Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Động từ hai diễn tố trong tiếng việt (có so sánh với tiếng trung)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 93 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LI YAN RONG

ĐỘNG TỪ HAI DIỄN TỐ TRONG TIẾNG VIỆT
(có so sánh với tiếng Trung)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LI YAN RONG

ĐỘNG TỪ HAI DIỄN TỐ TRONG TIẾNG VIỆT
(có so sánh với tiếng Trung)
Ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 8220102

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN LỘC

THÁI NGUYÊN - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và
kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ một công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2019
Tác giả

Li Yan Rong

i


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự
quan tâm, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS Nguyễn Văn Lộc, người đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Ngữ văn, Phòng Đào tạo Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên cùng các thầy giáo ở Viện Ngôn ngữ
học, Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình
giảng dạy và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn hữu,
đồng nghiệp đã động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2019
Tác giả

Li Yan Rong


ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii
MỤC LỤC............................................................................................................iii
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 2
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 3
6. Bố cục luận văn ............................................................................................... 3
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN........... 4

1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu .............................................................. 4
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về động từ trong tiếng Việt ............................ 4
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về kết trị động từ ............................................ 5
1.1.3. Tình hình nghiên cứu về động từ hai diễn tố............................................. 8
1.2. Cơ sở lí luận .................................................................................................. 8
1.2.1. Động từ ...................................................................................................... 9
1.2.2. Vài nét về lí thuyết kết trị, khái niệm diễn tố, chu tố .............................. 12
1.2.3. Về cách phân loại động từ - khái niệm động từ hai diễn tố .................... 15
1.2.4. Nguyên tắc, thủ pháp và qui trình nghiên cứu động từ theo lí thuyết
kết trị ........................................................................................................ 19
1.3. Vài nét về tiếng Trung, động từ và động từ hai diễn tố trong tiếng Trung ......... 24
1.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 26
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA ĐỘNG TỪ HAI DIỄN TỐ TRONG

TIẾNG VIỆT (CÓ SO SÁNH - ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG TRUNG) ................. 28

2.1. Dẫn nhập ..................................................................................................... 28
2.2. Đặc điểm chung của động từ hai diễn tố .................................................... 28

iii


2.2.1. Về nguồn gốc ........................................................................................... 28
2.2.2. Về cấu tạo ................................................................................................ 28
2.3. Về ý nghĩa ................................................................................................... 29
2.4. Về thuộc tính kết trị .................................................................................... 31
2.4.1. Diễn tố thứ nhất (N1): diễn tố chủ thể (chủ ngữ) ..................................... 32
2.4.2. Diễn tố thứ 2: diễn tố đối thể (bổ ngữ) .................................................... 38
2.5. Về các diện đối lập cơ bản trong phạm trù động từ hai diễn tố ................. 44
2.5.1. Nguyên tắc phân loại ............................................................................... 44
2.5.2. Kết quả phân loại ..................................................................................... 44
2.6. Bước đầu so sánh - đối chiếu động từ hai diễn tố trong tiếng Việt và
tiếng Trung .............................................................................................. 50
2.6.1. Những nét tương đồng ............................................................................. 50
2.6.2. Những điểm khác biệt.............................................................................. 53
2.7. Tiểu kết ....................................................................................................... 55
Chương 3: MIÊU TẢ MỘT SỐ NHÓM ĐỘNG TỪ HAI DIỄN TỐ TRONG
TIẾNG VIỆT (CÓ SO SÁNH - ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG TRUNG) ..................... 57

3.1. Dẫn nhập ..................................................................................................... 57
3.2. Nhóm động từ hai diễn tố chỉ hoạt động tạo tác ........................................ 57
3.2.1. Đặc điểm ý nghĩa của động từ hạt nhân .................................................. 58
3.2.2 Về thuộc tính kết trị .................................................................................. 59
3.2.3. Đặc điểm ngữ pháp của diễn tố thứ nhất (diễn tố chủ thể) ..................... 60

3.2.4. Đặc điểm ngữ pháp của diễn tố thứ hai (diễn tố đối thể) ........................ 63
3.2.5. So sánh - đối chiếu nhóm động từ tạo tác trong tiếng Việt và tiếng Trung ..... 64
3.3. Động từ hai diễn tố chỉ quan hệ đồng nhất “là” ......................................... 67
3.3.1. Về bản chất từ loại của “là” ..................................................................... 67
3.3.2. Đặc điểm của động từ “là” ...................................................................... 68
3.3.3. Đặc điểm ngữ pháp của diễn tố thứ nhất (diễn tố chủ thể) bên động
từ “là” ...................................................................................................... 72

iv


3.3.4. Đặc điểm ngữ pháp của diễn tố thứ hai (diễn tố đối thể) bên
động từ “là” ........................................................................................... 74
3.4. So sánh - đối chiếu “là” trong tiếng Việt với 是 trong tiếng Trung .......... 75
3.5. Tiểu kết ....................................................................................................... 78
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 82

v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu hệ thống từ loại tiếng Việt, các nhà ngữ pháp đều khẳng định vị trí và
vai trò hết sức quan trọng của động từ. Động từ là từ loại có số lượng rất lớn và có đặc
tính hết sức phức tạp. Về vai trò ngữ pháp, động từ là trung tâm tổ chức của tuyệt đại đa
số câu tiếng Việt. Do có địa vị quan trọng trong hệ thống từ loại nên động từ luôn thu
hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
Việc nghiên cứu động từ đã được tiến hành ở nhiều góc độ với những công trình
khác nhau như: Cụm động từ tiếng Việt của Nguyễn Phú Phong, Động từ trong tiếng

Việt của Nguyễn Kim Thản, Ngữ nghĩa và cấu trúc của động từ của Vũ Thế Thạch, Vị
từ hành động và các tham tố của nó của Nguyễn Thị Quy, Kết trị của động từ trong
tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc... Qua những công trình nghiên cứu này, ta thấy rằng
động từ là một từ loại lớn, có đặc điểm hết sức phức tạp, vẫn còn nhiều vấn đề cần
được nghiên cứu sâu rộng hơn. Một trong những vấn đề đó là việc nghiên cứu, xác lập,
phân tích, miêu tả làm rõ đặc điểm của các tiểu loại, các nhóm động từ.
Động từ hai diễn tố trong tiếng Việt là một nhóm động từ có số lượng lớn, có đặc
điểm ý nghĩa và kết trị phức tạp, có vai trò ngữ pháp rất quan trọng. Tuy nhiên, đến
nay, tiểu loại động từ này trong tiếng Việt chưa được nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống,
đặc biệt là hướng nghiên cứu có so sánh với tiếng nước ngoài. Việc nghiên cứu về động
từ hai diễn tố theo lí thuyết kết trị có so sánh với một ngoại ngữ có ý nghĩa không nhỏ
cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Về lý luận, việc nghiên cứu tiểu loại động từ này theo lý thuyết kết trị và có so
sánh với tiếng nước ngoài sẽ góp phần soi sáng thêm một số vấn đề lý thuyết về động
từ nói chung, lý thuyết kết trị động từ nói riêng trên cứ liệu của ngôn ngữ đơn lập.
Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu kết trị của động từ hai diễn tố có thể được sử
dụng để biên soạn các tài liệu phục vụ cho việc dạy học bản ngữ cũng như ngoại ngữ.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Động từ hai diễn tố
trong tiếng Việt (có so sánh với tiếng Trung)”.
1


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài này là miêu tả làm rõ đặc điểm ý nghĩa và thuộc tính kết trị
của tiểu loại động từ hai diễn tố trong tiếng Việt, có so sánh với tiếng Trung; qua đó,
góp phần soi sáng thêm một số vấn đề về lý thuyết kết trị và kết trị của động từ trên cứ
liệu một ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập, góp phần nâng cao chất lượng của việc dạy
học tiếng.
2.2.Nhiệm vụ nghiên cứu

-Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung (về động từ, lý thuyết kết trị và kết trị của
động từ, phân loại động từ theo kết trị, khái niệm động từ hai diễn tố)
-Xác lập nguyên tắc, thủ pháp và quy trình phân tích, miêu tả động từ hai diễn tố
theo lý thuyết kết trị.
-Phân loại, miêu tả một số nhóm động từ hai diễn tố trong tiếng Việt theo đặc
điểm ý nghĩa và thuộc tính kết trị (có so sánh - đối chiếu với tiếng Trung).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là động từ hai diễn tố trong tiếng Việt hiện
đại (có so sánh - đối chiếu với tiếng Trung)
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là động từ hai diễn tố trong tiếng Việt hiện đại
về ý nghĩa và thuộc tính kết trị (có so sánh - đối chiếu với tiếng Trung).
Phạm vi tư liệu khảo sát là những tác phẩm văn học của các tác giả nổi tiếng như
Nam Cao, Tô Hoài, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Thi... và những tư liệu đời sống như
3500 câu danh ngôn, Báo Quân đội, Thế giới mới, Báo Phát luật...
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này được sử dụng với tư cách là phương pháp chủ yếu để miêu tả
đặc điểm ý nghĩa và đặc điểm hoạt động ngữ pháp (thuộc tính kết trị) của động từ hai
diễn tố; từ đó, tìm ra đặc trưng của nhóm từ này trong tiếng Việt và tiếng Trung.
4.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu
Phương pháp này được sử dụng với tư cách là phương pháp bổ trợ nhằm chỉ ra sự
tương đồng và khác biệt về ý nghĩa và thuộc tính kết trị của động từ hai diễn tố trong tiếng
Việt và tiếng Trung.

2


4.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp
Nội dung của phương pháp này là chọn nghiên cứu sâu một số nhóm động từ hai
diễn tố tiêu biểu, qua đó, làm rõ đặc điểm chung của tiểu loại động từ hai diễn tố.

4.4. Thủ pháp thống kê, phân loại
Các thủ pháp này được sử dụng để khảo sát, thống kê việc sử dụng động từ hai
diễn tố trong các văn bản và tiến hành phân loại chúng theo các nhóm nhỏ.
4.5. Một số thủ pháp khác
Chúng tôi kết hợp sử dụng các thủ pháp hình thức như: lược bỏ, bổ sung, thay thế,
cải biến, mô hình hóa. Các thủ pháp này giúp cho việc phân tích ngữ pháp hạn chế được
sự chủ quan, cảm tính cá nhân nhằm đạt được mục tiêu mà luận văn đã đề ra.
5. Đóng góp của luận văn
- Góp phần bổ sung làm phong phú lý thuyết kết trị động từ trên cứ liệu tiếng Việt
và tiếng Trung.
- Giúp người đọc, người học thấy được tính phức tạp, sự phong phú và đa dạng của
động từ trong tiếng Việt và tiếng Trung nói chung cũng như sự đa dạng và độc đáo của
động từ hai diễn tố nói riêng trong hai ngôn ngữ này nhìn từ góc độ lý thuyết kết trị.
- Giúp độc giả thấy được một số nét tương đồng và khác biệt của động từ hai diễn
tố trong tiếng Việt và tiếng Trung - cùng là loại hình ngôn ngữ đơn lập, khi nghiên cứu
theo lý thuyết kết trị.
- Là tài liệu tham khảo cho giáo viên các trường phổ thông cũng như sinh viên
ngành ngôn ngữ, văn học trong dạy học ngữ văn.
6. Bố cục luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chương 2. Đặc điểm chung của động từ hai diễn tố trong tiếng Việt (có so sánh đối chiếu với tiếng Trung)
Chương 3. Miêu tả một số nhóm động từ hai diễn tố trong tiếng Việt (có so sánh
- đối chiếu với tiếng Trung)

3


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN


1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về động từ trong tiếng Việt
Về sự tồn tại của động từ tiếng Việt, từ trước đến nay có rất nhiều ý kiến nhưng
có hai ý kiến chính trái ngược nhau. Ý kiến thứ nhất phủ nhận sự tồn tại của động từ;
còn ý kiến thứ hai thừa nhận sự tồn tại của động từ. Trong hai loại ý kiến trên, ý kiến
thứ hai đã dần chiếm ưu thế và được công nhận rộng rãi. Bởi thế, động từ bắt đầu được
nghiên cứu một cách nghiêm túc và có hệ thống. Quá trình ấy có thể được tóm tắt như
sau:
Từ cuối thế kỉ XIX đến đầu những năm sáu mươi của thế kỉ XX, việc nghiên cứu về
động từ chưa đạt được những thành tựu đáng kể, chưa có nhiều công trình nghiên cứu một
cách đầy đủ về động từ. Chỉ từ giữa những năm sáu mươi đến nay, việc nghiên cứu về động
từ mới thực sự được chú ý và đi vào chiều sâu. Bên cạnh những công trình chung về ngữ
pháp thường có đề cập đến động từ, có thể kể đến một số chuyên luận tiêu biểu trong và
ngoài nước như:
Ở nước ngoài có:
- Phân loại động từ tiếng Việt của I.S. Bystov (1966)
Ở trong nước có:
- Cụm động từ tiếng Việt của Nguyễn Phú Phong (1973)
- Các động từ chỉ hướng trong tiếng Việt của Nguyễn Lai (1976)
- Động từ trong tiếng Việt của Nguyễn Kim Thản (1977)
- Ngữ nghĩa và cấu trúc của động từ của Vũ Thế Thạch (1984)
- Vị từ hành động và các tham tố của nó của Nguyễn Thị Qui (1995)
- Kết trị của động từ tiếng Việt của Nguyễn Văn Lộc (1995)
Trong các công trình trên đây, một số nghiên cứu tương đối toàn diện về động từ
nói chung. Đó là những công trình của Nguyễn Phú Phong và Nguyễn Kim Thản… Ở
những công trình này, diện mạo chung của động từ đã hiện lên khá rõ rệt. Bên cạnh đó,
có những công trình đi sâu vào một khía cạnh nào đó của động từ như: I.S. Bystov đi
vào phân loại động từ, Nguyễn Lai tìm hiểu về nhóm động từ chỉ hướng, Vũ Thế Thạch
4



tìm hiểu về mặt ngữ nghĩa, Nguyễn Thị Qui tìm hiểu về vị từ hành động và các tham
tố của nó, Nguyễn Văn Lộc đi sâu vào mặt kết trị.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về kết trị động từ
1. 1.2.1 Ở nước ngoài
Người khởi xướng lí thuyết kết trị là L. Tesnière, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng người
Pháp. Những tư tưởng về lí thuyết kết trị được L.Tesnière trình bày trong cuốn “Các yếu
tố của cú pháp cấu trúc” (Elements de syntaxe structurale, 1959).
Trong cuốn sách trên đây của L.Tesnière, lí thuyết kết trị đã được trình bày gắn
liền với tư tưởng về ngữ pháp phụ thuộc của ông. L.Tesnière viết: “Quan hệ cú pháp
xác lập giữa các từ mối quan hệ phụ thuộc. Mỗi quan hệ thống nhất một yếu tố đứng
trên với một vài yếu tố đứng dưới. Yếu tố đứng trên chúng tôi sẽ gọi là yếu tố chi phối
hoặc yếu tố chính, còn yếu tố đứng dưới là yếu tố phụ thuộc. Chẳng hạn, trong câu
“Alfred parle.”(Anphret nói), parle (nói) là yếu tố chính, còn Anfred (Anphred) là yếu
tố phụ” [ 49, tr.64].
Mối quan hệ cú pháp ở câu trên được trình bày bằng sơ đồ sau:
Parle (nói)
Alfred
Cùng với nguyên tắc phụ thuộc và tính tôn ti của quan hệ cú pháp như đã nêu, L.
Tesnière cũng lưu ý đến tính chất một chức năng của yếu tố phụ thuộc: “Về nguyên tắc,
không một yếu tố phụ thuộc nào có thể phụ thuộc vào hơn một yếu tố chính. Ngược lại,
yếu tố chính có thể chi phối một vài yếu tố phụ thuộc” [ 49, tr.25].
Theo quan niệm của L. Tesnière, mỗi yếu tố chính mà ở nó có một hoặc một vài
yếu tố phụ lập thành cái ông gọi là nút (tiếng Pháp: noeut, tiếng Nga: uzel). Nút được
L. Tesnière định nghĩa là “tập hợp bao gồm từ chính và tất cả các từ trực tiếp hay
gián tiếp phụ thuộc vào nó” [ 49, tr.25]. Nút được tạo thành bởi từ thu hút vào mình,
trực tiếp hoặc gián tiếp, tất cả các từ của câu được gọi là nút trung tâm. Nút này đảm
bảo sự thống nhất cấu trúc của câu bởi nó gắn tất cả các yếu tố của câu thành một
chuỗi thống nhất. Trong ý nghĩa nhất định, nó đồng nhất với cả câu [ 49, tr.26]. Nút

trung tâm thường được cấu tạo bởi động từ (như các ví dụ trên đây) nhưng cũng có
thể là danh từ, tính từ, trạng từ.

5


Nút động từ theo quan niệm của L.Tesnière là trung tâm của câu trong phần lớn
các ngôn ngữ châu Âu và biểu thị cái tương tự như một vở kịch nhỏ với các vai diễn
(gắn với hành động) và hoàn cảnh. Nếu đi từ mặt thực tế của vở kịch sang bình diện cú
pháp cấu trúc thì hành động, các vai diễn và hoàn cảnh sẽ trở thành các yếu tố tương
ứng với động từ, diễn tố (actants), chu tố (circonstants). Động từ biểu thị quá trình
(frappe - đánh trong Alfred frappe Bernard-Alfred đánh Bernard). Các diễn tố chỉ
người hay vật tham gia vào quá trình với tư cách bất kì (chủ động hay bị động). Chẳng
hạn, trong câu trên, các diễn tố là Alfred và Bernard [49, tr.117].
Các diễn tố có đặc điểm chung là đều phụ thuộc vào động từ (kể cả diễn tố chủ
thể hay chủ ngữ), đều có tính bắt buộc và về hình thức, được biểu hiện bằng danh từ
hoặc các yếu tố tương đương (bằng vị từ hoặc mệnh đề phụ có chức năng tương đương
với danh từ).
Dựa vào chức năng mà các diễn tố thực hiện theo mối quan hệ với động từ, L.
Tesnière phân loại các diễn tố (actants) thành: diễn tố thứ nhất, diễn tố thứ hai và diễn
tố thứ ba.
Diễn tố thứ nhất được ông gọi là chủ thể (suject), tức là chủ ngữ truyền thống.
Chẳng hạn, trong câu “Alfred parle.” (Anphret nói.), Anphret là diễn tố thứ nhất.
Diễn tố thứ hai là diễn tố đối thể (object). Diễn tố này, về cơ bản, phù hợp với bổ
ngữ chỉ đối thể trong ngữ pháp truyền thống. Chẳng hạn, trong câu “Alfred frappe
Bernard.” (Anphret đánh Bécna.), Bécna về cấu trúc là diễn tố thứ hai (diễn tố đối thể).
L. Tesnière lưu ý rằng diễn tố chủ thể (chủ ngữ) và diễn tố đối thể (bổ ngữ) chỉ đối lập
nhau về mặt nghĩa, còn mặt cấu trúc (cú pháp) giữa chúng không có sự đối lập [49,
tr.124].
Diễn tố thứ ba, là diễn tố chỉ sự vật mà hành động được thực hiện có lợi hay gây

hại cho nó. Về cơ bản, diễn tố thứ ba tương ứng với bổ ngữ gián tiếp trong ngữ pháp
học truyền thống. Chẳng hạn, trong câu: “Alfred donne le liver à Charle. ” (Anphret
đưa cuốn sách cho Sáclơ.), à Charle (Sác lơ) là diễn tố thứ ba. Câu trên được sơ đồ
hóa như sau:

6


Donne (đưa)

Alfred

le liver

à Charle

(Anphret)

(cuốn sách)

(Sáclơ)

(actant 1)

(actant 2)

(actant 3)

Cùng nằm trong thành phần cấu trúc của câu động từ, bên cạnh các diễn tố còn
có các chu tố (circonstant). Về nghĩa, các chu tố biểu thị hoàn cảnh (thời gian, vị trí,

phương thức…) trong đó quá trình được mở rộng. Chẳng hạn, trong câu “Alfred parl
bien.” (Anphret nói hay), từ bien (hay) là chu tố.
Lược đồ của câu này như sau:
Parl
Alfred

bien

Lí thuyết kết trị của L.Tesnière như nêu tóm tắt trên đây, sau khi ra đời, đã được
phổ biến rộng rãi và được ứng dụng ở nhiều nước vào việc nghiên cứu từ loại, cú pháp
và đây cũng là một chỗ dựa lí thuyết cho tác giả luận văn khi nghiên cứu và động từ
hai diễn tố.
Ở Trung Quốc, trong số các công trình nghiên cứu về động từ và kết trị của động
từ, phải nhắc đến các công trình sau: cuốn “现代汉语配价语法研究”[Nghiên cứu về
ngữ pháp kết trị Hán ngữ hiện đại] của 袁毓林,郭锐(1998), [Viên Dục Lâm, Quách
Nhuệ], cuốn “汉语配价语法研究”[Nghiên cứu về ngữ pháp kết trị Hán ngữ] của 袁
毓林(2010)[Viên Dục Lâm]và cuốn “现代汉语配价语法研究” [Nghiên cứu về
ngữ pháp kết trị Hán ngữ hiện đại] của 周国光(2011), [Chu Quốc Quang]. Những
tác phẩm này đi sâu vào nghiên cứu lí thuyết kết trị và kết trị động từ trong tiếng Trung.
1.1.2.2. Ở Việt Nam
Nguyễn Văn Lộc là người đầu tiến tiến hành nghiên cứu động từ tiếng Việt theo
lí thuyết kết trị một cách có hệ thống và chuyên sâu. Trong công trình Kết trị của động
từ tiếng Việt (1995), trên cơ sở cách hiểu kết trị của động từ là khả năng của động từ
7


tạo ra xung quanh mình các vị trí mở (các ô trống) cần hoặc có thể làm đầy bởi các
thành tố cú pháp (các thực từ) mang ý nghĩa bổ sung nhất định [10, tr.34], tác giả đã
tiến hành phân tích, miêu tả kết trị bắt buộc của động từ tiếng Việt qua đó, làm rõ đặc
điểm của hai loại diễn tố: diễn tố chủ thể và diễn tố đối thể. Công trình này thật sự đặt

dấu mốc quan trọng cho một hướng nghiên cứu mới về từ loại và cú pháp: hướng
nghiên cứu động từ và tổ chức cú pháp của câu dựa vào thuộc tính kết trị của động từ
trong vai trò hạt nhân cú pháp (đỉnh cú pháp) của cụm động từ và câu.
Tiếp theo công trình của Nguyễn Văn Lộc, gần đây, đã có một số công trình vận
dụng lý thuyết kết trị vào việc nghiên cứu động từ ở các góc độ, bình diện khác nhau.
Chẳng hạn, có thể kể đến một số công trình như: Động từ chủ động trong tiếng Việt
của Gia Thị Đậm (2010); Phân tích, phân loại câu theo lý thuyết kết trị của Nguyễn
Mạnh Tiến (2010); Kết trị tự do của động từ tiếng Việt của Nguyễn Thùy Dương
(2011); Động từ ba diễn tố trong tiếng Việt của Nguyễn Thị Thanh Tâm (2012);Các
diễn tố được biểu hiện bằng vị từ và cụm chủ vị trong tiếng Việt của Nguyễn Thị Thu
Hoà (2014); Sự hiện thực hóa kết trị bắt buộc của động từ Tiếng Việt của Trần Minh
Tuất (2014); Sự chi phối của động từ trong tiếng Việt của Phùng Thị Huyền (2015).
Các động từ ba diễn tố (trên cứ liệu tiếng Việt có so sánh với tiếng Anh) của Nguyễn
Thị Hương (2018).
1.1.3. Tình hình nghiên cứu về động từ hai diễn tố
Qua tìm hiểu tình hình nghiên cứu về động từ hai diễn tố trong tiếng Việt, chúng
tôi nhận thấy tiểu loại động từ này, trên thực tế, đều đã được đề cập đến ở các mức độ
khác nhau trong các công trình nghiên cứu về từ loại và ngữ pháp tiếng Việt của các
tác giả như: Nguyễn Kim Thản (1964, 1977), Diệp Quang Ban (1989), Nguyễn Thị
Quy (1995), Đinh Văn Đức (2010)… Tuy nhiên, đến nay, hầu như chưa có công trình
nào nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu về tiểu loại động từ hai diễn tố, đặc biệt là
hướng nghiên cứu động từ hai diễn tố trong tiếng Việt theo lí thuyết kết trị có so sánh
với tiếng nước ngoài.
Như vậy, có thể thấy việc nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu về động từ hai diễn
tố trong tiếng Việt theo lí thuyết kết trị có so sánh với tiếng nước ngoài là vấn đề vẫn còn
bỏ ngỏ. Vì vậy, ở luận văn này, chúng tôi sẽ đi sâu vào việc tìm hiểu về động từ hai diễn
tố trong tiếng Việt theo lý thuyết kết trị (có so sánh - đối chiếu với tiếng Trung).
1.2. Cơ sở lí luận
8



1.2.1. Động từ
1.2.1.1. Khái niệm
Động từ là từ loại có số lượng lớn và là một trong hai từ loại cơ bản của tiếng
Việt. Với số lượng lớn và đặc điểm ý nghĩa, đặc điểm hoạt động ngữ pháp phức tạp
nhất, động từ giữ vai trò ngữ pháp quan trọng trong việc tổ chức câu tiếng Việt. Phạm
vi hoạt động của động từ khá rộng và đa dạng. Do đó, động từ đã thu hút sự chú ý, quan
tâm đặc biệt của nhiều nhà nghiên cứu. Vai trò của động từ đã được Nguyễn Kim Thản
khẳng định: “Trong câu, động từ gần như là trung tâm của các mối quan hệ giữa các
từ, nó không những có mối quan hệ tường thuật với từ chỉ chủ thể mà còn có quan hệ
chính phụ với những từ chỉ đối tượng, chỉ hoàn cảnh, trạng thái... đặt sau đó” [24,
tr.97].
Trong việc xác định khái niệm động từ, đến nay đã có nhiều ý kiến khác nhau.
Theo “Từ điển tiếng Việt”, động từ là “từ chuyên biểu thị hành động trạng thái
hay quá trình, thường làm vị ngữ trong câu.” [19, tr.346].
Trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” (tập 1), Diệp Quang Ban cho rằng: “Động từ
là những từ biểu thị ý nghĩa khái quát về quá trình:
- Ý nghĩa quá trình thể hiện trực tiếp đặc trưng vận động của thực thể. Đó là ý
nghĩa hành động, ý nghĩa trạng thái được khái quát hoá từ mối liên hệ với vận động
của thực thể trong thời gian và không gian” [1, tr.90].
Trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” của Trung tâm khoa học Xã hội và Nhân văn
Quốc gia, các tác giả của cuốn sách cho rằng: “Động từ là từ có ý nghĩa khái quát về
hoạt động, trạng thái” [39, tr.88].
Tác giả Nguyễn Lân trong cuốn “Ngữ pháp Việt Nam” cho rằng: “Động từ là
thứ từ dùng để biểu diễn một tác động, một hành vi, một ý nghĩ hoặc một cảm xúc,
một trạng thái hoặc sự phát triển, sự biến hoá của một trạng thái” [26, tr.32].
Trong luận văn này, khi xác định khái niệm động từ, trên cơ sở tham khảo các ý
kiến của các nhà nghiên cứu và dựa vào ý kiến của Nguyễn Văn Lộc [12, tr.100-103],
chúng tôi hiểu khái niệm động từ như sau:
1) Về mặt ý nghĩa: Động từ chỉ hoạt động (hành động hay trạng thái) của sự vật, có

khả năng được bổ sung ý nghĩa thời thể (thời gian, mệnh lệnh, kết quả...).
2) Về mặt hình thức:

9


a)Về khả năng kết hợp:
- Động từ có khả năng kết hợp về phía trước với:
+ Các phó từ thời thể như: đã, đang, sẽ, hãy, đừng...
Ví dụ: đã học, đang đi, hãy đọc, đừng làm...
+ Từ chỉ chủ thể hoạt động (chủ ngữ)
Ví dụ: Nam đọc, Nam chạy…
- Động từ có khả năng kết hợp về phía sau với các thành tố phụ khác để tạo thành
cụm động từ. Cụ thể:
+ Các thành tố phụ chỉ phương hướng: ra, vào, lên, xuống...
Ví dụ: chạy ra, bước vào, leo lên, đi xuống...
+ Các thành tố phụ chỉ kết quả: xong, rồi....
Ví dụ: làm xong, ăn rồi...
+ Các thực từ ở phía sau để phản ánh các quan hệ trong nội dung vận động của
quá trình.
Ví dụ: Đọc sách ở thư viện, liên lạc bằng điện thoại
b)Về chức năng cú pháp:
Động từ có khả năng giữ nhiều chức năng ngữ pháp khác nhau nhưng chức năng
ngữ pháp quan trọng nhất của động từ là làm vị ngữ của câu. Theo thống kê của Nguyễn
Kim Thản, những câu có động từ làm vị ngữ chiếm khoảng 88%. Ngoài ra, động từ
còn tham gia đảm nhiệm nhiều chức năng khác trong câu như: bổ ngữ, chủ ngữ, định
ngữ, trạng ngữ...
- Động từ làm bổ ngữ: Tôi muốn đi Hà Nội.
- Động từ làm chủ ngữ: Lao động là vinh quang.
- Động từ làm định ngữ: Bút này là bút kí.

- Động từ là trạng ngữ: Nói xong, nó bỏ đi ngay.
Tóm lại, động từ là một từ loại thực từ cơ bản trong kho từ vựng của bất kì ngôn
ngữ nào. Ý nghĩa khái quát của động từ là chỉ hoạt động của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan cũng như trong đời sống tinh thần của con người. Động từ
có khả năng kết hợp về phía trước với các phó từ thời thể, về phía sau với các phụ từ

10


và các thực từ tạo thành cụm động từ. Chức năng ngữ pháp cơ bản của động từ là làm
vị ngữ trong câu.
1.2.1.2. Một số vấn đề cần chú ý khi xác định động từ
Khi xếp loại các từ, có thể gặp khá phổ biến hiện tượng thường gọi là “chuyển
loại”, nghĩa là hiện tượng một từ vốn thuộc từ này lại phát triển thêm ý nghĩa và có
thêm những dấu hiệu hình thức đặc trưng cho từ loại khác.
So sánh:
Tôi về1 quê.
Chúng tôi tìm hiểu về2 vấn đề này.
Bố tôi mua cưa1.
Bố tôi cưa2 gỗ.
Đối với trường hợp trên đây, mỗi trường hợp dùng của từ sẽ được xếp vào một từ
loại: chẳng hạn, trong các ví dụ dẫn ra ở trên, “về1 ” là động từ, còn “về2” là quan hệ
từ, “cưa1” là danh từ, “cưa2” là động từ.
Khi phân định động từ, trước hết, ta xác định được một nhóm lớn bao gồm những
từ có đầy đủ đặc điểm nêu trên đây của động từ. Thuộc nhóm này là những từ kiểu như:
đi, chạy, ăn, đọc, viết, trao... Có thể gọi những từ thuộc nhóm này là những động từ
điển hình hay những động từ - thực từ. Chúng tạo nên khu vực trung tâm của từ loại
động từ.
Bên cạnh các động từ - thực từ còn có một nhóm không lớn bao gồm những từ có
không đầy đủ các đặc điểm nêu trên đây của động từ. Thuộc nhóm này là những từ

kiểu như: trở thành, trở nên, phải, bị, được, khiến... Khác với các động từ - thực từ hay
động từ điển hình, các động từ này không chỉ hoạt động cụ thể mà chỉ hoạt động trừu
tượng, khái quát (hoạt động hiểu theo nghĩa ngữ pháp). Chính do sự trống vắng, nghèo
nàn về ý nghĩa từ vựng mà về hình thức, các từ thuộc nhóm này chỉ có khả năng thay
thế bằng từ nghi vấn một cách hạn chế, có điều kiện. Khi trả lời các câu hỏi “làm gì”,
“làm sao” đặc trưng cho động từ, chúng thường phải kết hợp vào mình một thực từ
khác. Với những đặc điểm chỉ ra trên đây, các từ thuộc nhóm thứ hai rõ ràng mang tính
trung gian giữa động từ và hư từ. Trong luận văn này, chúng tôi xếp chúng vào động

11


từ - bán thực từ hay động từ - ngữ pháp. Động từ ngữ pháp chính là nhóm động từ
không điển hình tạo thành khu vực biên của từ loại động từ.
1.2.2. Vài nét về lí thuyết kết trị, khái niệm diễn tố, chu tố
1.2.2.1. Vài nét về lí thuyết kết trị
a) Khái niệm kết trị
Thuật ngữ kết trị [hoá trị, ngữ trị, tiếng Pháp: valence, tiếng Nga: valentnost,
tiếng Trung: 配价 (phối trị, ngữ trị)] vốn được dùng trong hoá học để chỉ thuộc tính
kết hợp của các nguyên tử với một số lượng xác định các nguyên tử khác. Thuật
ngữ này mới chỉ được dùng rộng rãi trong ngôn ngữ học từ cuối những năm bốn
mươi của thế kỉ XX để chỉ khả năng kết hợp của các lớp từ hoặc các lớp hạng đơn
vị ngôn ngữ nói chung.
Theo L. Tesniere: “Có thể hình dung động từ ở dạng như nguyên tử với những cái
móc có thể hút vào mình một số lượng nhất định diễn tố phù hợp với số lượng móc mà nó
có để giữ bên mình các diễn tố này- số lượng các móc có ở động từ và số lượng diễn tố
mà nó có khả năng chi phối lập thành bẩn chất của cái mà chúng tôi sẽ gọi là kết trị của
động từ (valence verbe)” [ 49, tr. 250].
Cách hiểu trên đây của L.Tesnière có thể coi là cách hiểu hẹp về kết trị. Với cách
hiểu này, kết trị của động từ được hiểu là khả năng của động từ kết hợp vào mình các

thành tố bắt buộc (chủ ngữ, bổ ngữ) và các thành tố tự do (trạng ngữ).
Theo cách hiểu rộng, kết trị được coi là thuộc tính kết hợp của các đơn vị ngôn
ngữ cùng cấp độ. (Dẫn theo [10, tr.29]).Với cách hiểu này, kết trị của từ theo nghĩa
rộng được hiểu không chỉ là khả năng của các từ loại thực từ tạo ra xung quanh mình
các vị trí mở cần hoặc có thể làm đầy bởi các thành tố cú pháp (các thực từ) nhất định
mà còn là khả năng của các thực từ làm đầy các vị trí mở bên các từ loại khác. Theo
cách hiểu này, kết trị của động từ được hiểu là khả năng của động từ tham gia vào các
mối quan hệ cú pháp nói chung, tức là thuộc tính kết hợp cú pháp của động từ với tư
cách là đại diện cho từ loại, tiểu loại.
Trong luận văn này, chúng tôi hiểu sẽ hiểu kết trị của động từ theo nghĩa rộng như
vừa trình bày trên đây.

12


b) Các kiểu kết trị của động từ
- Kết trị nội dung và kết trị hình thức
+ Kết trị nội dung
Kết trị nội dung là sự kết hợp về mặt ngữ nghĩa giữa từ mang kết trị và các thành
tố phụ (các diễn tố, chu tố). Kết trị nội dung thường được xác định theo đặc điểm về ý
nghĩa cú pháp (các kiểu nghĩa như chủ thể, đối thể, công cụ, nguyên nhân...) của các
diễn tố, chu tố và phụ thuộc chặt chẽ vào ý nghĩa của từ mang kết trị. Vì kết trị nội
dung phụ thuộc chặt chẽ vào nghĩa của từ nên sự thay đổi về nghĩa của từ luôn kéo theo
sự thay đổi kết trị nội dung cua nó. Ví dụ, động từ “chạy” trong tiếng Việt vốn có ý
nghĩa nội hướng và khi được dùng với ý nghĩa vốn có của mình nó không thể có kết trị
đối thể (Ví dụ: Nó đang chạy trên đường). Nhưng khi được dùng với ý nghĩa ngoại
hướng, “chạy” hoàn toàn có thể có kết trị đối thể như các động từ ngoại hướng khác
(Ví dụ: Nó chạy thóc vào nhà).
+ Kết trị hình thức
Kết trị hình thức của từ là mối quan hệ (sự kết hợp) về hình thức giữa từ mang

kết trị và các thành tố bổ sung (ở động từ là các diễn tố, chu tố). Khác với kết trị nội
dung chỉ gắn với mặt nghĩa của từ mang kết trị, kết trị hình thức gắn với đặc tính ngữ
pháp của từ. Sự đối lập giữa kết trị nội dung và kết trị hình thức được bộc lộ rất rõ
trong các ngôn ngữ biến hình. Chẳng hạn, trong tiếng Nga, hình thức động từ
“chitaju” về mặt kết trị nội dung, đòi hỏi hai diễn tố là chủ thể và đối thể hoạt động.
Nhưng khi xác định các yếu tố làm đầy các vị trí mở bên hình thức động từ này, chúng
ta không thể chỉ chú ý đến ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa từ vựng - ngữ pháp của từ. Chỉ
có thể nói: “Ja chitaju knigu” chứ không thể nói: “On chitaju kniga”. Cấu trúc sau sở
dĩ không chấp nhận được là vì giữa các từ không có sự phù ứng về hình thức ngữ
pháp.
- Kết trị bắt buộc và kết trị tự do
+ Kết trị bắt buộc
Kết trị bắt buộc là khả năng của các từ loại tạo ra xung quanh mình các vị trí mở
cần làm đầy bởi các thành tố bắt buộc (ở động từ là các diễn tố).
13


+ Kết trị tự do
Kết trị tự do là khả năng của các từ loại tạo ra xung quanh mình các vị trí mở có
thể làm đầy bởi các thành tố tự do (ở động từ là các chu tố).
Mặc dù sự đối lập giữa kết trị bắt buộc và kết trị tự do là rất rõ ràng nhưng cần
thấy ranh giới giữa chúng không phải lúc nào cũng rõ ràng, dứt khoát. Vì vậy, việc xác
định phân biệt diễn tố với chu tố tương đối khó khăn và trên thực tế, chỉ có thể vạch
được ranh giới tương đối giữa chúng. Chẳng hạn, thử so sánh hai câu dưới đây:
a. Nam tìm bạn ở Hà Nội.
b. Nam sống ở Hà Nội.
Trong hai câu trên đây, các từ “ở Hà Nội” đều chỉ vị trí. Nhưng “ở Hà Nội” trong
câu b) có đặc tính của thành tố bắt buộc (diễn tố), còn “ở Hà Nội” trong câu a) lại có
đặc tính của thành tố tự do (chu tố).
- Kết trị chủ động và kết trị bị động

+ Kết trị chủ động
Kết trị chủ động là khả năng kết hợp của từ với tư cách là thành tố chính, thành tố
giữ vai trò chi phối (thành tố tạo ra các vị trí mở cần làm đầy).
+ Kết trị bị động
Kết trị bị động là khả năng của từ tham gia vào mối quan hệ cú pháp với tư cách là
thành tố phụ thuộc, thành tố bị chi phối (thành tố làm đầy các vị trí mở).
c) Khái niệm diễn tố, chu tố, các kiểu diễn tố
Theo L.Tesnière, động từ là trung tâm (hạt nhân) hay đỉnh cú pháp của câu mà
quây quần xung quanh và bổ sung nó là các thành tố bắt buộc và tự do. Các thành tố
bắt buộc được gọi là diễn tố (actants- tương ứng với chủ ngữ, bổ ngữ truyền thống).
Còn thành tố tự do được gọi là chu tố (circonstants - trạng ngữ truyền thống). Chẳng
hạn, trong câu “Alfred frappe Bernard”, động từ frappe (đánh) là hạt nhân cú pháp của
câu biểu thị quá trình; còn các diễn tố chỉ người hay vật tham gia vào quá trình và bao
gồm diễn tố chủ thể (chủ ngữ) là Alfred và diễn tố đối thể (bổ ngữ) là Bernard.
Cùng nằm trong phần cấu trúc của câu động từ, bên cạnh các diễn tố còn có các
chu tố (circonstant). Xét về nghĩa, các chu tố biểu thị hoàn cảnh (thời gian, vị trí,
phương thức...) trong đó quá trình được mở rộng. Ví dụ, trong câu: Alfred fourve

14


toujours son nez partout (Alfred ở đâu cũng luôn ngoáy cái mũi của mình), có hai chu
tố là toujours (luôn luôn) và partout (ở mọi nơi).
Như vậy, theo quan niệm của L.Tesnière, ta có thể hiểu các khái niệm diễn tố và
chu tố như sau: Diễn tố là thành phần phụ bắt buộc của câu (hay cụm động từ) bổ sung
cho động từ hạt nhân (vị ngữ) ý nghĩa chủ thể hay đối thể và tương ứng với chủ ngữ,
bổ ngữ truyền thống; còn chu tố là thành tố phụ tự do của câu (hay cụm động từ) bổ
sung cho vị ngữ hay vị từ ý nghĩa về tình trạng, hoàn cảnh (vị trí, thời gian, nguyên
nhân, mục đích, phương tiện…) và tương ứng với trạng ngữ truyền thống.
Các diễn tố gồm hai kiểu chính là diễn tố chủ thể (chủ ngữ) và diễn tố đối thể (bổ

ngữ) như đã chỉ ra ở câu trên đây.
1.2.3. Về cách phân loại động từ - khái niệm động từ hai diễn tố
Về vấn đề phân loại động từ đã được rất nhiều chuyên khảo đề cập đến. Trong
luận văn này, chúng tôi trình bày một số cách phân loại động từ thường gặp như sau:
1.2.3.1. Cách phân loại động từ dựa vào ý nghĩa và hình thức ngữ pháp (đặc điểm hoạt
động ngữ pháp)
Theo cách này, có thể chia động từ làm hai tiểu loại và các nhóm sau đây:
a) Trước hết, có thể xác lập sự đối lập giữa động từ - thực từ và động từ ngữ pháp.
Động từ - thực từ là những động từ có ý nghĩa cụ thể, chân thực, có khả năng thay
thế bằng từ nghi vấn (làm gì, làm sao) và có khả năng độc lập làm vị ngữ (ví dụ: đi,
chạy, viết, đọc...). Động từ ngữ pháp được hiểu là những động từ không có ý nghĩa cụ
thể, chân thực. Nhóm động từ này đã bị hư hoá, trống nghĩa từ vựng, chúng mang ý
nghĩa trừu tượng, khái quát. Vì vậy, nhóm động từ này không có khả năng thay thế
bằng từ nghi vấn (khả năng độc lập trả lời câu hỏi), không có khả năng độc lập giữ vai
trò vị ngữ (ví dụ: có thể, trở nên, bị, được...). Động từ ngữ pháp thường được chia thành
động từ tình thái và động từ quan hệ.
Động từ tình thái là những động từ biểu thị hoạt động khái quát về khả năng, ý chí
(cần, nên, phải, có thể, dám, định, toan, muốn, quyết, cố, cố gắng, buồn (trong buồn
ngủ)…)
Động từ quan hệ là những động từ biểu thị quan hệ giữa chủ thể và nội dung nêu
ở những từ sau nó (là, làm, thành, trở thành, trở nên, được, bị, ở…).
15


b. Các động từ - thực từ được chia tiếp thành động từ chủ ý (chủ động) và động
từ không chủ ý (không chủ động).
Động từ chủ động là những động từ chỉ hoạt động có chủ ý, tức là hoạt động xuất
phát từ chủ thể và chủ thể có thể điều khiển được theo ý muốn của mình (ví dụ: đọc,
nói, viết, đi, ăn, chạy, đánh...). Động từ không chủ động chỉ hoạt động không xuất phát
từ chủ thể và chủ thể không điều khiển được hoạt động theo ý muốn của mình (ví dụ:

tan, cháy, vỡ, đổ...).
Tiếp tục phân chia các động từ chủ động ta có hai nhóm động từ: động từ tác động
(biểu thị những hoạt động tác động vào đối thể mà kết quả những hoạt động đó làm
cho đối tượng bị thay đổi về phương diện nào đó (nảy sinh, tiêu biến, thay đổi về vị trí)
như: ăn, xây, đập, đắp, phá...) và động từ không tác động (không có những đặc điểm
như động từ tác động: đi, bơi, chạy, nhảy...). Trong động từ tác động có hai diện đối
lập: động từ tạo tác (chỉ những hoạt động tạo ra đối thể: xây, đắp, vẽ, đào, nặn...) và
động từ chuyển tác (chỉ những hoạt động làm chuyển biến đối thể về mặt nào đó: đánh,
chặt, đốt, phá...). Động từ không tác động cũng được chia tiếp thành động từ chỉ hoạt
động chuyển động (nhảy, đi, chạy...) và động từ chỉ hoạt động không chuyển động (ngủ,
thức...).
1.2.3.2. Phân loại động từ dựa vào đặc điểm chi phối
Dựa vào cách phân loại này, động từ được chia thành hai loại chính: động từ nội
hướng (nội động) và động từ ngoại hướng (ngoại động). Động từ nội hướng là động từ
không chi phối bổ ngữ (ví dụ: nằm, đứng, ngủ, thức...), còn động từ ngoại hướng là
động từ có khả năng chi phối bổ ngữ (ví dụ: đọc, đánh, vẽ, viết...).
1.2.3.3 Phân loại động theo kết trị - khái niệm động từ hai diễn tố
a) Tiêu chí và kết quả phân loại
Cách phân loại này dựa vào các tiêu chí chính là số lượng và đặc tính của các
diễn tố xuất hiện ở động từ. Theo cách này, động từ được chia thành 4 tiểu loại sau:
- Động từ không đòi hỏi diễn tố hay động từ vô trị (ví dụ: nắng, mưa, sáng,
tối...).
Tiểu loại động từ này chỉ các hoạt động tự nhiên và không đòi hỏi diễn tố mà vẫn
có thể tạo thành câu hoàn chỉnh. Chủ ngữ bên chúng (trời) nếu có xuất hiện cũng chỉ
là chủ ngữ hình thức và không có tính bắt buộc.

16


Ví dụ: Mưa. Sáng rồi.

- Động từ đòi hỏi một diễn tố hay động từ đơn trị (ví dụ: thức, ngủ, đứng, nằm...)
Các động từ tiểu loại này chỉ hoạt động xuất phát từ chủ thể không hướng tới đối
thể bên ngoài. Chúng chỉ đòi hỏi một thành tố bắt buộc hay một diễn tố (chủ thể).
Ví dụ: Nó ngủ. Tôi vẫn thức.
- Động từ đòi hỏi hai diễn tố hay động từ song trị (ví dụ: ăn, đọc, viết, xây...)
Các động từ tiểu loại này chỉ hoạt động xuất phát từ chủ thể hướng tới một đối thể.
Chúng chỉ đòi hỏi hai thành tố bắt buộc hay hai diễn tố (chủ thể và đối thể).
Ví dụ: Nam tìm bạn. Công nhân xây nhà.
- Động từ đòi hỏi ba diễn tố hay động từ tam trị (ví dụ: tặng, biếu, cấm, mời...)
Các động từ tiểu loại này chỉ hoạt động xuất phát từ chủ thể hướng tới hai đối thể.
Chúng chỉ đòi hỏi ba thành tố bắt buộc hay ba diễn tố (chủ thể và hai đối thể).
Ví dụ: Nam tặng bạn món quà. Hoàng mời tôi đến chơi.
Cách phân loại động từ theo kết trị rất gần với cách phân loại động từ theo đặc
điểm chi phối nhưng có tính khái quát cao hơn. Trong cách phân loại theo đặc điểm chi
phối, thuộc tính cú pháp được chú ý chỉ là khả năng kết hợp về phía sau của động từ
(khả năng kết hợp với diễn tố đối thể). Trong cách phân loại theo lí thuyết kết trị, thuộc
tính cú pháp được chú ý gồm cả khả năng kết hợp về phía trước (với diễn tố chủ thể)
và khả năng kết hợp về phía sau (với diễn tố đối thể) của động từ.
Có thể thấy ba cách phân loại đều có cơ sở khoa học và có giá trị thực tiễn. Việc
lựa chọn cách phân loại nào là phụ thuộc vào quan điểm, mục đích của người nghiên
cứu, giảng dạy, học tập ngữ pháp. Trong luận văn này, chúng tôi lựa chọn cách phân
tích thứ ba làm chính, những vẫn sử dụng kết quả của cách phân loại thứ nhất và thứ
hai khi phân tích, miêu tả động từ hai diễn tố trong tiếng Việt.
b) Động từ hai diễn tố
b1)Khái niệm
Dựa vào kết quả của cách phân loại động từ theo kết trị, có thể xác định khái niệm
động từ hai diễn tố như sau: Động từ hai diễn tố là một trong các tiểu loại động từ
được phân loại theo thuộc tính kết trị. Đó là những động từ chỉ hoạt động xuất phát từ
chủ thể hướng tới một đối thể (theo nghĩa rộng). Chúng chi phối hai thành tố bắt buộc


17


hay hai diễn tố gồm diễn tố chủ thể (chủ ngữ) và diễn tố đối thể (bổ ngữ). Ví dụ: Nam
đọc sách. Tôi viết thư.
b2)Về phạm vi, ranh giới của động từ hai diễn tố
Khi xác định động từ hai diễn tố theo cách hiểu trên đây, cần thấy rằng bên cạnh
đại đa số trường hợp có đặc tính rõ ràng (là động từ hai diễn tố điển hình như ở hai ví
dụ vừa dẫn trên), còn có thể gặp những trường hợp không điển hình cần được luận giải
làm rõ thêm. Thuộc trường hợp vừa nêu là hai trường hợp cụ thể sau:
- Trường hợp có sự chuyển loại (lâm thời hay cố định) giữa động từ một diễn tố
và động từ hai diễn tố. Chẳng hạn, thử xem xét các ví dụ sau:
1a) Dì Hảo khóc như mưa… (Nam Cao)
1b) Trơ trơ trước cái chết của người thân, y khóc cái chết của chính tâm hồn y.
(Nam Cao)
2a) San cười để thưởng thức câu nói của mình. (Nam Cao)
2b) Cười người hôm trước hôm sau người cười. (Ca dao)
3a) Nam chạy trên sân.
3b) Nam chạy thóc vào nhà.
Trong các câu a), các động từ khóc, cười, chạy được dùng với tính chất là động từ
đơn trị (có một thành tố bắt buộc hay một diễn tố). Trong các câu b),các động từ khóc,
cười, chạy lại được dùng với tính chất là động từ song trị hay động từ hai diễn tố (đòi hỏi
hai thành tố bắt buộc hay hai diễn tố) và cần được coi là động từ hai diễn tố.
- Trường hợp có sự gần gũi (về cách dùng) giữa động từ hai diễn tố và động từ ba
diễn tố
Chẳng hạn, thử so sánh cách dùng động từ trong những câu sau:
4a) Tôi bán báo.
4b) Thế là chẳng những chúng không bảo hộ được ta; trái lại, trong năm năm,
chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật. (Hồ Chí Minh)
5a) Tôi vừa mua cuốn sách này ở hiệu trung tâm.

5b) Ông mua sẵn cho chúng mỗi đứa năm sào vườn. (Nam Cao)
Như các ví dụ cho thấy, trong những câu a), bán, mua được dùng với đặc tính của
động từ hai diễn tố; còn trong những câu b), bán, mua lại được dùng với đặc tính gần
với động từ ba diễn tố.

18


×