Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện điện biên, tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.06 MB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

NGUYỄN TRUNG HIẾU

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

NGUYỄN TRUNG HIẾU

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:PGS.TS PHẠM HỮU NGHỊ

HÀ NỘI - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả và kết luận nêu trong luận văn
là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy
đủ theo quy định.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Trung Hiếu


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của trường Đại học Mở Hà Nội và sự đồng ý của Giáo
viên hướng dẫn PGS.TS Phạm Hữu Nghị tôi đã thực hiện đề tài “Pháp luật về bồi
thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện Điện Biên, tỉnh
Điện Biên” cho luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành Luật kinh tế.
Để hoàn thành đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận
tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện tại
lớp Cao học Luật Kinh tế Khóa học 2017-2019, trường Đại học Mở Hà Nội.
Xin gửi tới Ủy ban nhân dân huyện Điện Biên, Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Điện Biên lời cảm tạ sâu sắc vì đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi thu thập
số liệu thực tiễn cũng như những tài liệu nghiên cứu cần thiết liên quan đến đề tài.
Xin chân thành cảm ơn Thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Phạm Hữu Nghị đã
tận tình, chu đáo hướng dẫn tôi thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất.
Xong do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, tiếp cận
với thực tế quá trình thực thi pháp luật cũng như hạn chế về kiến thức và kinh
nghiệm nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản thân
chưa thấy được. Tôi rất mong được sự góp ý của quý Thầy, Cô giáo, nhà trường,
các nhà khoa học và quý bạn đọc để đề tài được hoàn chỉnh hơn.

Cuối cùng, một lần nữa xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo, các đơn vị
và cá nhân đã giúp đỡ trong quá trình học tập và thực hiện đề tài này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Trung Hiếu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
Chương 1 LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP .............................................................................13
1.1. Lý luận về đất nông nghiệp và thu hồi đất nông nghiệp ....................................13
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của đất nông nghiệp ......................................................13
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của thu hồi đất nông nghiệp ..........................................18
1.2. Lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông ......................................20
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp 21
1.2.2. Cơ sở lý luận của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.....24
1.2.3. Ý nghĩa pháp lý của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ........26
1.3. Lý luận pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ..........28
1.3.1. Khái niệm ........................................................................................................28
1.3.2. Cấu trúc pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ......29
1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp ....................................................................................30
1.3.4. Khái quát quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp ........................................................................................................................33
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN

ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN ..............................................................................40
2.1. Nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp .........................40
2.2. Điều kiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp............................43
2.3. Các khoản bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ..........................51
2.3.1. Bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại ...........................................51
2.3.2. Bồi thường về tài sản trên đất .........................................................................57
2.4. Trình tự, thủ tục bồi thường ...............................................................................60


2.5. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp........................................................................................................................63
2.6. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên .............................................................67
2.6.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và tình hìnhsản xuất nông nghiệp tại huyện Điện
Biên, tỉnh Điện Biên ..................................................................................................67
2.6.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên ...............................................................72
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ..................................................80
3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp .........................................................80
3.1.1. Đánh giá quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp ........................................................................................................................80
3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ...................................................88
KẾT LUẬN ...............................................................................................................95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................96


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam
cũng đạt được sự tăng trưởng mạnh trong những năm gần đây. Năm 2018, Tăng trưởng
kinh tế đạt 7,08% so với năm 2017 - mức tăng cao nhất 11 năm qua [94]. Cơ cấu kinh
tế ngày càng có sự thay đổi theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành ông nghiệp, tăng tỷ
trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Song thực tế cho thấy, tỷ lệ lao động hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn cao hơn các ngành kinh tế khác. Năm 2016, tỷ lệ lao
động trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn chiếm đến 42,2% trong cơ cấu lao động Việt
Nam [88]. Điều này cho thấy, hoạt động sản xuất nông nghiệp vẫn là một hoạt động
quan trọng của đại bộ phận người dân Việt Nam. Bên cạnh những thành tựu đạt được,
nông nghiệp Việt Nam còn tồn tại và phát sinh một số vấn đề, ảnh hưởng đến nông
nghiệp nước ta trong thế kỷ 21 như: Quỹ rừng, quỹ đất, quỹ nước, quỹ gien của nông
nghiệp Việt Nam đang bị thu hẹp đến thời hạn thấp, ảnh hưởng đến phát triển nông
nghiệp; Diện tích đất nông nghiệp và đất canh tác bình quân đầu người ngày càng giảm
vì nhiều nguyên nhân như do dân số vẫn tiếp tục tăng nhanh, dẫn đến sự thiếu hụt tư
liệu cơ bản để phát triển sản xuất nông nghiệp, diện tích đất đai bị xói mòn, thoái hóa
do việc phá rừng gây ra cũng đang ngày càng tăng lên [83].
Đặc biệt, diện tích đất nông nghiệp bị giảm sút mạnh còn do chính sách phát
triển kinh tế đất nước và các nhu cầu khác mà Nhà nước phải thu hồi đất nông nghiệp
đã giao cho các hộ gia đình, cá nhân. Việc suy giảm diện tích đất nông nghiệp gây ảnh
hưởng lớn đến cuộc sống của hộ gia đình, cá nhân, đặc biệt là khi đất nông nghiệp bị
thu hồi đất. Ngoài ra, việc thu hồi đất cũng ảnh hưởng đến vấn đề việc làm và ổn định
sản xuất của người bị thu hồi đất. Để khắc phục tình trạng này, hệ thống pháp Luật Đất
đai của Việt Nam quy định các trường hợp Nhà nước thu hồi đất nói chung, thu hồi đất
nông nghiệp nói riêng thì phải bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất.
Cho đến thời điểm hiện nay, các quy định về đất đai nói chung, quy định về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhằm
hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành, tác giả nhận

1



thấy vẫn còn nhiều bất cập trong các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp, điển hình có thể kể đến những bất cập như: (i) Giá đất tính bồi thường là
giá theo khung giá đất mà Nhà nước quy định và có cùng mục đích sử dụng như đất bị
thu hồi. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, giá đất mà Nhà nước quy định chỉ bằng khoảng
60%-70% giá thị trường. Đối với đất nông nghiệp, việc bồi thường cũng có giá trị thấp
hơn nhiều so với giá thị trường, lại càng thấp hơn so với giá trị thực về kinh tế và sinh
thái của đất mang lại cho người nông dân. Trong khi đó, có nhiều trường hợp sau khi
thu hồi đất của nông dân với giá chỉ vài chục nghìn đồng/m2, nhà đầu tư phân lô, bán
nền với giá hàng chục triệu đồng/m2; (ii) Thời điểm tính giá bồi thường là thời điểm có
quyết định thu hồi đất, quy định này là chưa hợp lý và chưa phù hợp với thực tế. Bởi từ
lúc có quyết định thu hồi đất cho đến khi cơ quan chức năng hoàn thành thủ tục để
người dân nhận tiền bồi thường kéo dài trong một khoảng thời gian có khi là 3 năm
hoặc 5 năm. Khi đó, giá đất tại thời điểm nhận tiền bồi thường đã khác xa so với giá đất
tại thời điểm có quyết định thu hồi đất. Bởi giá đất do Nhà nước quy định có tính ổn
định nhất định, trong khi đó giá đất trên thị trường luôn có sự biến động theo xu hướng
tăng lên. Mặt khác, trong những năm đó, có thể chính sách bồi thường về đất đai đã
thay đổi, đồng tiền giảm giá trị, cơ hội đầu tư kinh doanh cũng không còn [68, tr.1924].Ngoài ra, còn nhiều bất cập khác dẫn đến thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp còn nhiều bất cập.
Điện Biên là một tỉnh miền núi, với diện tích đất chủ yếu là nông nghiệp.Theo
số liệu thống kê hiện trạng sử dụng đất tính đến 31/12 năm 2014, Điện Biên có tổng
diện tích đất là 954.125,06ha. Trong đó:Đất sản xuất nông chiếm chủ yếu với
75,89% tổng diện tích; Đất phi nông nghiệp (sử dụng để ở, phục vụ mục đích công
cộng, trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp…) chiếm 2,54%; Đất chưa sử dụng vẫn
chiếm diện tích tương đối lớn với 21,57%, chủ yếu là đất đồi núi, núi đá không có
rừng cây [95]. Trong đó diện tích đất sử dụng vào việc trồng lúa tập trung chủ yếu ở
một số huyện, trong đó có huyện Điện Biên. Cùng với sự thay đổi cơ cấu kinh tế, việc
thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ cho phát triển kinh tế và các nhu cầu công cộng
ngày càng tăng. Theo đó, vấn đề bồi thường cho người bị thu hồi đất là một trong
những vấn đề được cả cả cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp và đặc biệt là người bị

thu hồi đất quan tâm. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, việc giải quyết vấn đề bồi

2


thường cho người bị thu hồi đất nông nghiệp còn nhiều khó khăn bất cập. Nguyên
nhân chủ yếu là các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
còn nhiều điểm chưa hợp lý. Bên cạnh đó, trình độ nhận thức và thái độ ứng xử của
các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp có liên quan với người bị thu hồi đất cũng là
nguyên nhân chính dẫn đến những khó khăn, bất cập trong công tác bồi thường.
Từ những vấn đề bất cập trên cho thấy, việc nghiên cứu đề tài luận văn thạc
sĩ với tên gọi “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ
thực tiễn huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên” là cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao nhận thức
trong việc áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
trên địa bàn huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề thu hồi đất và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là
một trong những nội dung quan trọng, thu hút sự quan nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học. Điều này thể hiện ở số lượng các công trình nghiên cứu đã được các nhà
khoa học công bố ở nhiều thể loại khác nhau, từ luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, các
cuốn sách chuyên khảo, các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành,... Trong số
đó, có thể kể đến một số công trình điển hình liên quan đến đề tài luận văn như sau:
- Nguyễn Quang Tuyến (2008), “Về khái niệm bồi thường khi nhà nước thu
hồi đất trong Luật Đất đai năm 2003” [72].Trong bài viết này, tác giả phân tích các
cơ sở lý luận để xây dựng khái niệm bồi thường trong Luật Đất đai năm 2003, bao
gồm: cơ sở quyền sở hữu về tài sản; cơ sở Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân
và vì dân; mối quan hệ nhân quả giữa việc thu hồi đất và thiệt hại xảy ra với người
bị thu hồi đất; Tôn trọng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; Chế độ sở
hữu toàn dân về đất đai. Đặc biệt, trong bài viết này, tác giả phân tích những điểm

khác biệt giữa bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất với bồi thường ngoài hợp đồng
trong dân sự, bồi thường cho người bị oan sai trong hoạt động tố tụng hình sự, bồi
thường vật chất trong luật lao động.
- Đinh Thị Huệ (2011), Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất ở tỉnh Hà Nam hiện nay [27].Mặc dù công trình này
nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà

3


nước thu hồi đất. Song việc nghiên cứu chủ yếu được thực hiện dưới góc độ lý luận
nên các vấn đề liên quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất chưa thực sự triệt
để. Trong luận văn này, tác giả chỉ đưa ra lý luận có liên quan như: (i) Tác giả
khẳng định gắn liền với bồi thường, trách nhiệm bồi thường, trong đại đa số các
trường hợp được đặt ra khi một chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho chủ thể khác
trong xã hội; (ii) Sau khi phân tích các vấn đề liên quan, tác giả khẳng định “bồi
thường khi nhà nước thu hồi đất là việc nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất và
giá trị tài sản gắn liền với đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất”; (iii) Tác giả cũng
đưa ra khái niệm về pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất được hiểu là hệ thống các quy phạm điều chỉnh hoạt động của các cơ quan
nhà nước, các tổ chức và cá nhân công dân liên quan đến việc nhà nước trả lại giá
trị quyền sử dụng đất và giá trị tài sản gắn liền với đất bị thu hồi, giúp đỡ người bị
thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời
đến địa điểm cũng như việc chuẩn bị nơi ở mới nhằm bảo đảm quyền lợi và tạo điều
kiện cho người có đất bị nhà nước thu hồi nhanh chóng ổn định cuộc sống.
- Phan Trung Hiền (2012), “Hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư trong giai đoạn hiện nay” [23].Trong bài viết này, tác giả đưa ra một số
kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Trong đó đặc biệt là
kiến nghị xây dựng đạo luật mới về vấn đề này. Tác giả viết: “Dưới góc độ khoa học,
quyết định bồi thường hỗ trợ tái định cư ít nhiều thể hiện yếu tố dân sự gắn với các yêu

cầu về bồi thường tương xứng nhằm tái lập cuộc sống; nếu có di chuyển chỗ ở thì phải
bảo đảm bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Bản thân thuật ngữ “bồi thường” đã ít nhiều thể
hiện yếu tố dân sự - yếu tố của bình đẳng và thỏa thuận. Thiết nghĩ, cần có một đạo luật
riêng quy định về bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất” [23].
- Phạm Thu Thủy (2012), “Về giá đất làm căn cứ tính bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất” [67].Trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích, đánh giá các
quy định của Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành liên quan
đến việc xác định giá đất làm căn cứ tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Trong đó tác giả chỉ ra rằng: “Quy định về giá đất tính bồi thường là nội dung quan
trọng của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, giá đất chính là cơ sở
để giải quyết lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và nhà đầu tư. Có

4


thể nói, xác định giá đất tính bồi thường là vấn đề phức tạp nhất trong thực tiễn thi
hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Việc người bị thu hồi đất
không đồng thuận trong cách thức áp dụng giá đất bồi thường là một trong những
nguyên nhân dẫn đến khiến kiện về đất đai” [67].
- Trần Thị Phương Liên (2013), Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với hộ
gia đình, cá nhân khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp - Thực trạng và hướng
hoàn thiện [33].Đây là công trình phân tích, đánh giá, bình luận một cách cơ bản
các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Tuy nhiên, công trình được thực hiện khi Luật
Đất đai năm 2013 chưa có hiệu lực pháp luật nên các quy định được sử dụng để
phân tích, đánh giá là các quy định của Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Do đó, công trình đã không còn tính thời sự, bởi các quy định
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đã có những thay đổi nhất định.
- Cao Vũ Minh (2013), “Bảo đảm quyền con người trong các quyết định hành
chính về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất” [35].Bài viết tập

trung phân tích các khía cạnh của quyền con người và vấn đề bảo đảm quyền con
người khi Nhà nước thu hồi đất. Đồng thời chỉ ra những điểm không hợp lý của quyết
định hành chính về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Bên cạnh
đó, tác giả cũng đưa ra các giải pháp nhằm bảo đảm quyền con người trong các quyết
định hành chính về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
- Nguyễn Quang Tuyến (2013), “Bình luận và góp ý với các quy định về thu
hồi đất, bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trong dự
thảo Luật Đất đai sửa đổi” [74].Trong bài viết này, tác giả bình luận các quy định
của Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi năm 2013, theo đó tác giả phân tích những ưu
điểm và hạn chế của Dự trong về vấn đề thu hồi đất và vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất. Trong đó, các kiến nghị đưa ra đều tập trung vào việc giải
thích cụ thể các thuật ngữ hoặc các cụm từ trong Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi.
- Phạm Thu Thủy (2014), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp ở Việt Nam [69].Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam. Công trình đã giải quyết

5


được hầu hết các vấn đề lý luận, pháp luật hiện hành liên quan đến vấn đề bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề
mà công trình này chưa giải quyết đó là những sự khác biệt giữa bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp với các dạng bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
khác, hoặc sự khác biệt trong trường hợp bồi thường khi trưng dụng, trưng mua, ...
Hơn nữa, công trình chỉ nghiên cứu khái quát thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, đặc biệt chưa đề cập đến thực tiễn áp
dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở huyện Điện
Biên, tỉnh Điện Biên. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu đề tài luận văn mà tác giả lựa
chọn là cần thiết, bảo đảm giải quyết được mục đích nghiên cứu đặt ra.
- Phạm Thu Thủy (2014), “Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn áp dụng pháp luật

về thu hồi đất nông nghiệp” [68].Trong bài viết này, tác giả khái quát quy định pháp
luật hiện hành về thu hồi đất nông nghiệp. Từ đó tác giả chỉ ra những bất cập từ thực
tiễn thu hồi đất nông nghiệp. Trong đó, liên quan đến vấn đề bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp, tác giả khẳng định: (i) Giá đất tính bồi thường là giá
theo khung giá đất mà Nhà nước quy định và có cùng mục đích sử dụng như đất bị
thu hồi. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, giá đất mà Nhà nước quy định chỉ bằng khoảng
60%-70% giá thị trường. Đối với đất nông nghiệp, việc bồi thường cũng có giá trị
thấp hơn nhiều so với giá thị trường, lại càng thấp hơn so với giá trị thực về kinh tế
và sinh thái của đất mang lại cho người nông dân. Trong khi đó, có nhiều trường hợp
sau khi thu hồi đất của nông dân với giá chỉ vài chục nghìn đồng/m2, nhà đầu tư phân
lô, bán nền với giá hàng chục triệu đồng/m2; (ii) Thời điểm tính giá bồi thường là thời
điểm có quyết định thu hồi đất, quy định này là chưa hợp lý và chưa phù hợp với thực
tế. Bởi từ lúc có quyết định thu hồi đất cho đến khi cơ quan chức năng hoàn thành thủ
tục để người dân nhận tiền bồi thường kéo dài trong một khoảng thời gian có khi là 3
năm hoặc 5 năm. Khi đó, giá đất tại thời điểm nhận tiền bồi thường đã khác xa so với
giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi đất. Bởi giá đất do Nhà nước quy định có
tính ổn định nhất định, trong khi đó giá đất trên thị trường luôn có sự biến động theo
xu hướng tăng lên. Mặt khác, trong những năm đó, có thể chính sách bồi thường về

6


đất đai đã thay đổi, đồng tiền giảm giá trị, cơ hội đầu tư kinh doanh cũng không
còn,... Do vậy, người bị thu hồi đất luôn phải gánh chịu thiệt thòi.
-Trần Văn Duy (2016), “Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về bồi
thường khi thu hồi đất nông nghiệp” [18].Bài viết nêu lên thực tiễn công tác thu hồi
đất nông nghiệp, nguyên nhân của những vụ việc phức tạp và thực tiễn áp dụng
pháp luật về bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp, những khó khăn, vướng mắc
trong thực hiện pháp luật và nhu cầu hoàn thiện pháp luật bồi thường thiệt hại khi
nhà nước hồi đất nông nghiệp.

-Nguyễn Trịnh Hoàn (2016), Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất - thực trạng thi hành tại thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm
Đồng [25].Trong công trình này, tác giả phân tích lý luận liên quan đến bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Tác giả cũng phân tích một số quy
định pháp luật liên quan đến vấn đề này. Đồng thời, phân tích, đánh giá thực trạng
áp dụng pháp luật tại huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.
- Bùi Mạnh Khoa (2017), “Vướng mắc trong thực tiễn triển khai các quy
định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản
hướng dẫn thi hành” [31].Bài viết này tập trung vào việc đưa ra những điểm bất cập
trong quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành liên
quan đến việc thu hồi và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
Trong đó, liên quan đến vấn đề bồi thường, tác giả cho rằng quy định tại khoản 1
Điều 92 Luật Đất đai năm 2013 còn chưa rõ ràng, có thể dẫn đến các cách hiểu khác
nhau như: Cách hiểu thứ nhất là “Nhà nước thu hồi đất không thu hồi tài sản trên
đất và không bồi thường tài sản trên đất”; Cách hiểu thứ hai là “Nhà nước thu hồi
đất và tài sản trên đất mà không bồi thường tài sản trên đất”. Qua phân tích, tác giả
bài viết khẳng định cách hiểu thứ hai phù hợp hơn. Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra một
số ý kiến liên quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
- Hoàng Thị Thu Phương (2017), “Bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp tại tỉnh Quảng Bình” [48].Bài viết nêu lên những vướng mắc, bất cập về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại tỉnh Quảng Bình, từ đó, đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong lĩnh vực này.Tuy

7


nhiên, những kiến nghị đưa ra chỉ dừng lại ở định hướng chung chung mà chưa có
kiến nghị cụ thể về việc sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ quy định cụ thể nào.
- Dương Đức Sinh (2017), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp và thực tiễn thi hành tại thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh [61].Luận văn trình

bày những vấn đề lý luận và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp. Phân tích thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp tại thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về vấn đề này.Tuy nhiên, việc nghiên
cứu thực tiễn được tác giả xác định trên phạm vi thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh nên các
kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật chỉ có giá trị trên phạm vi thị xã Từ Sơn
mà không có tính khả thi đối với huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
- Nguyễn Vinh Diện (2018), “Bồi thường về đất khi nhà nước thu hồi đất vì
mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng” [16].Bài viết đi vào phân tích, đánh giá các quy định liên quan đến bồi
thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất. Qua đó, tác giả bài viết chỉ ra những điểm
hạn chế, bất cập trong thực hiện nguyên tắc bồi thường về đất. Đồng thời, tác giả
cũng đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nguyên tắc bồi thường về đất
khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã
hội vì lợi ích quốc gia, vì lợi ích cộng đồng. Trong đó, tác giả kiến nghị quy định
thống nhất “một giá đất” để đảm bảo đất được xác định và trả về giá trị thực của nó,
phù hợp với các quy luật của nền kinh tế thị trường.
- Nguyễn Thị Nhật Lệ (2018), Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thi hành tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội [32].
Công trình này tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Phân tích các qui định của pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thi hành tại huyện Ba
Vì, thành phố Hà Nội. Từ đó đưa ra định hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về vấn đề này. Như vậy, mặc dù cũng nghiên
cứu vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Song tác giả nghiên cứu quy định
chung về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà không nghiên cứu riêng vấn đề bồi

8



thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Do đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn
mà tác giả lựa chọn là cần thiết nhằm giải quyết mục tiêu nghiên cứu đặt ra.
- Đinh Thị Ngân (2018), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
và thực tiễn thi hành tại thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên [39].Cũng tương tự
như các công trình ở trên, trong công trình này, tác giả không đi sâu nghiên cứu
những vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà chỉ nghiên cứu chung về vấn đề bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất. Do đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn mà học viên lựa
chọn không trùng lặp với công trình này.
Trên đây là tóm tắt nội dung nghiên cứu trong một số công trình tiêu biểu
liên quan đến đề tài luận văn của học viên. Điểm chung của các công trình này là
nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nói chung, thu hồi đất nông nghiệp nói riêng. Tuy
nhiên, qua nghiên cứu các công trình này học viên nhận thấy rằng, mỗi công trình
chỉ nghiên cứu những khía cạnh khác nhau mà không nghiên cứu toàn diện vấn đề
mà học viên lựa chọn nghiên cứu. Đặc biệt, không có công trình nào nghiên cứu
thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở
huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận
có liên quan, thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên là cần thiết,
đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp. Bao gồm các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn thực
hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Điện
Biên, tỉnh Điện Biên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định ở ba khía cạnh sau:


9


Phạm vi về thời gian: luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Cụ thể là quy định của Luật Đất
đainăm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong đó, luận văn có so sánh, đối
chiếu với quy định pháp luật ở thời kỳ trước đó. Về thực tiễn thi hành pháp luật, luận
văn tập trung nghiên cứu các số liệu thống kê từ năm 2014 đến năm 2018.
Phạm vi về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp
luật Việt Nam và thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất trên địa bàn huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
Phạm vi về nội dung: Luận văn không nghiên cứu tất cả các quy định liên
quan đến bồi thường khi thu hồi đất, mà chỉ tập trung nghiên cứu các quy định về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo quy định của Luật Đất đai
năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tổng hợp vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp. Bao gồm các vấn đề lý luận cơ bản, thực trạng pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Từ đó đưa ra những kiến nghị
cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên thực tiễn.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản có liên quan như: khái quát về đất
nông nghiệp, khái niệm và đặc điểm của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp, các yếu tố ảnh hưởng đến việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp, khái quát pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, ...
- Phân tích, đánh giá những ưu điểm, nhược điểm của pháp luật hiện hành về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

- Phân tích, đánh giá những ưu điểm và hạn chế trong công tác bồi thường
khi thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Từ đó xây dựng

10


hệ thống các kiến nghị có liên quan nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Các quan điểm, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn gồm:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá: từ những quan điểm khoa học
được đưa ra, tác giả luận văn phân tích tính hợp lý hoặc không hợp lý để từ đó đưa
ra quan điểm hoàn thiện. Đồng thời, trên cơ sở các quy định hiện hành, tác giả tiến
hành phân tích, đánh giá những ưu điểm, hạn chế nhằm góp phần hoàn thiện pháp
luật. Phương pháp này được áp dụng chủ yếu ở chương 1 và chương 2 của luận văn.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được áp dụng nhằm so sánh các
quan điểm khoa học, các quy định pháp luật ở các thời điểm khác nhau. Từ đó tìm
ra những điểm hợp lý và chưa hợp lý của pháp luật, nhằm đưa ra những kiến nghị
hoàn thiện. Phương pháp này chủ yếu được sử dụng ở chương 2 của luận văn.
- Phương pháp thống kê: phương pháp này được sử dụng nhằm thống kê các số
liệu thực tiễn về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Điện Biên,
tỉnh Điện Biên. Phương pháp này chủ yếu được sử dụng ở chương 3 của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Việc nghiên cứu luận văn có thể đưa đến những kết quả như sau:
Thứ nhất, hệ thống hoá các quy định có liên quan đến bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp. Qua việc tổng hợp những quy định mới, so sánh với

các quy định cũ, Luận văn đưa ra những định hướng để tiếp tục hoàn thiện cơ sở
của việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp.
Thứ hai, đánh giá thực trạng pháp luật, về bồi thường khi nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp và thực trạng áp dụng tại địa bàn huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

11


Trong đó, Luận văn chỉ ra những điểm đặc thù của huyện Điện Biên trong hoạt
động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Qua đó, chỉ ra những điểm
còn bất cập, hạn chế và những nguyên nhân chủ yếu.
Thứ ba, đề xuất các giải pháp cụ thể góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nói chung, thực tiễn áp dụng
tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên nói riêng.
Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là nguồn tài liệu tham khảo cần
thiết và đáng tin cậy đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động
ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật đất đai liên quan đến hoạt
động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân.
Đồng thời, luận văn còn có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ cho hoạt động
giảng dạy và học tập tại các cơ sở đào tạo luật trong cả nước. Đồng thời, các kết quả
nghiên cứu trong luận văn có thể bổ sung nguồn tài liệu tham khảo cho các nhà lập
pháp trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu thành 3 phần: Lời mở đầu, Nội dung, Kết luận. Trong
đó, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Lý luận và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp
Chương 2. Thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp

Chương 3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp tại huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên và kiến nghị hoàn thiện.

12


Chương 1
LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬTVỀ BỒI THƯỜNG KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1. Lý luận về đất nông nghiệp và thu hồi đất nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của đất nông nghiệp
Cùng với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam cũng
có sự chuyển mình mạnh mẽ trong những năm gần đây. Từ việc chuyển đổi phương
thức lao động từ lao động thủ công, chân tay sang lao động trí óc hoặc bằng máy móc
đến việc thay đổi cơ cấu kinh tế theo xu hướng đến giảm dần tỉ lệ kinh tế nông nghiệp,
tăng dần kinh tế dịch vụ và công nghiệp. Mặc dù vậy, đến nay, Việt Nam vẫn là một
nước nông nghiệp với tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn chiếm đến 42,2%
trong cơ cấu lao động Việt Nam [88]. Điều này cho thấy, việc quản lý và sử dụng đất
nông nghiệp tiết kiệm, hiệu quả là vấn đề thực sự quan trọng ở nước ta.
Thuật ngữ đất nông nghiệp là một thuật ngữ pháp lý, được ghi nhận trong
nhiều văn bản pháp luật ở các thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên, ở mỗi thời ký khác
nhau, khái niệm đất nông nghiệp lại được hiểu theo các góc độ khác nhau. Do đó,
việc xác định các loại đất thuộc nhóm đất nông nghiệp có vai trò quan trọng trọng
việc xác định cơ chế quản lý cũng như sử dụng loại đất này.
Theo Điều 8 Luật Đất đai năm 1987, đất nông nghiệp là một trong 5 loại đất
được phân loại theo mục đích sử dụng, trong đó không bao gồm đất lâm nghiệp.Tại
Điều 23 Luật này, đất nông nghiệp được định nghĩa như sau: “Đất nông nghiệp là đất
được xác định chủ yếu dùng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, kể cả
nuôi trồng thủy sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về trồng trọt, chăn nuôi” [53]. Như
vậy, theo cách định nghĩa này, đất nông nghiệp sẽ không bao gồm đất lâm nghiệp được

sử dụng vào việc trồng rừng, khai thác rừng, khoanh nuôi, tu bổ rừng...
Luật Đất đai năm 1993 được ban hành ngày 14 tháng 7 năm 1993 thay thế
cho Luật Đất đai năm 1987. Mặc dù có nhiều thay đổi trong cơ chế, chính sách áp
dụng với các loại đất, song về khái niệm đất nông nghiệp trong Luật này vẫn có sự
kế thừa những quan điểm lập pháp trong Luật Đất đai năm 1987. Cụ thể, tại Điều 11

13


của Luật Đất đai năm 1993 phân ra 6 loại đất theo mục đích sử dụng, trong đó đất
nông nghiệp vẫn không bao gồm đất lâm nghiệp. Tại Điều 42 Luật này đưa ra khái
niệm về đất nông nghiệp trên cơ sở kế thừa Điều 23 Luật Đất đai năm 1987, cụ thể
như sau: “Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất
nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hoặc nghiên cứu thí
nghiệm về nông nghiệp” [55].
Như vậy cả Luật đất đai năm 1987 và Luật Đất đai năm 1993 đều xây dựng
khái niệm đất nông nghiệp theo hướng liệt kê trên cơ sở việc phân loại đất theo quy
định trước đó. Cách khái niệm này là phù hợp và có thể khiến cho người đọc có thể
hình dung được đất nông nghiệp bao gồm những nhóm cụ thể nào.
Sau 16 năm thi hành, Luật Đất đai năm 1993 đã bộc lộ những điểm hạn chế cần
khắc phục. Theo đó, lần lượt các năm 2003 và 2013, Quốc hội thông qua các Luật Đất
đai mới thay thế cho các luật trước đó để bảo đảm sự phù hợp với Hiến pháp và thực tiễn
cuộc sống. Cả Luật Đất đai năm 2003 và 2013 đều không đưa ra khái niệm đất nông
nghiệp như Luật Đất đai năm 1987 và 1993. Đồng thời, việc xác định các nhóm đất
thuộc loại đất nông nghiệp cũng có sự thay đổi lớn khi nhà làm luật không phân loại đất
theo mục đích sử dụng của từng loại đất mà dựa trên đặc tính sử dụng và tính chất giống
nhau để phân chia thành các nhóm đất khác nhau như nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất
phi nông nghiệp, nhóm đất chưa sử dụng. Cách phân nhóm các loại đất là hoàn toàn
phù hợp và thể hiện sự thay đổi trong tư duy lập pháp của nhà nước ta, bởi suy cho
cùng thì những loại đất có cùng đặc tính sử dụng và quá trình sử dụng sẽ cùng tạo ra

những sản phẩm tương tự nhau thì việc sắp xếp vào cùng một nhóm là hợp lý.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, nhiều tác giả đã xây dựng khái niệm đất nông
nghiệp dựa trên quy định về phân nhóm các loại đất trong Luật Đất đai. Có thể dẫn
chiếu một vài khái niệm như sau:
“Nhóm đất nông nghiệp là tổng thể các loại đất có đặc tính sử dụng giống nhau,
với tư cách là tư liệu sản xuất phục vụ chủ yếu cho mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng, khoanh nuôi tu bổ bảo
vệ rừng, nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp” [33, tr.6-7].
“Đất nông nghiệp bao gồm tổng thể các loại đất, có đặc tính sử dụng giống
nhau, với tư cách là tư liệu sản xuất chủ yếu phục vụ cho mục đích sản xuất nông

14


nghiệp, lâm nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng;
khoanh nuôi, tủ bổ, bảo vệ rừng; bảo vệ môi trường sinh thái, nghiên cứu thí
nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp” [69, tr.24].
Các khái niệm được đưa ra giống nhau ở chỗ đi từ khái quát đến liệt kê. Từ khái
quát loại đất nông nghiệp dựa trên đặc tính sử dụng đến việc liệt kê mục đích sử dụng
của từng loại đất nông nghiệp theo cách phân loại trong Luật Đất đai năm 2003 và
2013.Nghiên cứu những khái niệm này, tác giả có một số bình luận cụ thể như sau:
Thứ nhất, cách đưa ra các khái niệm trên có thể khiến người đọc nếu chỉ đọc
khái niệm này sẽ thấy sự mâu thuẫn giữa đoạn đầu và đoạn cuối của khái niệm. Bởi
đoạn đầu của khái niệm khẳng định theo đặc tính của loại đất này, nhưng sau đó lại
liệt kê các nhóm đất nông nghiệp theo mục đích sử dụng, đặc biệt là đoạn “... phục
vụ cho mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp ...”. Điều này có thể gây hiểu
lầm rằng đất nông nghiệp lại được chia ra thành đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp,
đất nuôi trồng thủy sản, ...
Thứ hai, việc liệt kê các loại đất sử dụng vào mục đích lâm nghiệp và cách
sắp xếp các từ ngữ trong khái niệm, đặc biệt là trong đoạn “... lâm nghiệp như trồng

trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng...”, khiến người đọc có thể hiểu lầm
rằng đất sử dụng vào mục đích sản xuất lâm nghiệp bao gồm cả đất để chăn nuôi,
nuôi trồng thủy sản.
Thứ ba, các tác giả của các khái niệm được trích dẫn ở trên dường như đang
tự làm khó mình khi xây dựng một khái niệm vừa theo hướng bao quát ở đoạn đầu
vừa theo hướng liệt kê ở đoạn sau. Lẽ ra chỉ nên chọn một trong hai cách hoặc là
khái quát bằng cách xây dựng mới, hoặc liệt kê theo cách phân loại của Luật Đất
đai. Hơn nữa, việc liệt kê các loại đất như ở trong các khái niệm trên là không đầy
đủ theo cách phân nhóm trong Luật Đất đai.
Để xây dựng khái niệm đất nông nghiệp một cách phù hợp nhất, cần nghiên
cứu mục đích sử dụng các loại đất thuộc nhóm đất nông nghiệp theo cách phân loại
của Luật Đất đai. Đặc biệt, cần phải hiểu ý nghĩa của cụm từ “nông nghiệp”. Ở
nghĩa chung nhất, nông nghiệp được hiểu là “ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã
hội, cung cấp sản phẩm trồng trọt và sản phẩm chăn nuôi” [86], hay “Nông nghiệp
được xem là một ngành sản xuất vật chất cơ bản trong xã hội. Ngành nông nghiệp

15


được hoạt động bằng cách sử dụng đất để trồng trọt, chăn nuôi nhằm tạo ra những
sản phẩm chính là lương thực, thực phẩm mà chúng ta sử dụng hàng ngày”
[93].Dựa trên việc phân loại đất tại Điều 10 Luật Đất đai năm 2013, có thể thấy
rằng các loại đất trong nhóm đất nông nghiệp có cùng đặc tính đó là các loại đất
được sử dụng để tạo ra các loại lương thực, thực phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu
dùng hàng ngày của con người hoặc làm nguyên liệu phục vụ cho một số ngành
công nghiệp.
Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm đất nông nghiệp một cách
khái quát hơn so với các khái niệm trước đây như sau: “Đất nông nghiệp là tập hợp
các loại đất theo phân loại của Luật Đất đai, có cùng đặc tính vàđược sử dụng
trong ngành nông nghiệp để sản xuất ra lương thực, thực phẩm và một số loại

nguyên liệu cho các ngành công nghiệp”.
Trên cơ sở các nghiên cứu đã được thực hiện, tác giả nhận thấy một số đặc
điểm cơ bản của đất nông nghiệp như sau:
(i) Được xác định trên cơ sở của Luật Đất đai:
Đây là đặc điểm chung của tất cả các loại đất mà không chỉ riêng của đất nông
nghiệp. Bởi vì, việc phân nhóm các loại đất và xác định quy chế pháp lý với từng loại
đất phải được thực hiện trên cơ sở của luật mà cụ thể là Luật Đất đai. Theo những
nghiên cứu đã chỉ ra ở trên, từ khi có Luật Đất đai năm 1987 cho đến Luật Đất đai năm
2013, việc phân nhóm các loại đất đã có sự thay đổi đáng kể, đặc biệt là nhóm các loại
đất nông nghiệp trong Luật Đất đai năm 2003 và 2013 so với các luật trước đó. Đất đai
là tư liệu sản xuất quan trọng nhất của đất nước, thuộc sở hữu toàn dân và do nhà nước
thống nhất quản lý. Do đó, bất cứ sự thay đổi nào về chế độ sở hữu, quy chế pháp lý và
việc loại các nhóm đất đều phải được thực hiện bằng pháp luật.
(ii) Có thể bị thu hẹp hoặc mở rộng theo nhu cầu sử dụng của con người.
Nếu không vì các lý do đặc biệt thì đất đai trong lãnh thổ của mỗi quốc gia sẽ
không có sự biến động theo chiều hướng gia tăng. Tuy nhiên, đất nông nghiệp là
một loại đất có thể biến động theo những chiều hướng khác nhau, phụ thuộc vào sự
biến đổi của tự nhiên hoặc sự tác động của con người. Điều này được chứng minh
thông qua sự phát triển của lịch sử loài người. Con người luôn có ý thức chinh phục
tự nhiên để phục vụ cho nhu cầu từ cơ bản đến nâng cao của mình. Từ việc săn bắn,

16


hái lượm những thứ có sẵn trong tự nhiên, con người dần dần cải tạo các vùng đất
cằn cỗi thành đất nông nghiệp để trồng trọt và chăn nuôi. Điều đó làm thay đổi cơ
cấu các loại đất theo hướng tăng dần diện tích đất nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay
ở hầu hết các quốc gia, tốc độ đô thị hóa quá nhanh khiến cho việc khai thác, sử
dụng đất nông nghiệp vào việc xây dựng ngày càng gia tăng, khiến cho đất nông
nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Ngoài ra, khai thác giá trị của đất một cách quá mức

mà không cải tạo hoặc sự biến đổi của tự nhiên cũng khiến cho diện tích đất nông
nghiệp bị hoang hóa không thể sử dụng vào hoạt động sản xuất nông nghiệp.
(iii) Được sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp.
Như cách định nghĩa được trích dẫn ở trên, cùng với quy định về phân nhóm
các loại đất trong Luật Đất đai có thể thấy, các loại đất nông nghiệp có chung một
đặc tính đó là nhóm đất được sử dụng vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, nhằm
tạo ra các loại vật chất cơ bản như lương thực, thực phẩm và nguyên liệu cho một
số ngành công nghiệp. Mục đích sử dụng đất nông nghiệp hay bất cứ loại đất nào
khác đều chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước thông qua pháp luật. Bất cứ chủ
thể nào sử dụng sai mục đích sử dụng đất đều có thể phải gánh chịu hậu quả tương
ứng, cao nhất là có thể bị thu hồi mà không được bồi thường. Trường hợp có mong
muốn thay đổi mục đích sử dụng đất thì phải được cơ quan có thẩm quyền chấp
thuận dựa trên trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
(iv) Là tư liệu sản xuất quan trọng.
Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển
đất nước, được quản lý theo pháp luật [57]. Trong đó, đất nông nghiệp được coi là tư
liệu sản xuất đặc biệt quan trọng trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Theo một số
quan điểm thì“đất nông nghiệp được sử dụng làm tư liệu sản xuất trực tiếp và không
thể thay thế được trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm
muối” [69, tr.26]. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp hiện đại
trong thời đại công nghệ 4.0 như hiện nay, hoạt động sản xuất nông nghiệp đã dần
biến đổi từ nông nghiệp thuần túy coi đất nông nghiệp là loại tư liệu sản xuất quan
trọng sang nền nông nghiệp hiện đại với kỹ thuật tiên tiến. Đặc biệt, có những mô
hình sản xuất nông nghiệp không sử dụng hoặc ít sử dụng đất như:“Canh tác thủy
canh (không cần đất) tại Quảng Ninh; Canh tác khí canh (không dùng đến đất và rất

17


ít nước) tại Nam Định; Trồng trên giá thể tại Thành phố Hồ Chí Minh; ...” [85]. Do

đó, với sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật ngày nay, phương thức sử dụng đất nông
nghiệp trong sản xuất hoàn toàn có thể được thay thế bằng cách phương tức canh tác
khác nhau. Đây là nội dung quan trọng ảnh hưởng đến giá trị của đất nông nghiệp,
đến hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước, đặc biệt là ảnh hưởng đến việc thu hồi
và bồi thường do thu hồi đất nông nghiệp trên thực tế.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của thu hồi đất nông nghiệp
Như đã chỉ ra, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu
và thống nhất quản lý [57]. Song Nhà nước lại thông qua các cơ quan có thẩm quyền
mà giao cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sử dụng và ghi nhận quyền sử
dụng đất là một loại tài sản tồn tại dưới dạng quyền tài sản [59]. Nếu giao đất là hoạt
động nhằm xác lập cho chủ thể quyền đối với một loại tài sản thì thu hồi đất lại là hoạt
động làm chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản của chính chủ thể đó. Do vậy, việc thu
hồi đất chỉ đặt ra trong trường hợp cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an
ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải
công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật [57].
Trong các loại đất bị thu hồi, có lẽ việc thu hồi đất nông nghiệp là phổ biến
trên thực tế. Điều này cũng xuất phát từ nhiều yếu tố cả khách quan và chủ quan
như: (i) Định hướng phát triển đất nước đã được Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI chỉ ra “Phấn đấu đến năm 2020, cơ bản nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại” [19, tr.30]. Chính vì vậy, việc thu hồi đất nông nghiệp
phục vụ cho việc phát triển các ngành công nghiệp là một trong những đòi hỏi
khách quan của định hướng phát triển đất nước mà Đảng đã đề ra; (ii) Trình độ và
khả năng cải tạo đất của chúng ta còn yếu kém, dẫn đến tình trạng thay vì thực hiện
việc san lấp các mặt bằng tại các khu vực đất chưa sử dụng, chúng ta thường tính
đến việc thu hồi đất nông nghiệp để giúp cho việc tạo mặt bằng phát triển công
nghiệp một cách nhanh chóng; (iii) Sự gia tăng dân số quá nhanh khiến cho nhu cầu
về chỗ ở tăng, hơn nữa khả năng thích nghi với sự thay đổi môi trường sống của
người Việt Nam không cao, dẫn đến tình trạng chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp thành đất thổ cư tại chỗ ngày càng tăng.


18


Cho đến thời điểm hiện nay, chưa có một khái niệm cụ thể nào về thu hồi đất
nông nghiệp được đưa ra trong các văn bản pháp luật mà chỉ có khái niệm thu hồi
đất nói chung được đề cập trong Luật Đất đai. Luật Đất đai năm 2003 là văn bản
đầu tiên khái quát về thu hồi đất như sau: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết
định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức,
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này” [56].
Theo khái niệm này, việc xác định chủ thể bị thu hồi đất không phù hợp với các chủ
thể có thể được Nhà nước giao đất. Do đó, có thể nhận thấy khái niệm này chưa
thực sự chính xác bởi nó dẫn đến cách hiểu rằng người sử dụng đất bị thu hồi chỉ có
thể là tổ chức hoặc ủy ban nhân dân cấp xã [69, tr.28].
Luật Đất đai năm 2013 được thông qua với nhiều thay đổi so với Luật Đất đai
năm 2003, trong đó khái niệm thu hồi đất cũng có những thay đổi cơ bản, cụ thể như
sau: “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của
người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất
vi phạm pháp luật về đất đai” [58]. Mặc dù khái niệm đã có sự thay đổi theo hướng ghi
nhận chung về các chủ thể có thể bị thu hồi đất. Song việc thiết kế khái niệm với hai
trường hợp thu hồi, trong đó trường hợp nhà nước “thu lại quyền sử dụng đất của
người được trao quyền sử dụng” có thể dẫn đến cách hiểu rằng việc thu hồi trong
trường hợp này không cần lý do, nhà nước có thể thu lại bất cứ lúc nào. Do đó, khái
niệm này cũng chưa thực sự phù hợp với các quy định về các trường hợp thu hồi đất.
Mặc dù khái niệm thu hồi đất nông nghiệp không được xây dựng trong các
văn bản pháp luật. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học, một số khái niệm thu hồi đất
nông nghiệp cũng được các nhà khoa học xây dựng như sau: “Thu hồi đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu
lại quyền sử dụng đất đã giao cho hộ gia đình, cá nhân vì mục đích quốc phòng an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế”. Đọc khái niệm này có
thể nhận thấy cần xem xét lại như sau: (i) Việc xác định chủ thể bị thu hồi đất chỉ có

thể là hộ gia đình, cá nhân là không đầy đủ. Bởi vì các tổ chức khác như hợp tác xã
cũng có thể là chủ thể bị thu hồi đất nông nghiệp. Do đó, không nên xác định một chủ
thể cụ thể nào đó bị thu hồi đất nông nghiệp, vì liệt kê sẽ khó có thể chính xác; (ii)
Việc xác định nguyên nhân của hoạt động thu hồi đất nông nghiệp chỉ là vì “mục đích

19


×