Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Pháp luật về việc làm, giải quyết việc làm từ thực tiễn tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.76 MB, 93 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Việc làm, giải quyết việc làm là một trong những vấn đề có tính chất toàn
cầu, hầu hết các quốc gia đều quan tâm coi trọng vì nó có tác động lớn tới sự phát
triển kinh tế và đời sống xã hội; đồng thời cũng phản ánh thực trạng phát triển kinh
tế - xã hội của quốc gia đó. Vì vậy, tăng việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp là một
trong những biện pháp hữu hiệu nhất để nâng cao chất lượng đời sống nhân dân và
đảm bảo sự phát triển bền vững. Đối với nước ta, giải quyết việc làm là yếu tố quyết
định để phát huy nhân tố con người, để sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động,
nhằm chuyển đổi cơ cấu lao động đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Xuất phát từ nguyện vọng, quyền lợi chính đáng của NLĐ và tính cấp thiết
của vấn đề việc làm, giải quyết việc làm, Đảng và Nhà nước có những chủ trương,
chính sách và biện pháp để tạo việc làm, kiểm soát thất nghiệp. Vì vậy, việc ban
hành các văn bản luật như BLLĐ, Luật việc làm, Luật Bảo hiểm Xã hội, Luật Giáo
dục nghề nghiệp, Luật Doanh nghiệp…đã xác lập khung pháp lý tương đối hoàn
chỉnh, tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi trong việc phát triển sản xuất, NLĐ
có cơ hội tự tạo việc làm và có việc làm, thúc đẩy thị trường lao động phát triển,
đáp ứng yêu cầu việc làm và giải quyết việc làm của xã hội.
Bên cạnh những thuận lợi, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và hội nhập quốc tế cũng đặt ra nhiều thách thức, tạo sức ép đối với vấn đề tạo việc
làm. Theo báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2011 - 2015 và phương hướng nhiệm vụ 5 năm 2016 -2020 tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XII đã đánh giá cả nước còn nhiều mặt yếu kém, khắc phục còn
chậm: Thị trường lao động chưa thật thông suốt, dịch chuyển lao động còn khó
khăn, thông tin về cung - cầu lao động còn hạn chế. Chuyển dịch cơ cấu lao động
chậm; tỷ trọng lao động khu vực nông nghiệp còn lớn. Số người thiếu việc làm và
việc làm không ổn định còn nhiều, nhất là ở khu vực nông thôn; một bộ phận sinh
viên ra trường không có việc làm.

1




Đối với tỉnh Vĩnh Phúc, đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đã đánh giá
lĩnh vực xã hội còn hạn chế, yếu kém: Đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó
khăn. Tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm có thu nhập ổn định khá phổ biến,
nhất là ở nông thôn; công tác giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững hiệu quả
chưa cao. Theo kết quả điều tra thông tin thị trường lao động phần cung-cầu lao
động của Sở Lao động thương binh và Xã hội tỉnh thì số người trong độ tuổi lao
động năm 2017 là 636.761 người, số người có việc làm trong độ tuổi lao động
632.210 người; số người trong độ tuổi lao động không tham hoạt động kinh tế
122.005 người; tỉ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động năm 2017 là 1,64%. Năm
2017 có 3.953 doanh nghiệp đang sử dụng 187.190 lao động; số lao động doanh
nghiệp có nhu cầu tuyển dụng năm 2017 (gồm lao động tuyển mới, lao động tuyển
để thay thế) là 32.181 người. Từ năm 2011 đến 2017, toàn tỉnh đã giải quyết việc
làm cho 164.577 lao động; trong đó, giải quyết việc làm trong nước là 154.020
người, đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài 10.537 người [1].
Hiện nay, Vĩnh Phúc có dân số trung bình là 1.056.000 người, dự kiến năm
2020 dân số trung bình đạt 1.200.000 người; hàng năm, Vĩnh Phúc có số người
bước vào độ tuổi lao động khá lớn, bình quân khoảng 14.000 người; cùng với số
người hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương, số học sinh tốt nghiệp các
trường và số lao động thất nghiệp thì mỗi năm cần giải quyết việc làm cho khoảng
20.000 người. Vì vậy, gây áp lực cho công tác giải quyết việc làm hàng năm; nhiều
công ty, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc chỉ tuyển lao động phổ thông,
lao động nữ với độ tuổi từ 18 đến 25, đồng thời chỉ sử dụng lao động trong thời gian
ngắn đến 30 tuổi (mỗi năm có khoảng 6.000 lao động đề nghị hưởng chế độ bảo
hiểm thất nghiệp). Do vậy, rất khó khăn trong công tác đào tạo nghề và giải quyết
việc làm cho số lao động thất nghiệp sau tuổi 30. Số lao động xuất cảnh đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài vẫn còn thấp so với thực tế nhu cầu và nguồn lao động của
tỉnh; nhiều lao động có nhu cầu đi xuất khẩu lao động nhưng không tiếp cận được
với nguồn vốn vay từ Ngân hàng chính sách xã hội; chi phí xuất cảnh thực tế của

người lao động cao trong khi mức vay tín chấp hỗ trợ không đáp ứng được so với

2


chi phí thực tế người lao động phải trả; nhiều gia đình không có tài sản đảm bảo để
vay thế chấp...Dự kiến nhu cầu sử dụng lao động giai đoạn từ năm 2018-2020
khoảng 61.346 người, chia theo lĩnh vực: Công nghiệp, xây dựng: 22.715 người;
Dịch vụ: 19.728 người; Nông – Lâm – thủy sản: 18.903 người [2].
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về việc làm, giải quyết
việc làm từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc” có tính cấp thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn.Thực hiện đề tài nghiên cứu này, bản thân học viên có mong muốn góp một
phần công sức nhỏ bé cùng với các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý nhà nước,
các tổ chức, các doanh nghiệp trên dịa bàn tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện có hiệu quả các
chính sách pháp luật về việc làm và thu nhập đối với người lao động; nâng cao chất
lượng thông tin thị trường lao động, tư vấn, giới thiệu việc làm cho người lao động;
đẩy mạnh xuất khẩu lao động; khuyến khích các nhà đầu tư xây dựng nhà ở xã hội,
nhà ở cho người thu nhập thấp…nâng cao mức thu nhập của người dân nông thôn
tương đồng với mức thu nhập người dân ở đô thị. Từ đó nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần và chất lượng cuộc sống của người dân. Thông qua đó, kiến nghị với nhà
nước ta cần có cơ chế chính sách hỗ trợ các dịch vụ về giải quyết việc làm để người
dân được tiếp cận một cách đầy đủ các dịch vụ và chính sách pháp luật của nhà nước
về giải quyết việc làm, tạo cho người dân có việc làm ổn định phát triển bền vững.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cũng như pháp luật về lĩnh vực này
luôn là vấn đề nóng và thời sự nên đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học. Cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu hoặc trực tiếp hoặc
gián tiếp liên quan đến vấn đề này đã được công bố. Chẳng hạn: Bài viết: “bàn về
khái niệm việc làm dưới góc độ của pháp luật lao động”, Tạp chí Luật học số
6/2004 của Thạc sĩ Nguyễn thị Kim Phụng; Bài viết “ Vai trò của Nhà nước trong

lĩnh vực giải quyết việc làm”, Tạp chí Luật học 1/2006 của TS. Nguyễn Hữu Chí;
Luận văn Thạc sĩ Luật học “Những vấn đề pháp lý cơ bản về việc làm và giải quyết
việc làm trong bối cảnh suy thoái kinh tế ở Việt Nam hiện nay” của Lâm thị Thu
Huyền, 2011; Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật việc làm và thực trạng giải

3


quyết việc làm tại tỉnh Thái Bình” của Vũ Văn Pho, 2015… Luận văn Thạc sĩ Luật
học “Pháp luật về giải quyết việc làm và thực tiễn thi hành tại huyện Hóc Môn, tp.
Hồ Chí Minh”, 2016; Luận văn Thạc sĩ Luật học “Pháp luật vè việc làm và giải
quyết việc làm từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” của Trương Thị Phương Lan, 2017
...Các công trình nghiên cứu nêu trên đã ít nhiều đề cập đến vấn đề việc làm, giải
quyết việc làm và pháp luật về lĩnh vực này ở các mức độ khác nhau, song hoặc mới
chỉ ở một hoặc một vài khía cạnh (do mục đích và phạm vi nghiên cứu của các công
trình đó), hoặc phản ánh thực tiễn thực hiện ở một địa phương nhất định. Do vậy, đề
tài luận văn mà học viên lựa chọn sẽ không trùng lặp với các công trình nghiên cứu
đã có khi luận văn sẽ nghiên cứu vấn đề một cách toàn diện và xem xét việc thực
hiện ở tĩnh Vĩnh Phúc, nơi học viên đang sống và làm việc.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về việc làm, giải quyết
việc làm và pháp luật về giải quyết việc làm và thực trạng áp dụng pháp luật tại tỉnh
Vĩnh Phúc; từ đó hướng đến mục đích đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường thực
hiện có hiệu quả giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về việc làm, giải quyết việc làm và
pháp luật về vấn đề này
- Nghiên cứu làm rõ thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết việc làm ở địa

bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2011-2017;
- Đề xuất kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và tăng
cường hỗ trợ giải quyết việc làm ở địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn
đề lý luận và pháp luật về giải quyết việc làm cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật
giải quyết việc làm ở địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu tập trung vào pháp luật về việc làm và giải
quyết việc làm. Phạm vi về không gian, thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp
dụng pháp luật về giải quyết việc làm tại địa bàn Vĩnh Phúc từ năm 2011 đến năm
2017. Phạm vi chuyên môn: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi chuyên ngành Luật
Kinh tế.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm, đường lối của Đảng về vấn đề giải quyết
việc làm cho người dân làm nền tảng để lựa chọn những phương pháp thích hợp
trong phân tích và đánh giá pháp luật về giải quyết việc làm cho người dân và thực
tiễn áp dụng tại tỉnh Vĩnh Phúc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
5.2.1. Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, quy nạp, diễn dịch, bình
luận, suy luận logic: Các phương pháp trên được sử dụng để nghiên cứu các tài
liệu, phân tích quy phạm pháp luật nhằm làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về giải
quyết việc làm, cũng như pháp luật về giải quyết việc làm cho người dân. Các

phương pháp này cũng được tác giả sử dụng trong suốt quá trình triển khai các nội
dung nghiên cứu trên cơ sở những công trình đã được tác giả khảo cứu trong phần
tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn.
5.2.2. Phương pháp thống kê : Phương pháp nhằm thống kê, ghi chép và xử
lý các số liệu thực đã thu thập được trong quá trình nghiên cứu đưa ra những kết
quả cụ thể và chi tiết liên quan tới đề tài.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của công trình nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài hoàn thành sẽ góp phần hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận về việc
làm và giải quyết việc làm và pháp luật về vấn đề này.

5


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý,
nghiên cứu hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn về giải quyết việc làm cho
người dân, phù hợp với điều kiện và tình hình ở mỗi địa phương, góp phần thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, làm
giảm tỷ lệ nghèo và thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội nói chung.
Kết quả nghiên cứu được tham khảo trong quá trình hoàn thiện chính sách và
pháp luật về giải quyết việc làm cho người dân. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là
những gợi ý cho các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp trong tiến trình
thực hiện giải quyết việc làm cho người dân và làm việc với người lao động sau này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục các
biểu, bảng, luận văn gồm 3 chương sau đây:
CHƯƠNG I: Một số vấn đề lý luận về việc làm, giải quyết việc làm và nội
dung pháp luật lao động hiện hành về vấn đề này
CHƯƠNG II: Thực tiễn thực hiện pháp luật về việc làm, giải quyết việc làm

tại tỉnh Vĩnh Phúc
CHƯƠNG II: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về việc làm, giải quyết việc làm tại tỉnh Vĩnh Phúc
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM, GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ
NỘI DUNG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG HIỆN HÀNH VỀ VẤN ĐỀ NÀY
1.1. Một số vấn đề lý luận về việc làm và giải quyết việc làm
1.1.1.Quan niệm về việc làm
Việc làm là vấn đề đặc biệt quan trọng trong đời sống mỗi con người và trong
mỗi xã hội. Nó không chỉ đem lại cho con người cơ hội để kiếm sống mà còn là cơ hội
để phấn đấu, thăng tiến và trưởng thành. Một xã hội giàu có và văn minh là một xã hội
mà trong đó mọi người dân đều có việc làm và có cuộc sống sung túc từ việc làm.
Quan niệm về việc làm có thể được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau.

6


Ở góc độ ngôn ngữ học, “việc làm- nói chung là công chuyện cần phải dùng
đến trí lực hoặc sức lực để tạo nên điều kiện sống”[3]. Hoặc “việc làm là danh từ
chỉ hành động cụ thể, hay công ăn việc làm để sinh sống”[4]
Ở phương diện xã hội, việc làm là khái niệm chỉ tồn tại gắn liền với con
người, tồn tại đối với loài người vì nó là hoạt động cần được thực hiện với lý trí, ý
chí và tình cảm. Sự hoạt động của loại vật, dù là loài vật thông minh được huấn
luyện công phu (như khỉ làm xiếc, chó nghiệp vụ…) cũng chỉ là hoạt động mang
tính bản năng dưới sự điều khiển của con người.
Dưới góc độ pháp lý, “việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà
không bị pháp luật cấm” [5].Ở đây cần phải hiểu việc làm là một dạng công việc hoặc
một lĩnh vực hoạt động của con người mà ở đó thu nhập được tạo ra một cách hợp
pháp. Những lĩnh vực hoạt động mà khi con người thực hiện cũng có thể tạo ra thu
nhập nhưng không được pháp luật thừa nhận thì không phải là việc làm (ví dụ sản

xuất, buôn bán tân dược giả…). Ngược lại, những công việc dù không bị pháp luật
cấm mà khi thực hiện không mang lại thu nhập cũng không được coi là việc làm.
Như vậy có thể hiểu “việc làm” như sau: Việc làm là một hoặc nhiều công
việc thuộc hệ thống ngành nghề kinh tế quốc dân do người lao động thực hiện
nhằm tạo ra thu nhập để thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống.
1.1.2. Phân loại việc làm
Có thể phân loại việc làm căn cứ vào các tiêu chí khác nhau:
- Căn cứ vào phương thức thực hiện công việc, có 2 loại là việc làm chân tay
và việc làm trí óc. Người làm việc chân tay là người phải thực hiện công việc thông
qua các thao tác bằng chân, tay. Các công việc đó không đòi hỏi nhiều về tư duy mà
chủ yếu dùng sức khỏe của cơ bắp, chẳng hạn công nhân khuân vác, đóng
gói…Ngược lại, các công việc đòi hỏi người lao động phải sử dụng nhiều đến tư
duy mà ít hoặc không phải sử dụng sức lực của cơ bắp để giải quyết công việc là
công việc trí óc (công việc hành chính, bác sĩ, kỹ sư…).
- Căn cứ vào tính chất công việc hoặc điều kiện thực hiện công việc, có 2 loại
việc làm là việc làm bình thường và việc làm khó khăn, độc hại, nguy hiểm. Việc làm

7


bình thường là loại công việc không hoặc ít chứa đựng các yếu tố khó khăn, độc hại,
nguy hiểm, thể hiện trong các thao tác hoạt động, quy trình, quy phạm của công việc
đó hoặc thể hiện ở môi trường, điều kiện làm việc không hoặc ít chứa đựng các yếu tố
có hại cho con người. Ngược lại, loại việc làm thứ hai là các công việc chứa đựng
những yếu tố hóa học, vật lý, sinh học…có hại đối với cơ thể người lao động. Cũng
có thể không phải bản thân công việc mà môi trường, điều kiện làm việc có chứa
đựng yếu tố độc hại, nguy hiểm, chẳng hạn người quản lý, điều hành làm việc trong
xưởng hóa chất…Các yếu tố này sẽ tác động đến người lao động qua da, đường hô
hấp…và tích tụ dần, lâu dài có thể gây nên bệnh nghề nghiệp.
- Căn cứ vào thời gian thực hiện công việc, có 2 loại là việc làm đầy đủ và

việc làm bán thời gian. Việc làm đầy đủ (trọn ngày) là việc làm mà người lao động
thực hiện công việc trọn vẹn trong thời gian quy định (theo hợp đồng hoặc theo nội
quy, pháp luật). Ngược lại, khi thực hiện việc làm bán thời gian (không trọn ngày),
người lao động chỉ làm việc trong một khoảng thời gian nhất định trong ngày, họ
không phải có mặt thường xuyên tại nơi làm việc và thu nhập đương nhiên cũng
giảm so với người làm việc trọn ngày.
Ngoài ra, trên cơ sở các căn cứ khác còn có thể phân loại việc làm thành việc
làm tự nguyện và việc làm cưỡng bức (bắt buộc), việc làm nhân văn (việc làm tử tế có
thu nhập, theo cách gọi của Tổ chức Lao động quốc tế) và việc làm không nhân văn.
1.1.3. Tầm quan trọng của việc làm và giải quyết việc làm
Đối với con người nói chung và người lao động nói riêng, việc làm tạo điều
kiện để họ thực hiện hoạt động lao động, để giao kết hợp đồng lao động. Không thể
có hoạt động lao động hoặc không thể giao kết hợp đồng lao động nếu không có
việc làm. Khi thực hiện việc làm, người lao động có thu nhập để đảm bảo cuộc sống
của bản thân và gia đình, đồng thời có điều kiện để khẳng định bản thân, có cơ hội
thăng tiến và phát triển trong sự nghiệp.
Đối với xã hội nói chung, việc làm đảm bảo sự an toàn của xã hội. Một xã
hội có đầy đủ việc làm cho người dân sẽ là một xã hội giàu có, văn minh. Ngược
lại, một quốc gia có nhiều người không có hoặc không đủ việc làm không những

8


không đảm bảo về cuộc sống, kinh tế cho người dân của mình mà còn kéo theo
nhiều hệ lụy về mặt xã hội. “Nhàn cư vi bất thiện” là câu nói đã được thực tế chứng
minh tính đúng đắn của nó. Một xã hội có nhiều người không có hoặc thiếu việc
làm sẽ làm phát sinh nhiều hậu quả kinh tế- xã hội khó lường.Khi không có việc
làm đảm bảo cuộc sống thì việc người ta phải tìm mọi cách để sống sẽ làm tăng
thêm những bất ổn của xã hội. Sự an toàn kinh tế, an toàn xã hội, an toàn cá nhân và
an toàn cộng đồng phụ thuộc nhiều vào việc người lao động có được đảm bảo công

ăn việc làm hay không.
Ngoài ra việc làm còn là yếu tố thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã
hội.Việc làm tạo ra thu nhập, tạo ra của cải cho xã hội, đồng thời tạo nên nhân cách,
tạo điều kiện cho sự phát triển con người- lực lượng sản xuất trọng yếu nhất của xã
hội. Đến lượt nó, lực lượng sản xuất quan trọng này sẽ góp phần tạo nên của cải vật
chất nhiều hơn, tạo thêm nhiều việc làm và việc làm có chất lượng, góp phần thúc
đẩy mạnh mẽ sự phát triển của toàn xã hội.
Do tầm quan trọng đặc biệt của việc làm như nêu trên mà việc giải quyết việc
làm luôn là mục tiêu hàng đầu của mọi quốc gia. Các Nhà nước đều đề ra các chủ
trương, chính sách, pháp luật nhằm mục tiêu giải quyết việc làm một cách hiệu
quả.Ở nước ta, chủ trương giải quyết việc làm được thể hiện ở tất cả các kỳ Đại hội
của Đảng. Ngay từ Đại hội VI, Đảng chủ trương thực hiện chính sách kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, tạo điều kiện quan trọng để giải quyết thêm nhiều việc
làm.Đặc biệt, Đại hội XII đã xác định: “tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải
thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái
sản xuất sức lao động…Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu
vực nông nghiệp do việc tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công
nghiệp, đô thị và các công trình công cộng. Khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều
việc làm, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp…”[6] Nhằm thể chế hóa các
chủ trương nêu trên, ở từng thời kỳ Nhà nước đã ban hành các quy định pháp luật
về việc làm và giải quyết việc làm phù hợp. Nội dung quy định pháp luật lao động
hiện hành về vấn đề này sẽ được phản ánh tại Mục tiếp theo của luận văn.

9


1.1.4. Các nguyên tắc về việc làm, giải quyết việc làm
Thứ nhất, Nhà nước thống nhất quản lý lĩnh vực việc làm và giải quyết việc làm.
Nguyên tắc này thể hiện ở khoản 1 Điều 7, Luật việc làm “Chính phủ thống
nhất quản lý nhà nước về việc làm trong phạm vi cả nước”; Điều 9 Bộ luật Lao động

quy định: “Nhà nước, người sử dụng lao động và xã hội có trách nhiệm tham gia giải
quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc
làm”. Với tư cách vừa là chủ thể quản lý, vừa là chủ thể sử dụng lao động lớn nhất
hiện nay, Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo việc làm cho từng cá nhân người lao
động. Do vậy, Nhà nước thống nhất quản lý nguồn nhân lực và quản lý lao động bằng
pháp luật và có chính sách để phát triển, phân bố nguồn nhân lực, phát triển đa dạng
các hình thức sử dụng lao động và dịch vụ việc làm. Quản lý bằng việc ban hành và
tổ chức thực hiện các chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ hai, cấm cưỡng bức, ngược đãi người lao động trong việc làm và giải
quyết việc làm.
Nguyên tắc này được quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 8 Bộ luật Lao động
năm 2012: “cấm ngược đãi người lao động”, “cấm cưỡng bức người lao động”.
Luật việc làm cũng quy định tại khoản 4, Điều 9 “cấm dụ dỗ, hứa hẹn và quảng cáo
gian dối để lừa gạt người lao động…”. Theo đó, các cơ quan Nhà nước cũng như
NSDLĐ không được buộc NLĐ phải tiến hành những việc làm trái với ý nguyện
của họ và trong quá trình sử dụng lao động không được có những hành vi có tính
chất ngược đãi người lao động phải làm theo ý muốn của mình trái với quy định của
pháp luật, vi phạm quyền con người. Thể hiện tính nhân văn, nhân đạo của nhà
nước ta, nhằm bảo vệ quyền lợi của NLĐ, hướng tới mục đích bảo vệ nhân quyền
và chống lại tình trạng nô dịch việc làm.
Thứ ba, bình đẳng trong lĩnh vực việc làm và giải quyết việc làm
Để bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng trong việc làm, Bộ luật Lao
động năm 2012 quy định: “Người lao động có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc
làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp và không bị phân biệt
đối xử” (điểm a khoản 1 Điều 5); “Cấm phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, màu
da, thành phần xã hội, tình trạng hôn nhân, tín ngưỡng, tôn giáo, nhiễm HIV, khuyết
10


tật…” (khoản 1 điều 8). Luật việc làm năm 2013 quy định: “Bình đẳng về cơ hội

việc làm và thu nhập” (khoản 2 Điều 4); “cấm phân biệt đối xử trong việc làm và
nghề nghiệp” (khoản 1 Điều 9). Theo đó, mọi NLĐ đều có quyền bình đẳng về cơ
hội có việc làm, được đối xử bình đẳng trong trả công khi làm công việc như nhau.
NLĐ không bị phân biệt đối xử về dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo,
không bị biệt đối xử về bất cứ tiêu chí nào trong lĩnh vực việc làm. Họ có thể làm
việc ở bất cứ nơi nào miễn là họ có sức khỏe, khả năng và trình độ nghề nghiệp đáp
ứng nhu cầu của người tuyển dụng lao động.
Thứ tư, đa dạng hóa việc làm và khuyến khích mọi hoạt động tạo ra việc làm
và hỗ trợ tạo ra việc làm
Đa dạng hóa việc làm là nguyên tắc linh hoạt, mềm dẻo và tính nhân văn, an
sinh xã hội. Nhằm khai thác nguồn lực và tận dụng mọi tiềm năng của xã hội trong
tìm kiếm việc làm, tạo ra việc làm và GQVL; phát huy tính chủ động, năng động của
mọi người lao động và khả năng thu hút lao động của các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế. Thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, vừa thể hiện trách nhiệm của
xã hội, của NSDLĐ và của cá nhân NLĐ trong vấn đề việc làm và GQVL.
1.2. Nội dung pháp luật lao động hiện hành về việc làm và giải quyết việc làm
1.2.1. Trách nhiệm của các chủ thể trong lĩnh vực việc làm và giải quyết
việc làm
1.2.1.1. Trách nhiệm của Nhà nước trong lĩnh vực việc làm và giải quyết
việc làm
Khoản 2 Điều 9 BLLĐ đã xác định: “Nhà nước, người sử dụng lao động và
xã hội có trách nhiệm tham gia giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả
năng lao động đều có cơ hội có việc làm”. Như vậy, Nhà nước là chủ thể đầu tiên
được pháp luật xác định có trách nhiệm trong việc giải quyết việc làm cho những
người có khả năng lao động. Điều này là phù hợp, bởi Nhà nước có chức năng và
tiềm lực kinh tế, có vai trò quản lý xã hội cũng như có quyền lực nên việc giải quyết
việc làm trước hết cần thuộc về Nhà nước.Nhà nước thực hiện trách nhiệm này
thông qua các biện pháp, phương thức khác nhau. Trước hết, đó là việc xác định chỉ
tiêu tạo việc làm tăng thêm trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm hoặc
hàng năm; nghĩa là khi xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế hàng năm hoặc mỗi 5


11


năm, việc tạo việc làm tăng thêm phải là một trong những chỉ tiêu quan trọng cần
phải đạt được. Đó là chỉ tiêu phản ánh số NLĐ có việc làm tăng thêm trong kỳ báo
cáo. Ở cấp địa phương, UBND các cấp phải xây dựng và tổ chức thực hiện chỉ tiêu
tạo việc làm tăng thêm trong các chương trình, dự án và kế hoạch phát triển kinh tếxã hội 05 năm và hàng năm [7]. Đồng thời, Quốc hội quyết định chương trình mục
tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề căn cứ điều kiện kinh tế- xã hội từng thời kỳ
do Chính phủ trình trước Quốc hội. Ngoài ra, Nhà nước hỗ trợ phát triển việc làm
thông qua các chính sách BHTN, chính sách khuyến khích để NLĐ tự tạo việc làm
(chẳng hạn thông qua chính sách tín dụng ưu đãi tạo việc làm từ các nguồn tín dụng
khác nhau), chính sách hỗ trợ NSDLĐ sử dụng nhiều lao động đặc thù như lao động
khuyết tật, lao động nữ…Nhà nước cũng khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho
các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh để tạo việc làm cho NLĐ
[8]. Các phong trào khởi nghiệp đặc biệt trong giới trẻ hiện nay ở mọi ngành nghề
khác nhau trên cả nước đang được Nhà nước khuyến khích, khích lệ; các Bộ, Ban,
ngành đang tích cực giảm bớt, xóa bỏ các “giấy phép con” hoặc điều kiện kinh
doanh…là một trong những ví dụ sinh động về vấn đề này. Ngoài ra, Nhà nước còn
hỗ trợ NSDLĐ và NLĐ tìm kiếm và mở rộng thị trường lao động ở nước ngoài để
gia tăng việc làm cho NLĐ, thông qua việc ban hành các quy định pháp luật phù
hợp, chẳng hạn Luật đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Tóm lại, với quyền lực, tiềm lực kinh tế cũng như để thực hiện chức năng
kinh tế và xã hội của mình, Nhà nước là chủ thể quan trọng đầu tiên có trách nhiệm
tham gia GQVL trong xã hội.
1.2.1.2 Trách nhiệm của người sử dụng lao động trong lĩnh vực việc làm
và giải quyết việc làm
Sau Nhà nước, NSDLĐ là chủ thể tiếp theo được pháp luật xác định có trách
nhiệm tham gia giải quyết việc làm [9]. Đó là bởi NSDLĐ chính là những người
nắm giữ tư liệu sản xuất trong xã hội, quyết định việc tổ chức, phân công lao động

và phân phối thu nhập nên họ phải cùng với Nhà nước có trách nhiệm tạo và đảm
bảo việc làm cho NLĐ. Mặt khác, với tư cách là một bên không thể thiếu trong

12


quan hệ lao động nhằm mục tiêu thu lợi nhuận, NSDLĐ phải thông qua việc làm
mới có thể “mua” được hàng hóa sức lao động từ NLĐ, do vậy đương nhiên họ
mong muốn việc làm tồn tại và phát triển để khai thác sức lao động.Việc làm chính
là cầu nối giữa hai chủ thể của quan hệ lao động, có việc làm mới có điều kiện cho
quan hệ lao động tồn tại. Như vậy, vấn đề đảm bảo việc làm cho NLĐ vừa là quyền,
vừa là nghĩa vụ của NSDLĐ.
Trách nhiệm của NSDLĐ trong lĩnh vực việc làm và giải quyết việc làm thể
hiện ở một số nội dung cụ thể sau đây:
Thứ nhất, trách nhiệm của NSDLĐ khi tuyển dụng, bố trí, sắp xếp lao động
cần phải đảm bảo tính hợp pháp và tính lâu dài của việc làm. Bởi vì, như đã đề cập,
một hoạt động lao động (một công việc) chỉ được coi là việc làm khi nó là công việc
không bị pháp luật cấm. Nói cách khác, pháp luật chỉ thừa nhận và bảo vệ NLĐ khi
họ thực hiện một hoặc nhiều công việc hợp pháp.Đảm bảo tính hợp pháp của công
việc là trách nhiệm chung của các bên quan hệ lao động nhưng trước tiên thuộc về
NSDLĐ vì chính họ là người tạo ra việc làm và phát sinh nhu cầu tuyển dụng lao
động để thực hiện việc làm nên họ phải có nghĩa vụ biết rõ về tính hợp pháp của
việc làm.Tuy nhiên, mặt khác khi tuyển dụng lao động, NSDLĐ cũng có quyền nhất
định. Họ có quyền trực tiếp hoặc thông qua tổ chức dịch vụ việc làm, doanh nghiệp
cho thuê lại lao động để tuyển dụng lao động, có quyền tăng, giảm lao động phù
hợp với nhu cầu sản xuất, kinh doanh [10]. Ngoài ra, khi giao kết HĐLĐ với NLĐ,
NSDLĐ phải căn cứ vào tính chất công việc (chứ không phải do ý chỉ chủ quan) mà
quyết định loại hợp đồng được giao kết. Chẳng hạn, đối với công việc phải thực
hiện thường xuyên, lâu dài nên hai bên không xác định được thời hạn, thời điểm
chấm dứt hợp đồng thì khi đó phải ký kết hợp đồng không xác định thời hạn [11].

Đối với NLĐ, khi làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn họ sẽ có nhiều lợi
ích hơn so với các loại hợp đồng khác, một mặt sẽ có công việc thường xuyên, ổn
định; mặt khác khi họ muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng vì một lý do nào đó thì
chỉ cần báo trước với NSDLĐ mà không cần phải có căn cứ hợp pháp [12].

13


Thứ hai, trách nhiệm của NSDLĐ trong việc thực hiện đúng và đầy đủ các
cam kết trong thỏa ước lao động tập thể và trong HĐLĐ với NLĐ. Theo đó,
NSDLĐ phải bố trí đúng công việc, địa điểm làm việc và các điều kiện làm việc
như đã thỏa thuận. Trường hợp phải điều chuyển NLĐ làm công việc khác so với
HĐLĐ, NSDLĐ phải đảm bảo các điều kiện như lý do điều chuyển, thời gian điều
chuyển, tiền lương trong thời gian điều chuyển như pháp luật đã quy định [13].
Điều này là do việc điều chuyển sang làm công việc khác so với HĐLĐ thường ảnh
hưởng đến tính ổn định của việc làm và quyền lợi của NLĐ. Pháp luật đã cho phép
NSDLĐ được điều chuyển NLĐ (nghĩa là đơn phương thay đổi việc làm so với các
cam kết trước đó) để thích ứng kịp thời với sự biến động của sản xuất kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường, thì NSDLĐ cũng phải đảm bảo ở mức độ nhất định
quyền lợi cho NLĐ; điều này cũng đã được pháp luật quy định tại Đ. 31 BLLĐ như
đã đề cập. Thực hiện quy định này cũng là để đảm bảo sự ổn định của việc làm,
tránh tình trạng NLĐ bị chuyển việc bất hợp pháp.
Thứ ba, trách nhiệm của NSDLĐ trong việc chấm dứt HĐLĐ theo đúng quy
định pháp luật.
Chấm dứt HĐLĐ là một sự kiện đặc biệt quan trọng đối với NLĐ bởi nó
đồng nghĩa với việc không còn việc làm.Do vậy, để đảm bảo sự ổn định của việc
làm, đảm bảo quyền lợi của NLĐ trong trường hợp mất việc làm do chấm dứt hợp
đồng, pháp luật quy định khá chặt chẽ các điều kiện để NSDLĐ có thể đơn phương
chấm dứt hợp đồng, thể hiện ở các quy định về căn cứ chấm dứt, thủ tục chấm dứt,
những trường hợp NSDLĐ không được chấm dứt hợp đồng dù có đầy đủ căn cứ

hoặc làm đúng thủ tục [14]. Điều này nhằm hạn chế sự chấm dứt việc làm do
NSDLĐ chủ động, hoặc để bảo vệ NLĐ trước sự chấm dứt việc làm đột ngột, bất
ngờ, để họ có thể có kế hoạch dự liệu cho cuộc sống của mình trước khi việc làm bị
chấm dứt. Khi bắt buộc phải mất việc làm do hợp đồng lao động bị NSDLĐ đơn
phương chấm dứt (hợp pháp), NLĐ phải được NSDLĐ đảm bảo những quyền lợi
nhất định. Đó là khoản trợ cấp thôi việc nhằm bù đắp một phần mất mát do mất việc
làm [15]. Trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật, nghĩa là

14


làm cho NLĐ bị mất việc làm một cách bất hợp pháp, ngoài việc phải khôi phục
việc làm cho NLĐ thông qua việc nhận NLĐ trở lại làm việc, NSDLĐ còn phải bồi
thường một khoản nhất định [16].
Ngoài ra, trong các trường hợp phải chấm dứt việc làm của NLĐ do những lý
do thuộc yếu tố khách quan hoặc phải thay đổi để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường đầy biến động (thay đổi cơ cấu, công nghệ, vì lý
do kinh tế hoặc sáp nhập, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp…), NSDLĐ cũng phải
đáp ứng các điều kiện nhất định (xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao
động, trao đổi với tổ chức đại diện lao động tại cơ sở, thông báo trước cho cơ quan
quản lý nhà nước về lao động), đồng thời phải trả khoản trợ cấp mất việc làm khi
NLĐ đủ điều kiện [17]. Điều này cũng nhằm mục đích hạn chế sự chấm dứt việc
làm một cách tùy tiện từ phía NSDLĐ.
Một vấn đề khác không kém phần quan trọng cũng cần được quan tâm đối
với NSDLĐ trong việc đảm bảo việc làm cho NLĐ, đó là các hành vi bị nghiêm
cấm đã được pháp luật xác định [18], trong đó đặc biệt quan trọng là hành vi cưỡng
bức lao động và phân biệt đối xử. Theo đó, việc phân biệt đối xử về giới tính, dân
tộc, màu da, thành phần xã hội, tình trạng hôn nhân, tín ngưỡng, tôn giáo, nhiễm
HIV, khuyết tật hoặc vì lý do thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn là hành vi
được liệt kê đầu tiên trong các hành vi bị cấm. NSDLĐ có thể vi phạm quy định này

trong việc tuyển dụng, bố trí sắp xếp việc làm cho NLĐ (chẳng hạn không tuyển
dụng NLĐ chỉ vì lý do người đó là người nhiễm HIV, hoặc người đó là người dân
tộc thiểu số…). NSDLĐ cũng có thể vi phạm quy định trong việc chấm dứt việc
làm của NLĐ (chẳng hạn NSDLĐ không tiếp tục giao kết HĐLĐ khi HĐ cũ hết hạn
chỉ vì lý do người đó vừa lập gia đình, NSDLĐ lo ngại NLĐ sẽ sinh con và sẽ phải
nghỉ việc theo chế độ, ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp…). Trên thực tế có những trường hợp NSDLĐ chấm dứt việc làm đối với
nhiều lao động nữ khi họ đạt độ tuổi 34, 35 để tuyển lao động mới trẻ hơn thay
thế…Trường hợp này không thuộc các trường hợp bị nghiêm cấm được pháp luật
quy định, nhưng ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của NLĐ bị chấm dứt

15


việc làm. Đây là điều cần được tiếp tục nghiên cứu để có hướng xử lý phù hợp, tăng
cường trách nhiệm đảm bảo việc làm của NSDLĐ.
1.2.1.3. Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trong lĩnh
vực việc làm và giải quyết việc làm
Ngoài Nhà nước và NSDLĐ, các cơ quan, tổ chức khác cũng có trách nhiệm
nhất định về việc làm. Khoản 1 Điều 8 Luật Việc làm xác định: Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình
có trách nhiệm tuyên truyền, vận động cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức và cá
nhân tạo việc làm cho NLĐ. Ngoài ra các tổ chức này còn tham gia với cơ quan nhà
nước trong việc xây dựng và giám sát việc thực hiện pháp luật về việc làm theo quy
định pháp luật.
Như vậy, cả hệ thống chính trị ở nước ta đều “vào cuộc” để tham gia giải
quyết việc làm, một vấn đề luôn “nóng” và có tầm quan trọng đặc biệt ở mọi thời kỳ
phát triển của đất nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận cấu thành hệ thống
chính trị của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là tổ chức liên minh chính
trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức trong xã hội. Việc tuyên truyền, vận động đối

với các cơ quan, đơn vị và tầng lớp nhân dân trong việc tạo việc làm cũng có vai trò
quan trọng, tạo sức lan tỏa, kết nối để mọi lực lượng trong xã hội, kể cả người dân
cùng chung tay vào việc giải quyết việc làm. Trong các thành viên của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Phòng Thương mại và công
nghiệp Việt Nam và Liên minh các hợp tác xã Việt Nam có vai trò to lớn trong lĩnh
vực lao động nói chung và việc làm nói riêng. Các tổ chức này đồng thời là thành
viên trong cơ chế ba bên, với tư cách đại diện cho giới lao động (Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam)và giới sử dụng lao động (Phòng thương mại và công nghiệp Việt
Nam, Liên minh các hợp tác xã Việt Nam) tham gia cùng cơ quan Nhà nước trong
việc ban hành chính sách, pháp luật về việc làm.Các tổ chức này được tham gia ý
kiến, được mời họp, được trình các chính sách pháp luật phù hợp khi Chính phủ chủ
trì việc soạn thảo các văn bản liên quan trực tiếp đến lĩnh vực việc làm. Sau khi các

16


văn bản pháp luật được ban hành, các tổ chức này cũng tham gia giám sát việc thực
hiện nhằm đảm bảo để các quy định được thực thi trong cuộc sống.
Ngoài ra, khoản 2 Đ. 8 Luật Việc làm cũng xác định trách nhiệm của cá nhân
trong việc chủ động tìm kiếm việc làm và tham gia tạo việc làm.Trước đây khi nói
đến việc làm, người ta thường nghĩ đến trách nhiệm của Nhà nước phải đảm bảo
đầy đủ chỗ làm việc cho NLĐ, việc làm được giải quyết theo kiểu “bao cấp” của
Nhà nước; Nhà nước là chủ thể duy nhất chịu trách nhiệm tổ chức việc làm và đời
sống cho NLĐ. Hiện nay quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm đã thay đổi.
Bản thân cá nhân NLĐ một mặt cũng có trách nhiệm về việc làm, chủ động tìm
kiếm việc làm và tham gia tạo việc làm, không trông chờ vào Nhà nước. Tuy nhiên,
mặt khác NLĐ cũng có quyền tự do việc làm nhất định. Đó là khả năng lựa chọn và
hành động một cách có ý thức của cá nhân người lao động như tự do lựa chọn đối
tác trong quan hệ lao động, tự do lựa chọn địa điểm làm việc, tự do xác lập, thay đổi
hay chấm dứt quan hệ lao động. Điều này được đảm bảo thực hiện bằng các quy

định pháp luật cụ thể: NLĐ được làm việc cho bất kỳ NSDLĐ nào và ở bất kỳ nơi
nào mà pháp luật không cấm. Họ có thể liên hệ trực tiếp với NSDLĐ hoặc thông
qua tổ chức dịch vụ việc làm để tìm việc làm theo nguyện vọng, khả năng, trình độ
nghề nghiệp và sức khỏe của mình [19]. Như vậy, trong lĩnh vực việc làm, NLĐ
vừa có quyền vừa có trách nhiệm.
1.2.2. Các biện pháp giải quyết việc làm
1.2.2.1. Chương trình việc làm
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng chương trình việc làm
của địa phương trình HĐND cùng cấp quyết định. Nội dung chương trình này bao
gồm: Mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu, đối tượng, phạm vi thực hiện, thời gian, tổ chức
thực hiện và cơ chế, chính sách để thực hiện [20]. Như vậy, UBND cấp tỉnh có quyền
hạn và trách nhiệm xây dựng chương trình việc làm của địa phương mình dựa trên
điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể từng thời kỳ để trình HĐND cấp tỉnh quyết định.
Pháp luật xác định các nội dung rõ ràng, chi tiết như nêu trên nhằm đảm bảo tính khả
thi của các chương trình việc làm khi đã được HĐND quyết định. Chương trình này

17


sau đó được UBND tổ chức thực hiện. Các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức
chính trị- xã hội, tổ chức xã hội và NSDLĐ khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm tham gia thực hiện chương trình việc làm. Hàng năm UBND
báo cáo kết quả về Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội [21]. Chương trình việc làm
này là biện pháp pháp lý thiết thực đảm bảo để cơ quan Nhà nước ở địa phương thực
hiện tốt trách nhiệm của mình trong việc GQVL cho NLĐ.
1.2.2.2. Các chính sách hỗ trợ tạo việc làm
Thứ nhất, trên cơ sở Quỹ quốc gia về việc làm và các nguồn tín dụng khác,
Nhà nước thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi để hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở
rộng việc làm. Quỹ quốc gia về việc làm có nguồn hình thành từ ngân sách nhà
nước, nguồn hỗ trợ của tổ chức, cá nhân và các nguồn hợp pháp khác. Quỹ giành để

cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh doanh (gọi
chung là cơ sở sản xuất, kinh doanh) và NLĐ để tạo việc làm. Đối với cơ sở sản
xuất, kinh doanh, mức vay tối đa cho 1 dự án là 1 tỷ đồng, đối với NLĐ, tối đa là 50
triệu đồng. Thời hạn vay không quá 60 tháng, với mức lãi suất vay vốn bằng lãi suất
vay vốn đối với hộ nghèo từng thời kỳ do Thủ tướng Chính phủ quy định. Đối với
một số đối tượng như cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động
trở lên là người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, hoặc người dân tộc thiểu số đang
sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn, người khuyết tật
thì được vay vốn với mức lãi suất thấp hơn, cụ thể chỉ bằng 50% mức lãi suất nêu
trên. Quỹ quốc gia về việc làm được giao cho NHCSXH quản lý và cho vay theo
quy định. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thực hiện quản lý nhà nước đối với
Quỹ, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phân bổ nguồn vốn và
giao chỉ tiêu thực hiện cho UBND cấp tỉnh và một số cơ quan khác [22].
Thứ hai, hỗ trợ chuyển dịch việc làm đối với NLĐ ở khu vực nông thôn. NLĐ
ở khu vực nông thôn tham gia chuyển đổi nghề nghiệp, việc làm ngoài việc được vay
vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm như đã đề cập nêu trên, họ còn được hưởng các chế
độ như được tư vấn miễn phí về chính sách, pháp luật về lao động, việc làm, học
nghề, được giới thiệu việc làm miễn phí và được hỗ trợ học nghề. Mức hỗ trợ tùy

18


thuộc từng đối tượng. Lao động nông thôn thuộc diện được hưởng chính sách người
có công với cách mạng, hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, người bị
thu hồi đất canh tác được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và
dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa 3 triệu đồng/người/khóa học; hỗ trợ tiền ăn
15.000đ/người/ngày; hỗ trợ tiền đi lại theo giá vé giao thông công cộng với mức tối
đa không quá 200.000đ/người/khóa học đối với người học xa nơi cư trú từ 15 km trở
lên. Lao động nông thôn thuộc diện hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ
nghèo được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới

3 tháng) với mức tối đa 2,5 triệu đồng/người/khóa học.Lao động nông thôn khác
được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn với mức tối đa 2 triệu đồng/người/khóa học
[23].Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, hộ kinh doanh cũng được Nhà
nước hỗ trợ để phát triển sản xuất, kinh doanh, mở rộng việc làm tại chỗ cho NLĐ ở
khu vực nông thôn. Ngoài việc được vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm, họ còn
được hỗ trợ cung cấp thông tin về thị trường tiêu thụ sản phẩm và được miễn, giảm
thuế theo quy định của pháp luật về thuế [24].
Thứ ba, hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên, thông qua việc tư vấn, định
hướng nghề nghiệp và giới thiệu việc làm miễn phí cho thanh niên; hỗ trợ thanh
niên lập nghiệp, khởi sự doanh nghiệp; hỗ trợ đào tạo nghề gắn với tạo việc làm cho
thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an, thanh niên tình nguyện
hoàn thành nhiệm vụ thực hiện chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội. Các
đối tượng này nếu tham gia đào tạo nghề trình độ sơ cấp thì được cấp thẻ đào tạo
nghề có giá trị tối đa bằng 12 tháng tiền lương cơ sở tại thời điểm đào tạo nghề và
có giá trị sử dụng trong 1 năm kể từ ngày cấp. Với thẻ này, người học nghề được hỗ
trợ chi phí đào tạo nghề, tiền ăn, tiền đi lại [25].
Như vậy, pháp luật xác định các biện pháp khá đa dạng nhằm mục đích hỗ
trợ tạo thêm ngày càng nhiều việc làm cho NLĐ.
1.2.2.3. Tổ chức dịch vụ việc làm
Tổ chức dịch vụ việc làm bao gồm 2 loại là trung tâm dịch vụ việc làm và
doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm.

19


Trung tâm dịch vụ việc làm là đơn vị sự nghiệp công lập, bao gồm: trung
tâm do cơ quan quản lý nhà nước về việc làm thành lập và trung tâm do tổ chức
chính trị-xã hội thành lập. Ngược lại, doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm là
doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo pháp luật về doanh nghiệp và phải
có giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm do cơ quan nhà nước về việc làm cấp tỉnh

cấp. Để được cấp giấy phép, doanh nghiệp phải đáp ứng đầy đủ điều kiện về cơ sở
vật chất, trang thiết bị, nhân lực, tiền ký quỹ theo quy định. Đổi lại, doanh nghiệp
được thu phí theo quy định của pháp luật.
Về cơ bản, trung tâm dịch vụ việc làm và doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc
làm thực hiện các hoạt động tư vấn, GTVL cho NLĐ, NSDLĐ; cung ứng và tuyển
lao động theo yêu cầu của NSDLĐ; thu thập và cung cấp thông tin về thị trường lao
động; phân tích và dự báo thị trường lao động; đào tạo kỹ năng, dạy nghề theo quy
định của pháp luật và thực hiện các chương trình, dự án về việc làm. Riêng trung tâm
dịch vụ việc làm do cơ quan quản lý nhà nước về việc làm thành lập ngoài các nhiệm
vụ nêu trên còn thực hiện việc tiếp nhận hồ sơ hưởng BHTN để trình cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định [26] (Sở lao động Thương binh và Xã hội ở các tỉnh).
Như vậy, tổ chức dịch vụ việc làm là đơn vị làm trung gian, cầu nối giữa NLĐ,
NSDLĐ và thị trường lao động. Hoạt động của tổ chức dịch vụ việc làm rất thiết thực
trong việc GQVL cho NLĐ. Qua tổ chức dịch vụ này, NLĐ dễ dàng hơn trong việc tìm
được cho mình một việc làm phù hợp, NSDLĐ cũng thuận lợi trong việc tìm kiếm
nhân công, tuyển dụng lao động phù hợp cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn
vị mình. Nếu triển khai hoạt động của tổ chức dịch vụ việc làm tuân thủ đúng quy định
pháp luật, chắc chắn đây là một “kênh”, một biện pháp GQVL đầy hiệu quả. Tuy
nhiên, trên thực tế không ít các hiện tượng tiêu cực đã xảy ra, đặc biệt tại các doanh
nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm khi họ có những hành vi lừa đảo hoặc thu phí quá
cao làm cho NLĐ “tiền mất tật mang”, mục tiêu GQVL không đạt được.
1.2.2.4. Chế độ bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm thất nghiệp là một trong những biện pháp pháp lý quan trọng nhằm
góp phần GQVL cho NLĐ. Đó là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của NLĐ

20


khi bị mất việc làm, hỗ trợ NLĐ học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở
đóng vào Quỹ BHTN [27]. Chế độ BHTN được áp dụng đối với NLĐ làm việc theo

hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn hoặc xác định
thời hạn hoặc HĐLĐ theo mùa vụ, theo một công việc nhất định có thời hạn đủ 3
tháng đến dưới 12 tháng (Đ. 43 Luật Việc làm). Khác với các chế độ BHXH, chế độ
BHTN không chỉ thực hiện việc chi trả trợ cấp cho NLĐ thất nghiệp để bù đắp một
phần thu nhập khi họ bị mất việc làm, mà còn nhằm mục tiêu quan trọng hơn là
giúp NLĐ thất nghiệp sớm trở lại thị trường lao động thông qua các chế độ như hỗ
trợ tư vấn, GTVL, hỗ trợ học nghề, hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ
năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ [28]. Như vậy, có thể nói chế độ BHTN có
mục đích chủ yếu là nhằm GQVL cho một bộ phận NLĐ là những người thất
nghiệp- những người đã có một thời gian làm việc và đóng BHTN mà bị mất việc
làm nhưng còn trong độ tuổi lao động và mong muốn được tiếp tục làm việc.
Hướng đến mục đích này một cách trực tiếp là 2 chế độ thuộc nội dung của chế độ
BHTN, đó là chế độ hỗ trợ tư vấn, GTVL và chế độ hỗ trợ học nghề. Theo đó, NLĐ
thuộc đối tượng bắt buộc tham gia BHTN (theo khoản 1 Đ. 43 Luật Việc làm) đang
đóng BHTN bị chấm dứt HĐLĐ hoặc hợp đồng làm việc (trừ một số trường hợp
nhất định) mà có nhu cầu tìm kiếm việc làm thì được tư vấn, GTVL miễn phí. Như
vậy, không phụ thuộc vào thời gian đã đóng BHTN dài hay ngắn, NLĐ thất nghiệp
có nhu cầu tìm kiếm việc làm được hưởng chế độ tư vấn này. Điều này tạo điều
kiện cho người thất nghiệp nhanh chóng tìm hiểu, tiếp cận thị trường với sự giúp đỡ
của tổ chức dịch vụ việc làm để sớm tìm được một công việc mới. Về chế độ hỗ trợ
học nghề, các đối tượng còn cần phải đáp ứng thêm một số điều kiện khác. Cụ thể,
họ cần phải nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm và
chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ, đồng thời đã đóng
BHTN từ đủ 9 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt HĐLĐ
hoặc hợp đồng làm việc.Thời gian hỗ trợ học nghề theo thời gian học nghề thực tế
nhưng không quá 6 tháng. Mức hỗ trợ theo quy định cụ thể của Thủ tướng Chính
phủ [29]. Cụ thể, NLĐ đáp ứng đủ điều kiện theo quy định có nhu cầu học nghề

21



được hỗ trợ 01 lần để học 01 nghề tại cơ sở đào tạo theo quy định của pháp luật về
dạy nghề. Phương thức hỗ trợ kinh phí học nghề được thực hiện thông qua cơ sở
dạy nghề, không hỗ trợ bằng tiền trực tiếp cho NLĐ để tự học nghề. Thời gian hỗ
trợ học nghề theo thời gian học nghề thực tế nhưng không quá 06 tháng. Mức hỗ trợ
học nghề cho NLĐ tham gia BHTN tối đa 1 (một) triệu đồng/người/tháng. Mức hỗ
trợ cụ thể được tính theo tháng, tùy theo từng nghề, mức thu học phí và thời gian
học nghề thực tế theo quy định của cơ sở dạy nghề.
Điều này thật sự thiết thực đối với những người bị thất nghiệp vì lý do công việc
cũ không còn tồn tại hoặc doanh nghiệp không có nhu cầu NLĐ làm công việc cũ, hoặc
thậm chí NLĐ muốn chuyển đổi công việc để có thu nhập cao hơn. Rõ ràng, các chế độ
BHTN nêu trên giúp GQVL cho NLĐ.
Ở mức độ gián tiếp góp phần GQVL là chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ. Trực tiếp thụ hưởng
chế độ này không phải là NLĐ mà là NSDLĐ/doanh nghiệp đang sử dụng lao động.
Điều kiện để được hưởng là NSDLĐ cũng phải thuộc đối tượng tham gia BHTN
theo quy định và phải đóng đủ BHTN cho NLĐ thuộc đơn vị mình một thời gian
nhất định nhưng gặp khó khăn do suy giảm kinh tế hoặc buộc phải thay đổi cơ cấu,
công nghệ mà không đủ kinh phí để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ
kỹ năng nghề cho NLĐ [30]. Sau khi được hỗ trợ kinh phí, NSDLĐ có trách nhiệm
tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho NLĐ theo phương án đã được duyệt, sử dụng nguồn
kinh phí đúng đối tượng, đúng mục đích. Như vậy, chế độ này một mặt giúp các
doanh nghiệp đang gặp khó khăn, mặt khác giúp NLĐ được nâng cao trình độ để
duy trì việc làm tại doanh nghiệp mà không phải lâm vào tình trạng thất nghiệp.
1.2.2.5. Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
Nhằm tạo thêm việc làm cho NLĐ khi nguồn lực trong nước để tạo việc làm
còn hạn chế, một biện pháp quan trọng là hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện cho NLĐ có nhu cầu và
khả năng đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng [31]. NLĐ khi đó sẽ làm việc
theo các HĐ khác nhau với địa điểm làm việc ở nước ngoài. Điều này một mặt tạo


22


điều kiện thuận lợi cho NLĐ khi họ có cơ hội tiếp cận công nghệ, điều kiện làm
việc tiến tiến, cơ hội hưởng mức lương cao…, song mặt khác họ cũng phải đối mặt
với những khó khăn không nhỏ do nơi làm việc không phải là quê hương, có sự
khác biệt về ngôn ngữ, pháp luật, văn hóa, điều kiện sống… Hoạt động này được
quy định tại Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo HĐ năm
2006 [32] nhằm một mặt tạo cơ sở pháp lý để hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở
nước ngoài đạt hiệu quả, mặt khác nhằm bảo vệ NLĐ. Theo đó, NLĐ có thể đi làm
việc ở nước ngoài theo 4 hình thức: i) hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài
với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức sự
nghiệp được phép hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài.ii) hợp đồng đưa
NLĐ đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ
chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. iii) hợp
đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề
với doanh nghiệp đưa NLĐ đi làm việc dưới hình thức thực tập nâng cao tay
nghề.iii) hợp đồng cá nhân [33]. Ở mỗi hình thức, các chủ thể phải đáp ứng các điều
kiện pháp lý chặt chẽ khác nhau, nhất là các chủ thể là doanh nghiệp thực hiện hoạt
động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài.Trong quá trình chuẩn bị để đi làm việc ở
nước ngoài, cả hai bên NLĐ và doanh nghiệp có nhiều nghĩa vụ như ký kết các hợp
đồng, tổ chức dạy nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng các kiến thức cần thiết để khi ra nước
ngoài, NLĐ phải có đủ điều kiện thực hiện công việc và duy trì việc làm. Như vậy,
pháp luật cho phép thực hiện các hình thức đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài rất
đa dạng nhằm tận dụng tối đa các cơ hội để tạo việc làm ở nước ngoài cho NLĐ.
Để có thể đi làm việc ở nước ngoài, NLĐ cần có tiền để trang trải các chi phí.
Pháp luật quy định một số đối tượng có thể được hỗ trợ kinh phí. Cụ thể, NLĐ là
người dân tộc thiểu số; người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo hoặc bị thu hồi đất nông
nghiệp, thân nhân của người có công với cách mạng có nhu cầu đi làm việc ở nước

ngoài được hỗ trợ học phí đào tạo nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết;
tiền ăn trong thời gian học; chi phí đi lại để đi học; chi phí làm thủ tục, hộ chiếu…
theo quy định. NLĐ thuộc hộ nghèo, hộ bị thu hồi đất nông nghiệp và người là dân

23


tộc thiểu số được vay vốn đi làm việc ở nước ngoài từ NHCSXH. NLĐ thuộc hộ cận
nghèo, người là thân nhân của người có công với cách mạng được vay vốn từ Quỹ
quốc gia về việc làm để đi làm việc ở nước ngoài [34].
Như vậy, pháp luật tạo mọi điều kiện để tăng cơ hội việc làm ở nước ngoài cho
NLĐ. Đáng lưu ý là, NLĐ sau quá trình làm việc ở nước ngoài trở về còn được khuyến
khích tạo việc làm ở trong nước. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích
NLĐ về nước đầu tư sản xuất, kinh doanh tạo việc làm cho mình và cho người khác.
NLĐ gặp khó khăn thì được ưu đãi vay vốn để tạo việc làm [35]. Rõ ràng, đây lại là
“kênh” tiếp theo để có thể góp phần giải quyết việc làm cho NLĐ trong nước.
1.2.2.6. Đào tạo nghề với vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động
Một quốc gia muốn phát triển nhanh, bền vững phải dựa trên ít nhất 3 yếu tố
cốt lõi: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và sử dụng hợp lý
nguồn lực con người, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao. Đối với NLĐ, muốn
có việc làm họ cần phải hội đủ 2 điều kiện chủ yếu: có sức khỏe và có trình độ, tay
nghề. Trình độ tay nghề chỉ có được hoặc chỉ đạt đến một trình độ nhất định bằng
con đường tích lũy kiến thức về nghề nghiệp. Đào tạo nghề là một trong những con
đường tích cực để NLĐ có kiến thức cần thiết về nghề nghiệp nhằm tìm kiếm được
việc làm và duy trì lâu dài việc làm đó. Trong lĩnh vực tuyển dụng lao động, nhà
tuyển dụng luôn chú trọng đến tay nghề, trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của
người dự tuyển. Những NLĐ trước khi được tuyển dụng chính thức thường phải trải
qua một thời kỳ thử việc, tập sự.Nếu không có đủ khả năng chuyên môn, nghiệp vụ,
kỹ thuật thì sẽ khó có cơ hội trụ vững với công việc.
Tóm lại, trình độ nghề nghiệp của NLĐ không chỉ là nhu cầu tự thân, mà còn

là yêu cầu khách quan của công việc, của NSDLĐ, của thị trường lao động. Đào tạo
nghề vì vậy ngày càng giữ vị trí quan trọng trong vấn đề giải quyết việc làm cho
NLĐ, nhất là hiện nay khi khoa học công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ, nền
công nghiệp 4.0 xuất hiện để máy móc dễ dàng thay thế con người nếu họ chỉ làm
công việc giản đơn, không có chuyên môn, nghiệp vụ.

24


Đào tạo nghề với vấn đề GQVL có thể được thực hiện theo nhiều hình thức
khác nhau, được quy định trong Luật Giáo dục nghề nghiệp số 74/2014/QH13 ngày
27/11/2014 và Bộ luật lao động 2012 cũng như các văn bản hướng dẫn thực
hiện…Theo đó, người học có thể được đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp,
trình độ cao đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác, đáp ứng nhu cầu
nhân lực trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, được thực hiện theo 2 hình
thức đào tạo chính quy và đào tạo thường xuyên. Các cơ sở giáo dục thực hiện các
hoạt động trên là các Trung tâm giáo dục nghề nghiệp, trường trung cấp, trường cao
đẳng. Các cơ sở này có thể là cơ sở giáo dục công lập, cơ sở giáo dục tư thục hoặc
cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, người học nghề cũng có thể được học nghề tại tổ chức, doanh
nghiệp, do tổ chức hoặc doanh nghiệp tổ chức dạy nghề, truyền nghề với các mục
đích khác nhau, để sử dụng hoặc cung ứng lao động.
Thứ nhất, doanh nghiệp đào tạo nghề để sử dụng lao động, bồi dưỡng nâng
cao trình độ kỹ năng nghề NLĐ.Trong trường hợp này, doanh nghiệp có thể tự thực
hiện việc dạy nghề bằng cơ sở đào tạo của doanh nghiệphoặc theo hình thức kèm
cặp vừa học vừa làm. Doanh nghiệp tuyển người vào học nghề, tập nghề để làm
việc cho mình, thì không phải đăng ký hoạt động dạy nghề và không được thu học
phí. Người học nghề phải đủ 14 tuổi và có đủ sức khỏe, hai bên phải ký hợp đồng
đào tạo nghề. Trong thời gian học nghề, tập nghề, nếu người học nghề, tập nghề
trực tiếp hoặc tham gia lao động làm ra sản phẩm hợp quy cách thì được NSDLĐ

trả lương theo mức do 2 bên thỏa thuận. Hết thời gian học nghề, hai bên phải ký kết
HĐLĐ khi đủ các điều kiện (Đ. 61 BLLĐ).
NSDLĐ cũng có thể tổ chức đào tạo nghề cho NLĐ trong đơn vị mình hoặc
nhằm nâng cao trình độ, kỹ năng nghề, đào tạo lại cho NLĐ ở trong nước hoặc
nước ngoài từ kinh phí của NSDLĐ. Khi đó hai bên phải ký hợp đồng đào tạo nghề,
trong đó xác định cụ thể thời hạn NLĐ cam kết phải làm việc cho NSDLĐ sau khi
được đào tạo và trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo (nếu NLĐ không làm việc đủ
thời gian cam kết).

25


×