Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Pháp luật về đình công, giải quyết đình công và thực tiễn thi hành tại tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.85 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THÙY TRANG

PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH CÔNG, GIẢI QUYẾT ĐÌNH CÔNG
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Ngân Bình

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng Luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi,
có sự hỗ trợ từ Giáo viên hướng dẫn là TS Đỗ Ngân Bình. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ
cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các
nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài
còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ
quan tổ chức khác và cũng thể hiện trong phần tài liệu tham khảo. Nếu phát
hiện có bất cứ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội
đồng cũng như kết quả luận văn của mình.
Hà Nội, ngày 09 tháng 12 năm 2016


Tác giả

Nguyễn Thùy Trang


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài luận văn này, bên
cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động
viên và hướng dẫn quý báu của các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến Tiến sỹ Đỗ Ngân Bình - người cô đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo
và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu Luận
văn.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám
hiệu, toàn thể quý thầy cô, cán bộ trong Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học,
Khoa Pháp luật kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn thạc sĩ.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè đã luôn ở
cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm
luận văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Hà Nội, ngày 09 tháng 12 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thùy Trang


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


1. NLĐ: Người lao động
2. NSDLĐ: Người sử dụng lao động
3. ILO: Tổ chức Lao động thế giới
4. TPP: Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
5. BLLĐ: Bộ luật Lao động
6. BLLĐ 2006: Bộ luật Lao động sửa đổi bổ sung năm 2006
7. BLTTDS 2015: Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH
CÔNG, GIẢI QUYẾT ĐÌNH CÔNG ............................................................. 7
1.1. Những vấn đề lý luận về đình công...................................................... 7
1.1.1. Khái niệm đình công....................................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm đình công ........................................................................ 9
1.1.3. Phân loại đình công ...................................................................... 13
1.2. Những vấn đề lý luận về giải quyết đình công ................................... 14
1.2.1. Khái niệm về giải quyết đình công ............................................... 14
1.2.2. Vai trò của việc giải quyết đình công ............................................ 16
1.3. Điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề đình công và giải quyết đình
công ......................................................................................................... 18
1.3.1. Sự cần thiết của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề đình
công và giải quyết đình công .................................................................. 18
1.3.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về đình công và giải quyết
đình công................................................................................................ 19
1.4. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật lao động Việt Nam về
đình công và giải quyết đình công ............................................................ 24
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985 (Giai đoạn nền kinh tế tập
trung)...................................................................................................... 24

1.4.2. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay (Giai đoạn nền kinh tế thị trường)25
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
ĐÌNH CÔNG, GIẢI QUYẾT ĐÌNH CÔNG VÀ THỰC TRẠNG ĐÌNH
CÔNG, GIẢI QUYẾT ĐÌNH CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH . 31
2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về đình công và giải quyết
đình công.................................................................................................. 31
2.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về đình công............ 31
2.1.2. Các quy định của pháp luật về giải quyết đình công ..................... 44
2.2. Thực trạng đình công, giải quyết đình công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
................................................................................................................. 54


2.2.1. Thực trạng đình công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. ......................... 54
2.2.2. Thực trạng giải quyết đình công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ......... 61
Chương 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH CÔNG, GIẢI QUYẾT
ĐÌNH CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH ..................................... 69
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về đình công, giải quyết đình
công ......................................................................................................... 69
3.2. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về đình công, giải quyết
đình công.................................................................................................. 71
3.2.1. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về đình công ............... 71
3.2.2. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về giải quyết đình công ........ 78
3.3. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đình
công, giải quyết đình công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.............................. 80
3.3.1. Kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đình công trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh ............................................................................. 80
3.3.2. Kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giải quyết đình
công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ............................................................. 82
3.3.3. Kiến nghị nhằm giảm thiểu đình công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 83

KẾT LUẬN.................................................................................................. 85


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đình công là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp, được pháp luật
thừa nhận là quyền của NLĐ. Năm 1982, Việt Nam đã tham gia Công ước về
các quyền kinh tế xã hội và văn hóa của Liên hợp quốc, trong đó có quy định
về quyền đình công của NLĐ: “Các quốc gia tham gia công ước này cam kết
bảo đảm (…) quyền đình công miễn là quy định này được tiến hành phù hợp
với pháp luật”, theo đó pháp luật Việt Nam đã thừa nhận quyền đình công và
cụ thể hóa tại BLLĐ qua các thời kỳ.
Đình công một mặt là biểu hiện của quyền dân chủ, bảo vệ quyền hợp
pháp và lợi ích chính đáng của người lao động, một mặt lại là hiện tượng ảnh
hưởng tiêu cực đến nền kinh tế xã hội và đôi khi cả chính trị. Cái khó của nhà
làm luật là xây dựng pháp luật sao cho vừa đảm bảo được quyền của NLĐ,
đưa quyền đình công theo định hướng giảm thiểu sự thiệt hại về kinh tế và
đảm bảo trật tự xã hội. Tuy nhiên bản chất của đình công là đe dọa gây thiệt
hại hoặc gây thiệt hại về mặt kinh tế đối với NSDLĐ nhằm thỏa mãn các yêu
sách. Chính vì vậy khi pháp luật nghiêng về hướng bảo vệ nền kinh tế và sự
ổn định xã hội hơn thì quyền đình công sẽ bị thu hẹp lại. Điều đó không hạn
chế được đình công mà ngược lại càng khiến hiện tượng đình công xảy ra
phức tạp, không đúng trình tự thủ tục, khiến cơ quan nhà nước cũng như
NSDLĐ không kịp có phương hướng giải quyết.
Hiện nay, theo số liệu báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
thì 100% các cuộc đình công đều diễn ra không đúng trình tự thủ tục, các
cuộc đình công xảy ra bất ngờ, không báo trước khiến NSDLĐ và cơ quan
nhà nước có thẩm quyền giải quyết đình công không chủ động trong công tác

đối phó để giảm thiểu thiệt hại. Giải quyết đình công thông qua hoạt động Tóa
án nhân dân xét tính hợp pháp của cuộc đình công không được thi hành trên
thực tế, chưa cuộc đình công nào được Tòa án thụ lý và giải quyết. Để giải
quyết đình công không đúng trình tự thủ tục, nhiều địa phương đã thành lập tổ
công tác giải quyết đình công không theo trình tự thủ tục, tuy nhiên chưa phù


2

hợp với điều 222 BLLĐ 2012, việc giải quyết chỉ mang tính chất tình thế,
không mang lại giá trị lâu dài.
Những hiện tượng này một phần là do ý thức pháp luật của NLĐ chưa
cao, nhưng phần lớn là do quy định của pháp luật đình công và giải quyết
đình công chưa phù hợp với tình hình thực tế. Cần có những giải pháp hoàn
thiện quy định của pháp luật đình công và giải quyết đình công, để giảm thiểu
đình công không theo trình tự thủ tục, đình công bất hợp pháp và hoạt động
giải quyết đình công phát huy được vai trò đảm bảo cân bằng giữa lợi ích về
kinh tế xã hội và lợi ích của NLĐ.
Bắc Ninh là một tỉnh tập trung nhiều khu công nghiệp với số lượng doanh
nghiệp và NLĐ lớn, do đó hiện tượng đình công diễn ra rất phức tạp. Tất cả
các cuộc đình công đều không diễn ra theo trình tự thủ tục gây ảnh hưởng đến
tình hình sản xuất của doanh nghiệp; công tác giải quyết đình công không
theo trình tự thủ tục chưa được thống nhất và còn nhiều tồn tại.
Từ những thực tiễn trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về đình
công, giải quyết đình công và thực tiễn thi hành tại tỉnh Bắc Ninh” làm đề
tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ với mong muốn đóng góp một số ý kiến
trong quá trình hoàn thiện pháp luật về đình công, giải quyết đình công và
việc thực hiện pháp luật đình công, giải quyết đình công trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Với thực trạng đình công tại Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu
về đình công và giải quyết đình công với nhiều quy mô như khóa luận ,luận
văn, luận án như: Luận án tiến sỹ của Tiến sỹ Đỗ Ngân Bình về “Pháp luật về
đình công và giải quyết đình công ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế” năm 2005; Luận văn thạc sỹ luật học của Thạc sỹ
Đinh Văn Sơn “Đình công và giải quyết đình công theo pháp luật Việt Nam
hiện hành” năm 2002; Luận văn thạc sỹ luật học của Thạc sỹ Trần Hồng
Hạnh “Đình công và giải quyết đình công ở Việt Nam” năm 2008; cùng nhiều
khóa luận tốt nghiệp khác.


3

Vấn đề đình công và giải quyết đình công cũng được đề cập trong một số
bài tạp chí như: “Pháp luật đình công và giải quyết đình công nhìn từ góc độ
thực tiễn” - Tiến sỹ Đào Thị Hằng, đăng trên Tạp chí luật học số 5/2004;
“Những bất cập của pháp luật về giải quyết đình công ở Việt Nam hiện nay và
môt số kiến nghị” - Thạc sỹ Đỗ Ngân Bình, tạp chí Luật học số 3/2004; “Một
số ý kiến về luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLLĐ về giải quyết tranh
chấp lao động và đình công” - Thạc sỹ Đỗ Ngân Bình, tạp chí Luật học
6/2004.
Viện khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp cũng đã giành một chuyên đề
cho vấn đề đình công và giải quyết đình công, số chuyên đề 12/2011, tên
chuyên đề: “Thực trạng đình công và giải quyết đình công ở Việt Nam”, chịu
trách nhiệm xuất bản Giáo sư, Tiến sỹ Lê Hồng Hạnh.
Sau khi BLLĐ 2012 có hiệu lực, đã có một số công trình nghiên cứu về
đình công và giải quyết đình công như: Luận văn thạc sỹ luật học của Thạc sỹ
Chử Thị Xuyên năm 2013 “Những điểm mới về tranh chấp lao động và đình
công trong Bộ luật Lao động năm 2012”; Luận văn thạc sỹ luật học của Thạc
sỹ Hà Thị Hoa Phượng năm 2013 “Đình công và giải quyết đình công theo Bộ

luật Lao động năm 2012”.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu chỉ có thể đánh giá quy định của
pháp luật dựa trên lập luận phân tích, chưa dựa trên thực tiễn bởi khi đó
BLLĐ 2012 vừa có hiệu lực, quá trình thực thi chưa bộc lộ nhiều bất cập.
Hơn nữa, chưa có công trình nào nghiên cứu về tình hình đình công và giải
quyết đình công trên địa bàn tình Bắc Ninh. Vì vậy, việc nghiên cứu những
tồn tại của pháp luật đình công và giải quyết đình công dựa trên thực tiễn thi
hành nói chung và tình hình thi hành pháp luật đình công, giải quyết đình
công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh là cần thiết.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành
đình công và giải quyết đình công, thực trạng thi hành pháp luật đình công
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.


4

3.2.Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ, đề tài tập trung nghiên cứu các
quy định về đình công và giải quyết đình công trên phương diện pháp lý. Từ
thực tiễn cùng những quy định pháp luật về đình công và giải quyết đình
công, chỉ ra những tồn tại về mặt pháp luật và đưa ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu quy định pháp luật về
đình công và giải quyết đình công như một bộ phận của pháp luật lao động,
chưa có điều kiện nghiên cứu đình công trên những ngành luật khác.
Đối với chương 2, phạm vi nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật đình
công và giải quyết đình công được giới hạn trong địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Phân
tích thực trạng đình công, giải quyết đình công từ đó kiến nghị những phương
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về đình công và giải quyết

đình công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
4. Mục tiêu nghiên cứu luận văn
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của pháp luật đình công và giải quyết đình công, trên cơ sở đó đề xuất những
giải pháp hoàn thiện pháp luật về đình công và giải quyết đình công; đánh giá
thực trạng thi hành pháp luật đình công và giải quyết đình công trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh, từ đó đưa ra những kiến nghị góp phần đảm bảo thi hành pháp
luật đình công và giải quyết đình công trên địa bàn tỉnh.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn hướng tới trả lời các câu hỏi sau:
- Thế nào là đình công và giải quyết đình công?
- Pháp luật về đình công và giải quyết đình công Việt Nam phát triển qua
các thời kỳ như thế nào?
- Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về đình công và giải quyết
đình công?
- Tình hình đình công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh diễn ra như thế nào?
- Từ những bất cập của pháp luật và thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh, cần những kiến nghị gì?
6. Phương pháp nghiên cứu


5

Luận văn được thực hiện trên cơ sở nắm vững quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó luôn khẳng định quyền đình công là
quyền của NLĐ. Luận văn vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của
triết học Mác - Lênin, của lý luận nhà nước và pháp luật làm cơ sở nghiên cứu
các vấn đề liên quan đến đình công và giải quyết đình công.
Ngoài ra, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:

Phương pháp mô tả, diễn giải, lịch sử để làm rõ các vấn đề lý luận liên
quan đến đình công và giải quyết đình công;
Phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, so sánh pháp luật để
phân tích những quy định của pháp luật lao động hiện hành so với những quy
định trước đây, pháp luật lao động Việt Nam so với pháp luật lao động quốc
tế;
Phương pháp tổng hợp, phân tích, xã hội học, điển hình hóa được sử dụng
để nêu bật thực trạng thực thi pháp luật về đình công và giải quyết đình công,
từ đó đưa ra kiến nghị giải pháp hoàn thiện và thực thi pháp luật.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã đưa ra một cái nhìn tổng quát về đình công và giải quyết đình
công dưới góc độ lý luận; phân tích một cách có hệ thống quy định của pháp
luật Việt Nam về đình công và giải quyết đình công.
Từ thực tiễn thực thi pháp luật về đình công và giải quyết đình công trong
thời gian qua, tác giả kiến nghị một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật và
thực thi pháp luật đảm bảo quyền đình công của NLĐ, đồng thời bảo vệ
quyền hợp pháp của NSDLĐ, đảm bảo sự phát triển nền kinh tế và trật tự xã
hội khi số lượng đình công ngày một gia tăng. Các giải pháp trong luận văn
có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan ban hành pháp
luật, thực thi pháp luật, tổ chức cá nhân có liên quan cũng như phục vụ cho
công tác nghiên cứu khoa học.
8. Bố cục của luận văn
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về đình công, giải quyết
đình công.


6

Chương 2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về đình công, giải
quyết đình công và thực trạng đình công, giải quyết đình công trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về đình công, giải quyết đình công trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.


7

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH CÔNG, GIẢI
QUYẾT ĐÌNH CÔNG
1.1. Những vấn đề lý luận về đình công
1.1.1. Khái niệm đình công
Đình công là hiện tượng xảy ra tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị
trường, nó xảy ra như một biểu hiện của sự bế tắc trong quan hệ giữa NLĐ
với NSDLĐ, hoặc đôi khi giữa NLĐ với một chủ thể khác. Đình công là một
vấn đề phức tạp, để có thể hiểu rõ về bản chất của vấn đề này, cần xem xét
đình công dưới ba góc độ: xã hội, kinh tế, pháp lý.
Dưới góc độ xã hội, đình công là một hiện tượng có tính quần chúng, vì
đình công là sự ngừng việc được thực hiện bởi tập thể NLĐ. Đình công còn
mang tính liên kết cao giữa các cá nhân bởi sự ngừng việc được thực hiện một
cách có tổ chức. Tập thể lao động đình công mang những tính chất của một
“đám đông”, cụ thể: thứ nhất, trong đám đông, các thành viên của nó vô danh,
cái vô danh trong đám đông khiến người ta cảm thấy một sự an toàn và được
bảo vệ nhất định; thứ hai, đám đông gây phấn khích, số đông cộng hưởng và
tạo ra một năng lượng đặc biệt, một sự hưng phấn có tính lây lan; thứ ba đám
đông chuyển động, trăm người như một đều cùng thực hiện một hành vi nào
đấy. Với tất cả những tính chất trên, đám đông làm giảm đáng kể ý thức trách
nhiệm của mỗi người về hành vi của mình1. Với những tính chất này đình
công là hiện tượng có khả năng gây mất ổn định đối với trật tự xã hội đối với
các cuộc đình công có quy mô lớn, có sự tham gia đông đảo của NLĐ, “hiệu

ứng đám đông” kết hợp với những thành phần quá khích sẽ khiến cuộc đình
công phát triển theo chiều hướng xấu, có thể xuất hiện hiện tượng phá hoại tài
sản của NSDLĐ, hoặc gây ra thương tích. Tuy nhiên, ở một góc nhìn khác,
đình công là một biểu hiện của việc đảm bảo quyền dân chủ trong lao động,
bên yếu thế được thực hiện quyền để bảo vệ lợi ích của mình.
Dưới góc độ kinh tế, đình công là biện pháp đấu tranh của NLĐ nhằm bảo
vệ các quyền và lợi ích kinh tế. Trong thị trường lao động, quan hệ lao động
1

Đặng Hoàng Giang (2016), “Bức xúc không làm ta vô can”, NXB Nhã Nam,tr.22,23.


8

tập thể về bản chất là một mối quan hệ bất tương xứng giữa một bên là người
có tiền và có nhiều quyền quyết định (chủ thuê lao động) với một bên là
những người chỉ có sức lao động, không có tiền và cũng không có hoặc có rất
ít quyền quyết định2. Vì ở phía yếu thế trong quan hệ lao động, nên khi không
giải quyết được tranh chấp, NLĐ thường liên kết với nhau, cùng ngừng việc,
tạo thành sức mạnh tập thể để đấu tranh với NSDLĐ. Việc tập thể NLĐ
ngừng việc sẽ gây thiệt hại hoặc đe dọa dây thiệt hại đến lợi ích kinh tế của
NSDLĐ, nên mục đích chính của NLĐ khi ngừng việc là tạo sức ép kinh tế
đối với NSDLĐ nhằm đạt được những yêu sách trong quan hệ lao động mà họ
đề ra. Ngoài ra, tồn tại một số cuộc đình công không xảy ra trong quan hệ lao
động, đó là những cuộc đình công chính trị, nhằm gây sức ép với Nhà nước
khi pháp luật hoặc chính sách đưa ra có ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ,
hoặc đình hưởng ứng, gây sức ép đối với NSDLĐ ở một đơn vị khác để
hưởng ứng cho những NLĐ đang đình công tại đó.
Dưới góc độ pháp lý, đình công là quyền của người lao động được pháp
luật quốc tế thừa nhận tại Điều 8 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế xã

hội văn hóa của Liên hợp quốc ngày 16/02/1996. Văn phòng ILO khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương đưa ra nhận định về đình công như sau: “Đình
công là một sự ngừng việc tạm thời có dự tính hoặc sự bỏ việc của một nhóm
công nhân trong một doanh nghiệp hoặc một vài doanh nghiệp để biểu thị
một mối quan tâm hoặc gây áp lực bắt doanh nghiệp thực hiện các đòi hỏi về
tiền lương, giờ làm việc và điều kiện lao động. Các vụ đình công được đặc
trưng bởi mức độ khác nhau về hình thức và cách thức tổ chức, về mức độ
tham gia và khởi xướng của công đoàn hoặc các nhóm công nhân. Chúng
cũng khác nhau về thời gian và ý nghĩa từ những cuộc biểu tình ngắn nhằm
mục đích thương lượng cho tới đấu tranh lao động và chính trị lâu dài.
Những người tham gia đình công vẫn cho rằng họ là những NLĐ của doanh

2

Đỗ Mạnh Cường (2011), “Các chủ thể trong quan hệ lao
/>1/7/2016.

động tập
truy
cập

thể”,
ngày


9

nghiệp với quyền được trở lại làm việc khi vụ tranh chấp được giải quyết3.
ILO đã đưa ra một khái niệm khá rõ ràng, bao quát được hầu hết các loại đình
công có thể xảy ra trên thực tế.

Pháp luật nhiều nước trên thế giới đã ghi nhận quyền đình công tại hiến
pháp hay luật chuyên ngành. Luật Lao động Campuchia định nghĩa “một cuộc
đình công là việc ngừng làm việc phối hợp bởi một nhóm người lao động diễn
ra trong phạm vi một doanh nghiệp hoặc một cơ sở nhằm thỏa mãn nhu cầu
của họ từ người sử dụng lao động như một điều kiện để họ làm việc”. Luật về
giải quyết tranh chấp lao động tập thể của Ba Lan coi “Đình công là sự ngừng
việc tập thể của người lao động nhằm mục đích giải quyết tranh chấp liên
quan đến lợi ích nêu tại điều 1”4. BLLĐ 2001 của Nga quy định đình công “là
việc tập thể lao động tự nguyện từ chối tạm thời đối với việc thực hiện trách
nhiệm lao động của mình (một phần hoặc toàn bộ) nhằm mục đích giải quyết
tranh chấp lao động tập thể”5. Đình công diễn biến trên thực tế rất đa dạng,
mỗi quốc gia lại có những nhận định riêng về đình công. Định nghĩa chung
nhất về đình công, là định nghĩa bao quát được hầu hết các trường hợp đình
công diễn ra trên thực tiễn, không bị những quan điểm chính trị về đình công
ảnh hưởng, độc lập với những trường hợp đình công bất hợp pháp hoặc đình
công không theo trình tự thủ tục.
Từ những yêu cầu nói trên, tác giả xin đưa ra định nghĩa ngắn gọn về đình
công như sau: Đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện và có tổ chức
của tập thể lao động nhằm yêu cầu giải quyết yêu sách của họ.
1.1.2. Đặc điểm đình công
Thứ nhất, đình công biểu hiện bằng sự ngừng việc tạm thời của NLĐ.
Đây được coi là dấu hiệu đầu tiên và là thuộc tính cơ bản của đình công.
Đình công trước tiên là sự ngừng việc của NLĐ. Trong điều kiện bình
3

Hà Thị Hoa Phượng (2013), “Đình công và giải quyết đình công theo Bộ luật Lao động năm 2012”, Luận
văn Thạc sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
4
Trung tâm hỗ trợ phát triển quan hệ lao động phối hợp Dự án quan hệ lao động Việt Nam - ILO (2011),
“Giới thiệu pháp luật về quan hệ lao động của một số nước trên thế giới”, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội,

tr.98.
5
Trung tâm hỗ trợ phát triển quan hệ lao động phối hợp Dự án quan hệ lao động Việt Nam - ILO (2012),
“100 thuật ngữ thông dụng nhất về quan hệ lao động được quốc tế sử dụng”, NXB Lao động - Xã hội, Hà
Nội, tr. 61.


10

thường, người lao động có nghĩa vụ phải làm việc theo thoả thuận với
NSDLĐ. NLĐ nghỉ việc không được sự đồng ý của NSDLĐ mà không có lý
do chính đáng có thể bị xử lý kỷ luật lao động. Tuy nhiên trong trường hợp
xảy ra bất đồng giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động hay một chủ
thể khác, tập thể lao động có thể ngừng việc nhằm gây áp lực buộc chủ thể kia
phải chấp nhận các yêu sách. Sự ngừng việc này có nhiều dạng, nhiều mức độ
khác nhau, có thể là ngừng việc một cách triệt để, tức là không thực hiện các
công việc theo các quy định và thỏa thuận hợp pháp của các bên, cũng có thể
là sự nghỉ việc lẻ tẻ, làm việc cầm chừng, không sử dụng hết công suất máy
móc, thời gian làm việc, không thực hiện một phần công việc theo thỏa thuận
(hay còn gọi là lãn công). Đa số các nước trên thế giới chỉ công nhận sự
ngừng việc triệt để là một biểu hiện của đình công, đối với các quốc gia này,
hành vi lãn công có thể bị xử lý kỷ luật lao động. Một số ít các quốc gia như
Mỹ, Na Uy, Malayxia, Nga lại công nhận việc ngừng việc không triệt để cũng
là một biểu hiện của đình công.
Biểu hiện ngừng việc của NLĐ tham gia đình công chỉ có tính chất tạm
thời, tức là chỉ tạm ngừng quan hệ lao động. Trong ý thức của NLĐ, sự ngừng
việc này chỉ là trong một khoảng thời gian nhất định chứ họ không dự định
nghỉ việc lâu dài, không bỏ việc và không đi làm cho người khác. Theo ILO
“những người tham gia đình công vẫn cho rằng họ là những NLĐ của doanh
nghiệp có quyền được trở lại làm việc khi vụ tranh chấp được giải quyết”.

Theo đó, ngừng việc chỉ là cách phản ứng, không phải là mục đích mà họ
mong muốn đạt được. Do đó, trong thời gian đình công, quan hệ lao động vẫn
tồn tại và NLĐ vẫn tiếp tục làm việc sau đình công.
Thứ hai, đình công có tính tập thể.
Đình công là quyền của mỗi cá nhân NLĐ nhưng thực hiện đình công bao
giờ cũng là hành vi mang tính tập thể. Sự tham gia của tập thể lao động vừa là
một trong các biểu hiện bên ngoài của đình công, vừa là một dấu hiệu không
thể thiếu của đình công. Tính tập thể của một cuộc đình công phải thỏa mãn
hai điều kiện: một là cuộc đình công phải do một số lượng lớn NLĐ tham gia;
hai là phải có sự liên kết giữa những NLĐ ngừng việc, cùng ngừng việc vì


11

mục tiêu chung. Hành vi ngừng việc nếu không thỏa mãn cả hai dấu hiệu này
thì không được coi là đình công.
Về dấu hiệu thứ nhất, đây là dấu hiệu mang tính định lượng của cuộc đình
công. Số lượng lớn có nghĩa là đa số hoặc toàn bộ NLĐ tham gia đình công.
Phạm vi có thể là trong một bộ phận của doanh nghiệp hoặc một doanh
nghiệp hoặc một số doanh nghiệp hoặc một ngành hoặc một vùng. Một số
quốc gia trên thế giới có quy định rõ về số lượng người tham gia đình công so
với tổng số lao động. Tuy nhiên dấu hiệu này chưa đủ bao quát lên tất cả các
trường hợp đình công trên thực tiễn, bởi pháp luật nước Cộng hòa Pháp thừa
nhận kể cả sự ngừng việc của một cá nhân NLĐ vì mục đích mang tính tập
thể thì cũng được coi là đình công6. Như vậy, để nhận diện một cuộc đình
công, cần xem xét tiếp đến dấu hiệu thứ hai của tính tập thể.
Trong hai dấu hiệu nói trên, dấu hiệu thứ hai được coi là phản ánh rõ nét
hơn thuộc tính tập thể của một cuộc đình công. Thứ nhất, giữa những người
lao động phải có sự liên kết để đi tới đình công, biểu hiện của sự liên kết là
tính tổ chức. Tính tổ chức của cuộc đình công được hiểu là có người lãnh đạo

đình công, đình công có yêu sách rõ ràng và đã được chuẩn bị trước. Thành
phần lãnh đạo đình công có thể là tổ chức đại diện của những người lao động
như công đoàn hay nghiệp đoàn, có thể chỉ là một người hay một nhóm người
được tập thể lao động bầu ra tại thời điểm chuẩn bị đình công. Tư cách lãnh
đạo của những người này có được pháp luật thừa nhận hay không phụ thuộc
vào quan điểm của từng Nhà nước. Thứ hai, NLĐ phải cùng ngừng việc vì
mục tiêu chung, nghĩa là những yêu sách đưa ra đối với NSDLĐ mang lại lợi
ích cho toàn bộ NLĐ tham gia đình công.
Như vậy, nếu chỉ có một vài, một số NLĐ hoặc một nhóm nhỏ ngừng việc
mà mỗi người vì những lý do khác nhau và không liên quan đến nhau thì chỉ
là sự ngừng việc của những cá nhân. Thông thường, nếu cá nhân tự ý ngừng
việc nhằm gây sức ép với NSDLĐ sẽ bị coi là vi phạm kỷ luật lao động và có
thể phải chịu các hình thức kỷ luật.
6

Đỗ Ngân Bình (2005), “Pháp luật về đình công và giải quyết đình công ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế”, Luận án Tiến sỹ luật học, đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.23,24.


12

Thứ ba, đình công phải xuất phát từ sự tự định đoạt của NLĐ.
Đây là dấu hiệu về mặt ý chí của những NLĐ, thể hiện ở việc họ tự mình
quyết định ngừng việc, tham gia đình công trong khi vẫn có đầy đủ những
điều kiện để làm việc. Đình công là hành vi của tập thể nhưng lại là quyền của
từng cá nhân, hành vi của tập thể tồn tại trên cơ sở đảm bảo quyền của cá
nhân, tức là mỗi cá nhân NLĐ phải được thực hiện quyền tự định đoạt trong
việc tham gia đình công. Quyền tự định đoạt còn thể hiện ở việc cá nhân được
lựa chọn một hành vi trong nhiều hành vi, tức là NLĐ lựa chọn việc tham gia
đình công khi vẫn có thể tiếp tục làm việc, không do yếu tố khách quan mà

NLĐ buộc phải ngừng việc.
Nếu hành động ngừng việc của NLĐ không xuất phát từ ý chí chủ quan
của NLĐ thì sẽ không được coi là đình công, ví dụ như trường hợp tập thể lao
động phải ngừng việc do bị người khác bắt buộc, cưỡng ép; ngừng việc do
nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm,
địch họa… hay ngừng việc do lỗi của NSDLĐ hoặc do lỗi của NLĐ mà bản
thân họ không muốn điều đó xảy ra.
Thứ tư, mục đích của đình công là nhằm đạt được yêu sách của những
người tham gia đình công.
Mục đích của những người lao động khi ngừng việc là nhằm gây thiệt hại
hoặc đe doạ gây thiệt hại với người sử dụng lao động hay một chủ thể khác để
đạt được những yêu sách nhất định. Trong quan hệ lao động với người sử
dụng lao động, lợi ích của họ có thể bị chi phối bởi ý chí chủ quan của người
sử dụng lao động, hoặc chịu ảnh hưởng của các yếu tố khách quan trong nền
kinh tế như sự mất cân đối về cung cầu lao động, nạn lạm phát hay thất
nghiệp gia tăng... Trong quan hệ với Nhà nước, do bản chất khác nhau của
các Nhà nước, lợi ích của Nhà nước sẽ chi phối và ảnh hưởng đến lợi ích cá
nhân của người lao động theo hướng mở rộng hay thu hẹp các quyền lợi của
người lao động. Khi Nhà nước và NSDLĐ có các biện pháp phù hợp nhằm
điều hoà, hạn chế những mâu thuẫn về lợi ích trong quan hệ với người lao
động, khi người lao động cho rằng không còn biện pháp ôn hoà nào có thể
bảo vệ quyền lợi của chính mình, họ sẽ phản ứng bằng cách ngừng việc tập


13

thể nhằm gây sức ép với Nhà nước hoặc chủ sử dụng lao động - đó chính là
hiện tượng đình công
1.1.3. Phân loại đình công
Tuy đều có những đặc điểm chung nói trên, nhưng đình công trên thực tế

diễn ra rất đa dạng với nhiều loại hình và tính chất khác nhau, vì vậy phân
loại đình công là một vấn đề có ý nhĩa trong lý luận và thực tiễn.
Có các cách phân loại đình công như sau:
Căn cứ vào phạm vi đình công, đình công bao gồm: đình công doanh
nghiệp, đình công bộ phận, đình công ngành hoặc liên ngành, tổng đình công.
Đình công doanh nghiệp là đình công do tập thể lao động trong phạm vi
một doanh nghiệp tiến hành. Đình công bộ phận là đình công do tập thể lao
động trong phạm vi một bộ phận cơ cấu của doanh nghiệp tiến hành. Đình
công ngành hoặc liên ngành là những cuộc đình công của người lao động
trong phạm vi một ngành hoặc liên ngành trong phạm vi toàn quốc tiến hành.
Tổng đình công là cuộc đình công do giới lao động tiến hành trên phạm vi
toàn quốc. Pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ công nhận đình công trong
phạm vi doanh nghiệp là hợp pháp.
Căn cứ vào tính hợp pháp của cuộc đình công, đình công bao gồm: đình
công hợp pháp và đình công bất hợp pháp.
Đình công hợp pháp là đình công đảm bảo được đầy đủ các điều kiện do
pháp luật quy định về mục đích đình công, đối tượng được phép đình công,
thời điểm có quyền đình công, thủ tục chuẩn bị đình công, quyền lãnh đạo
đình công và phương thức đình công. Đình công bất hợp pháp là đình công
không tuân theo các điều kiện trên.
Căn cứ vào mục đích của đình công, đình công được chia làm hai loại là
đình công kinh tế và đình công chính trị.
Đình công kinh tế là đình công được tập thể lao động tổ chức vì quyền và
lợi ích về kinh tế liên quan trực tiếp đến nghề nghiệp của họ không được đảm
bảo. Đình công chính trị là việc tập thể người lao động ngừng việc để phản
đối những chính sách thuần túy về chính trị, những chính sách đối nội, đối
ngoại của đất nước mà không ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích nghề


14


nghiệp của họ. Đối với đình công kinh tế, NSDLĐ sẽ là chủ thể bị hướng tới.
Đối với đình công chính trị, tập thể lao động sẽ đưa ra yêu sách với Nhà nước.
1.2. Những vấn đề lý luận về giải quyết đình công
1.2.1. Khái niệm về giải quyết đình công
Trên thực tế, chưa có một định nghĩa nào về giải quyết đình công. Để giải
quyết đình công cần có hoạt động xem xét, phân tích, đánh giá và đưa ra kết
luận trên cơ sở các quy định của pháp luật. Hoạt động này không phải chủ thể
nào cũng thực hiện được, mà chỉ có thể là những cá nhân, cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền.
Hiện nay tồn tại hai quan điểm về việc giải quyết đình công.
- Quan điểm theo nghĩa rộng: Giải quyết đình công được hiểu là tất cả các
hoạt động được tiến hành nhằm dàn xếp những bất ổn do đình công gây ra,
hướng tới mục đích chấm dứt đình công và tiếp tục quan hệ lao động. Sự dàn
xếp này có thể do các bên thương lượng hoặc có sự can thiệp của một chủ thể
nào đó đóng vai trò trung gian hòa giải hay ra phán quyết về tính hợp pháp
của cuộc đình công7. Theo quan niệm này, giải quyết đình công bao gồm các
hoạt động cụ thể sau:
Hoạt động xét tính hợp pháp của cuộc đình công.
Xét tính hợp pháp của cuộc đình công được tất cả các quốc gia có thừa
nhận đình công quan tâm vì đó là mục đích quan trọng nhất của hoạt động
điều chỉnh pháp luật đối với đình công. Đây là hoạt động nhằm xem xét cuộc
đình công có tuân thủ những quy định của pháp luật về đối tượng được phép
đình công, về tổ chức lãnh đạo đình công, về thời điểm cũng như trình tự, thủ
tục tiến hành đình công.
Đối với từng quốc gia, thì căn cứ xét tính hợp pháp của cuộc đình công lại
khác nhau, tùy thuộc vào quan điểm lập pháp của từng nước. Ví dụ pháp luật
Việt Nam cho rằng đình công do những người lao động không cùng làm việc
cho một người sử dụng lao động thực hiện là bất hợp pháp, pháp luật Việt
Nam đã phủ nhận đình công hưởng ứng, tuy nhiên một số nước trên thế giới

lại thừa nhận việc đình công của tập thể NLĐ đối với NSDLĐ khác.
7

Đỗ Ngân Bình, tlđd chú thích 6, tr.27.


15

Hoạt động giải quyết nguyên nhân của cuộc đình công.
Do đa số các cuộc đình công xuất phát từ tranh chấp lao động tập thể nên
hoạt động này thông thường sẽ là giải quyết tranh chấp lao động dẫn đến đình
công. Việc giải quyết nguyên nhân của cuộc đình công chủ yếu do các bên tự
quyết định nhằm đảm bảo ở mức cao nhất sự tự định đoạt của các bên, phù
hợp với bản chất của đình công là cuộc đấu tranh kinh tế do người lao động
tiến hành nhằm gây sức ép với chủ thể đối diện. Toà án khi giải quyết đình
công thường chỉ xét tính hợp pháp của cuộc đình công, việc giải quyết nguyên
nhân của cuộc đình công chỉ được tiến hành khi có đơn khởi kiện theo thủ tục
giải quyết tranh chấp lao động.
Hoạt động giải quyết hậu quả của cuộc đình công và những vấn đề liên
quan đến cuộc đình công.
Giải quyết đình công nếu chỉ dừng lại ở việc giải quyết tính hợp pháp, giải
quyết nguyên nhân của cuộc đình công sẽ không toàn diện, bởi lẽ, nó còn gắn
liền với hoạt động giải quyết hậu quả của cuộc đình công. Giải quyết hậu quả
của cuộc đình công thường gắn với trách nhiệm (hay chế tài) nếu có của các
bên trong quá trình đình công và nó liên quan mật thiết đến quá trình xem xét
tính hợp pháp của cuộc đình công. Một cuộc đình công bất hợp pháp, ngoài
việc phải ngừng cuộc đình công, tập thể người lao động có thể phải bồi
thường theo quy định của pháp luật. Như vậy, theo quan điểm này, giải quyết
đình công sẽ bao gồm hoạt động xét tính hợp pháp của cuộc đình công và giải
quyết nguyên nhân, hậu quả của cuộc đình công.

- Quan điểm theo nghĩa hẹp cho rằng việc giải quyết đình công chỉ là hoạt
động do Tòa án tiến hành nhằm xác định tính hợp pháp hoặc bất hợp pháp của
cuộc đình công trên cơ sở các quy định của pháp luật. Do đó, giải quyết đình
công sẽ không bao gồm việc giải quyết tranh chấp lao động là nguyên nhân
của cuộc đình công hay giải quyết hậu quả của cuộc đình công. Quan điểm
thứ hai dựa trên một số lý luận như sau: “đình công” và “tranh chấp lao động
tập thể” là hai vấn đề quan hệ mật thiết với nhau, tuy nhiên không đồng nhất
với nhau, vì vậy giải quyết đình công không bao gồm giải quyết việc giải
quyết tranh chấp lao động tập thể. Hơn nữa, có những cuộc đình công xuất


16

phát từ tranh chấp lao động tập thể về lợi ích hoặc thậm chí không xuất phát
từ tranh chấp lao động thì vấn đề giải quyết nguyên nhân của nó càng trở lên
phức tạp, do có vướng mắc về cơ sở pháp lý.
Hiện nay, cả hai quan điểm về giải quyết đình công đều tiếp tục tồn tại
trong thực tiễn thi hành trên thế giới. Có những quốc gia tiến hành giải quyết
đình công theo quan điểm thứ nhất (bao gồm xét tính hợp pháp cuộc đình
công, giải quyết nguyên nhân và hậu quả của cuộc đình công) như Na Uy,
Romania… và có những quốc gia theo quan điểm thứ hai (giải quyết đình
công chỉ bao gồm xét tính hợp pháp của cuộc đình công) như Pháp, Đức,
Nga8.
1.2.2. Vai trò của việc giải quyết đình công
Đình công, xét về khía cạnh tích cực là nhằm đảm bảo quyền dân chủ của
NLĐ, đảm bảo cho NLĐ động có môi trường làm việc tốt, góp phần vào sự
phát triển chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, đình công ở một mức độ nào đó
sẽ gây hệ lụy lớn đối với xã hội và nền kinh tế nói chung, vì vậy giải quyết
đình công đóng một vai trò quan trọng trong việc bình ổn xã hội cũng như nền
kinh tế, cụ thể:

Thứ nhất, giải quyết đình công góp phần ngăn chặn, hạn chế những cuộc
đình công bất hợp pháp.
Tùy thuộc vào từng thể chế chính trị, hình thức tổ chức hành chính, mức
độ phát triển kinh tế - xã hội, và yếu tố văn hóa của các quốc gia mà có những
quy định khác nhau về các trường hợp đình công bất hợp pháp. Các quốc gia
khi xây dựng pháp luật nói chung và pháp luật đình công nói riêng đã cân
nhắc đến đặc điểm của quốc gia để đưa ra những quy định phù hợp, không
làm ảnh hưởng đến thể chế chính trị, xã hội, kinh tế, nền văn hóa của quốc gia
đó. Vì vậy, bất kỳ cuộc đình công bất hợp pháp nào cũng đều có nguy cơ gây
ảnh hưởng lớn đến quốc gia. Khi cuộc đình công được tuyên bố là bất hợp
pháp thì tập thể NLĐ phải ngừng ngay cuộc đình công để trở lại làm việc.
Cuộc đình công bất hợp pháp được ngăn chặn kịp thời, giảm thiểu những rủi
ro đối với quốc gia.
8

Hà Thị Hoa Phượng, tlđd chú thích 3, tr.18.


17

Thứ hai, giải quyết đình công có vai trò bảo vệ lợi ích chính đáng của các
bên trong quan hệ lao động.
Khi tiến hành đình công, những người lao động mong muốn sẽ gây được
sức ép với chủ thể đối diện để đạt được các quyền và lợi ích nghề nghiệp.
Thông qua quá trình giải quyết đình công, các yêu sách của người lao động có
thể được giải quyết nếu yêu sách đó là hợp pháp và chính đáng. Ngay cả trong
trường hợp cuộc đình công là bất hợp pháp, đình công vẫn gây sự chú ý của
công luận và đặc biệt là của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các
yêu cầu của người lao động.
Đối với người sử dụng lao động, việc giải quyết đình công nhanh chóng

và hiệu quả sẽ góp phần hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực do đình công gây ra
đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Đình công khi xảy ra sẽ để
lại những hậu quả như làm ngừng trệ sản xuất, đảo lộn trật tự quản lý của
doanh nghiệp, làm giảm năng suất và chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng đến
các hợp đồng kinh tế đã ký kết, làm giảm uy tín của doanh nghiệp trên thương
trường. Vì những tác động tiêu cực trên của đình công nên việc giải quyết
đình công cần thực hiện nhanh chóng, kịp thời, hạn chế đến mức thấp nhất
các thiệt hại xảy ra cho người sử dụng lao động.
Giải quyết đình công còn bao gồm việc giải quyết quyền lợi của các bên
như: tiền lương và các khoản phúc lợi xã hội khác của người lao động trong
thời gian đình công, bồi thường thiệt hại cho người sử dụng lao động trong
trường hợp người lao động có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại trực tiếp đến
tài sản của doanh nghiệp... Lợi ích của người thứ ba có liên quan cũng có thể
được xem xét giải quyết thông qua hoạt động giải quyết đình công như vấn đề
trả lương cho những người lao động phải ngừng việc do đình công, lợi ích của
các đối tác trong hợp đồng kinh tế bị ảnh hưởng do đình công.
Thứ ba, giải quyết đình công góp phần ổn định quan hệ lao động.
Giải quyết đình công ngoài việc bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp
của các bên liên quan, còn góp phần giải quyết xung đột về quyền và lợi ích
giữa các chủ thể trong quan hệ lao động, tạo động lực phát triển cho các quan
hệ lao động nói riêng và kinh tế xã hội nói chung. Đình công xét về mặt bản


18

chất chỉ là sự ngừng việc tạm thời nhằm gây sức ép với NSDLĐ nên khi giải
quyết đình công, các bên đều mong muốn nhanh chóng giải quyết những bất
đồng để quan hệ lao động ổn định trở lại, tiếp tục diễn ra như thời điểm trước
khi đình công. Có thể nói, vai trò quan trọng nhất của giải quyết đình công là
`thiết lập sự cân bằng và trạng thái ổn định cho quan hệ lao động.

1.3. Điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề đình công và giải quyết
đình công
1.3.1. Sự cần thiết của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với vấn đề
đình công và giải quyết đình công
Đình công là hiện tượng xuất hiện khách quan trong nền kinh tế thị trường
và là một vấn đề phức tạp, mặc dù có những ảnh hưởng tích cực đến đời sống
xã hội như đảm bảo quyền dân chủ của NLĐ, giúp cân bằng lợi ích trong
quan hệ lao động vốn không cân bằng, nhưng đình công luôn tiềm ẩn những
nguy cơ gây ra tác động xấu đến xã hội, nền kinh tế và đôi khi là chính trị của
một quốc gia. Sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với đình công và giải quyết
đình công là cần thiết, đảm bảo phát huy những mặt tích cực và kiểm soát
được những vấn đề tiêu cực mà đình công mang lại.
Thứ nhất, việc điều chỉnh pháp luật về đình công và giải quyết đình công
nhằm góp phần định hướng cho sự phát triển của quan hệ lao động theo ý chí
chủ quan của nhà nước. Đảm bảo việc đình công không gây ảnh hưởng lớn
đến chính trị, sự ổn định cho xã hội và sự phát triển của nền kinh tế.
Thứ hai, việc điều chỉnh pháp luật đối với đình công giúp bảo vệ quyền và
lợi ích cho bên yếu thế trong quan hệ lao động, là NLĐ. Mặc dù pháp luật
quốc tế thừa nhận quyền đình công của NLĐ, tuy nhiên chỉ khi pháp luật từng
quốc gia cụ thể hóa bằng những quy định cụ để, đảm bảo khung pháp lý cho
NLĐ tiến hành đình công, khi đó NLĐ mới có cơ sở tiến hành thực hiện
quyền dân chủ của mình, bởi đảm bảo bằng pháp luật là một trong những điều
kiện quan trọng nhất để các quyền con người, quyền công dân được thực hiện.
Thứ ba, pháp luật đình công giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NSDLĐ.
Mặc dù là bên có lợi thế trong quan hệ lao động, nhưng trước những tính chất
cũng như diễn biến phức tạp của đình công, NSDLĐ cũng sẽ có nguy cơ gặp


19


phải hậu quả tiêu cực như bị xâm phạm quyền sở hữu tài sản, quyền được bảo
vệ về sức khỏe, tính mạng. Bởi vậy, để đảm bảo quyền dân chủ của một số
đối tượng trong xã hội không làm ảnh hưởng đến những quyền pháp định của
đối tượng khác, việc quy định rõ những việc được làm và không được làm khi
tiến hành đình công của tập thể NLĐ là cần thiết đối với việc xây dựng pháp
luật.
Thứ tư, pháp luật về giải quyết đình công bảo đảm sự bình ổn tương đối
của quan hệ lao động sau đình công. Thông thường, khi xung đột về quyền và
lợi ích giữa các bên trong quan hệ lao động không thể dàn xếp được thông
qua các biện pháp ôn hoà, đình công sẽ nổ ra, dẫn đến hiện tượng ngừng trệ
sản xuất. Nếu không giải quyết kịp thời, đình công sẽ gây ra những phản ứng
dây chuyền đối với toàn bộ nền sản xuất xã hội. Vì vậy, giải quyết đình công
nhanh chóng và hiệu quả chính là góp phần bảo vệ sự ổn định của phương
thức sản xuất hiện hành.
1.3.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về đình công và giải quyết
đình công
Pháp luật về đình công và giải quyết đình công là tổng thể các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành, các án lệ về việc giải quyết đình công hay
tập quán đình công được Nhà nước thừa nhận điều chỉnh hành vi của các chủ
thể trong quá trình đình công và giải quyết đình công. Đối với những quốc gia
không coi án lệ và tập quán là nguồn của pháp luật, pháp luật về đình công và
giải quyết đình công chỉ bao gồm các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành và đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh vấn đề đình công và giải quyết
đình công9. Pháp luật về đình công và giải quyết đình công bao gồm những bộ
phận như sau:
 Pháp luật về đình công bao gồm những nội dung sau:
- Mục đích của cuộc đình công: Mục đích chính của cuộc đình công là về
lợi ích kinh tế. ILO chấp nhận các cuộc đình công về mục đích kinh tế, kể cả
việc phê phán chính sách kinh tế - xã hội của chính phủ, trừ các cuộc đình
công có tính chất thuần túy chính trị. Các nước thừa nhận đình công cũng theo

9

Đỗ Ngân Bình, tlđd chú thích 6, tr.42.


×