập theo sáng kiến của các trọng tài viên
sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chứ không phải được thành
lập bởi Nhà nước. Do đó, nó không nằm trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước
cũng không thuộc hệ thống cơ quan xét xử Nhà nước.
- Hoạt động của trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà không
được cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách nhà nước.
- Trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài không nhân danh quyền lực
nhà nước mà nhân danh người thứ ba độc lập ra phán quyết.
- Dù không được thành lập bởi Nhà nước nhưng trung tâm trọng tài vẫn luôn
đặt dưới sự quản lý và hỗ trợ của Nhà nước, thông qua các hoạt động như: ban hành
12



các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của trung
tâm trọng tài; cấp, thay đổi, bổ sung hay thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký
hoạt động của các trung tâm trọng tài; hỗ trợ trung tâm trọng tài trong việc hủy hoặc
không hủy quyết định trọng tài, hỗ trợ trong việc cưỡng chế thi hành quyết định
trọng tài…
Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với
nhau. Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp
dưới.
Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ.
Cơ cấu của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung
tâm. Cụ thể:
- Ban điều hành gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch trung tâm trọng
tài và có thể có tổng thư ký trung tâm trọng tài do chủ tịch trung tâm trọng tài cử.
- Các trọng tài viên trong danh sách trung tâm trọng tài có thể tham gia vào
việc giải quyết tranh chấp khi được chọn hoặc chỉ định.
Thứ tư, mỗi trung tâm tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc
tố tụng riêng, thể hiện:
- Tùy theo khả năng chuyên môn của đội ngũ trọng tài viên, mỗi trung tâm
trọng tài có quyền tự xác định về lĩnh vực hoạt động của mình, đồng thời có thể mở
rộng hoặc thu hẹp phạm vi lĩnh vực hoạt động trên cơ sở sự chấp thuận của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền.
- Việc xây dựng quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài thường dựa trên
cơ sở là một số bản quy tắc trọng tài hay một số công ước quốc tế có liên quan cũng
như quy tắc tố tụng của một số trung tâm trọng tài quốc tế có uy tín.
Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các
trọng tài viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia giải
quyết tranh chấp chỉ được giới hạn trong danh sách trọng tài viên của trung tâm. Vì
13



vậy, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài chỉ được tiến hành bởi các trọng tài
viên của chính trung tâm.
Có thể nói ưu điểm lớn nhất trọng tài quy chế so với trọng tài vụ việc là có
quy tắc tố tụng chi tiết từ khi bắt đầu đến khi kết thúc quá trình giải quyết tranh
chấp. Điều này đảm bảo trong mọi trường hợp tranh chấp sẽ được giải quyết, không
phụ thuộc vào việc một bên có tham gia vào quá trình tố tụng trọng tài hay không.
Ưu điểm thứ hai là hầu hết các tổ chức trọng tài đều có những chuyên gia hỗ trợ cho
quá trình trọng tài. Họ đảm bảo cho hội đồng trọng tài sẽ được thành lập, các khoản
phí trọng tài sẽ được nộp đủ, đôn đốc đúng thời hạn… Bên cạnh đó, trọng tài quy
chế cũng có những hạn chế nhất định, mà hạn chế lớn nhất là tốn kém, nhiều chi phí
vì ngoài việc phải trả thù lao cho các trọng tài viên, các bên còn phải trả thêm các
chi phí hành chính để nhận được sự hỗ trợ của các trung tâm trọng tài. Hạn chế thứ
hai là với những vụ việc cần giải quyết nhanh chóng hoặc vụ việc đơn giản thì quá
trình tố tụng thường bị kéo dài mà các bên tranh chấp và hội đồng trọng tài vẫn bắt
buộc phải tuân theo do phải tuân thủ các thời hạn theo quy định của quy tắc tố tụng.
1.2 Hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại
1.2.1 Khái niệm, cơ sở của sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại
Khái niệm sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại: Hỗ trợ được
hiểu là giúp đỡ nhau, tương trợ lẫn nhau. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài
thương mại là tổng hợp các quy định của pháp luật liên quan đến quá trình tòa án hỗ
trợ trọng tài khi trọng tài giải quyết các tranh chấp thương mại.
Cơ sở của sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại:
Cơ sở lý luận bao gồm tổng thể các quy định của pháp luật được cụ thể hóa trong
Luật trọng tài thương mại năm 2010, Nghị quyết số 01/2014 của hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự…

14


Cơ sở thực tiễn là quá trình thực tế khi Tòa án thực hiện các biện pháp hỗ trợ trọng

tài như triệu tập người làm chứng, thu thập chứng cứ, áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời….
1.2.2. Ý nghĩa của sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại
Thứ nhất, đối với đương sự, việc pháp luật quy định sự hỗ trợ của Tòa án với
trọng tài thương mại là thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thứ hai, đối với trọng tài: hoạt động hỗ trợ này của Tòa án có ý nghĩa góp
phần làm tăng thêm tính hấp dẫn và tính hiệu quả của phương thức trọng tài, đảm
bảo khả năng thi hành phán quyết trọng tài.
Thứ ba, đối với tòa án. sự hỗ trợ của Tòa án với trọng tài thương mại sẽ tăng
cường cơ chế phối hợp giữa hai cơ quan. Khi trọng tài hoạt động hiệu quả sẽ có
nhiều doanh nghiệp tìm đến phương thức giải quyết tranh chấp này, từ đó làm giảm
áp lực cho Tòa án khi đang phải giải quyết quá nhiều các vụ tranh chấp như hiện
nay, dẫn đến nhiều án tồn đọng, giải quyết không đúng thời hạn.
1.3 Các hình thức hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thương mại
Trên thế giới, mối quan hệ đặc trưng giữa Tòa án và trọng tài là mối quan hệ
hỗ trợ và giám sát. Nhờ có sự hỗ trợ và giám sát của Tòa án mà trọng tài tuy là tổ
chức tài phán phi chính phủ nhưng vẫn hoạt động được một cách hiệu quả. Sự ra
đời của Luật trọng tài thương mại năm 2010 đã thể hiện một quan điểm mới tiếp
cận với sự phát triển của pháp luật tài phán các nước phát triển. Trong đó, một trong
những nội dung cơ bản là việc thừa nhận vai trò, trách nhiệm của Tòa án trong hỗ
trợ, giám sát hoạt động tố tụng của trọng tài, sự hỗ trợ của cơ quan thi hành án về cơ
chế thi hành phán quyết trọng tài. Có thể gọi đây là sự tiếp sức cho trọng tài, thể
hiện quan điểm của nhà nước trong việc đa dạng hóa phương thức giải quyết tranh
chấp và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các chủ thể kinh doanh được sự bảo hộ
của nhà nước về mặt pháp lý trong quá trình thực hiện giao dịch thương mại. Đó
15


cũng là một minh chứng về việc đáp ứng nhu cầu hội nhập của Việt Nam trong nền

kinh tế thị trường hiện nay. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài thương
mại thể hiện ở các nội dung cơ bản sau:
1.3.1 Thay đổi trọng tài viên
Theo pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 thì Tòa án có thẩm quyền chỉ
định trọng tài viên theo quy định tại điều 26 gồm:
- Khi phía bị đơn không thông báo việc chọn trọng tài viên cho nguyên đơn
biết trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nguyên đơn gửi đơn kiện cho bị đơn.
- Trong trường hợp có nhiều bị đơn, các bị đơn không chọn được trọng tài
viên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án chỉ định trọng tài viên mình đã chọn
trong 30 ngày.
- Trong trường hợp mà hai trọng tài viên không chọn được trọng tài viên
thứ ba thì yêu cầu Tòa án cấp tỉnh chỉ định trọng tài viên thứ ba.
- Đối với vụ tranh chấp do Hội đồng trọng tài được các bên thành lập, giải
quyết (trọng tài vụ việc) thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án chỉ định.
- Việc thay đổi trọng tài viên theo Luật trọng tài thương mại năm 2010 được
quy định tại Điều 34 trong hai trường hợp:
- Đối với vụ tranh chấp được giải quyết tại trung tâm trọng tài, nếu hội đồng
trọng tài chưa được thành lập, việc thay đổi trọng tài vien do chủ tịch trung tâm
trọng tài quyết định. Nếu hội đồng trọng tài đã được thành lập, việc thay đổi trọng
tài viên do các thành viên còn lại của hội đồng trọng tài quyết định. Trong trường
hợp các thành viên Hội đồng trọng tài không quyết định được hoặc nếu cá trọng tài
viên hay trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp, chủ tịch trung tâm
trọng tài quyết định về việc thay đổi trọng tài viên ( khoản 3 điều 43 Luật trọng tài
thương mại 2010).
- Đối với vụ tranh chấp do hội đồng trọng tài vụ việc giải quyết, việc thay
đổi trọng tài viên sẽ do các thành viên còn lại của hội đồng trọng tài quyết định.
16



×