1
MỞ ĐẦU
Tác phẩm Sửa đổi lối làm việc ra đời trong bối cảnh tình hình rất đặc
biệt: Chỉ hai năm sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa được thành lập; chưa đầy một năm sau ngày Kháng
chiến toàn quốc bùng nổ; Chính phủ và các cơ quan trung ương đều chuyển
lên Chiến khu Việt Bắc... Thế mà trong bộn bề công việc kháng chiến, kiến
quốc, Bác Hồ đã nghĩ ngay đến việc chỉnh đốn Ðảng. Ðó là điều hiếm có đối
với các Ðảng Cộng sản cầm quyền thời bấy giờ.
Ðây là một tác phẩm rất quan trọng, đề cập nhiều vấn đề lớn, vừa có tính
lý luận vừa có tính chỉ đạo thực tiễn sâu sắc. Những lời dạy của Người về lề
lối làm việc và nhân cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên cách đây hơn 70
năm vẫn còn giữ nguyên giá trị.
Trong sự nghiệp đổi mới hơn 30 năm qua, Ðảng ta luôn coi phát triển
kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn Ðảng là nhiệm vụ
then chốt. Hai Nghị quyết Trung ương 4 của khóa XI và XII đều nhấn mạnh
yêu cầu: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" trong nội bộ. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách thẳng thắn, tình
suy thoái trên vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi.
Xuất phát từ lý do đó, em lựa chọn đề tài “Vận dụng quan điểm của
Hồ Chí Minh về xây dựng đảng trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc"
vào xây dựng Đảng hiện nay” làm tiểu luận kết thúc học phần Tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng và
Chính quyền nhà nước qua các tác phẩm và văn kiện, chương trình Cao học
chuyên ngành Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước.
2
NỘI DUNG
1. Giới thiệu chung về tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”
1.1. Khái quát hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
1.1.1 Tình hình thế giới
Sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ II, các vấn đề liên quan đến địa
chính trị có sự thay đổi cơ bản. Hệ thống các nước đế quốc trên toàn thế giới
bị chấn động; Đức, Ý, Nhật bị quân đồng minh đánh bại; Anh, Pháp bị suy
yếu trên nhiều thuộc địa. Đế quốc Mỹ nhờ các thuận lợi khách quan đã lớn
mạnh, trở thành một “sen đầm” quốc tế, lôi kéo lực lượng chống lại các lực
lượng cách mạng. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã hình thành và
ngày càng phát triển lớn mạnh - hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ra đời
đứng đầu là Liên Xô, là niềm cổ vũ lớn lao cho phong trào cách mạng đấu
tranh giành độc lập trên thế giới. Quan hệ chính trị trên thế giới cũng chia
thành hai phe đối lập.
Mặt khác, sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, nền kinh tế
thế giới cũng trở nên kiệt quệ. Đây là cuộc chiến tranh lớn nhất, khốc liệt
nhất và tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử loài người (bằng tất cả các cuộc
chiến tranh trong 1000 năm trước đó cộng lại). Sau chiến tranh, hàng triệu
người dân và người tị nạn châu Âu bị mất nhà cửa. Nền kinh tế cả châu lục
sụp đổ, phần lớn các hạ tầng công nghiệp bị phá hủy. Liên Xô bị ảnh hưởng
nặng nề nhất với thiệt hại của nền kinh tế lên đến 30%.
Cũng chính vì vậy mà những mâu thuẫn trên thế giới diễn ra phức tạp
và ngày càng gay gắt; Việt Nam là một bộ phận của thế giới nên đã chịu
nhiều tác động từ sự đối đầu gay gắt đó.
1.1.2. Tình hình trong nước
Nhân dân cả nước đang tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ ở giai
đoạn khó khăn, gian khổ nhất mà trước mắt phải đánh bại kế hoạch chiến
3
lược tấn công Việt Bắc của thực dân Pháp với trên 12.000 tên của cả 4 quân
binh chủng hiện đại bộ binh, pháo binh, không quân, thuỷ quân… với âm
mưu: tiêu diệt đầu não và phá tan căn cứ địa của cuộc kháng chiến.
Chiến thắng Việt Bắc - Thu đông 1947 có ý nghĩa lịch sử quan trọng:
tạo niềm tin của nhân dân vào chiến thắng của cuộc kháng chiến do Đảng
lãnh đạo, tạo điều kiện xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh.
Kháng chiến trong điều kiện tự lực cánh sinh dựa vào sức mình là
chính rất cần sự hy sinh, tinh thần tiết kiệm.
Sau 2 năm cầm quyền, Đảng ta đã lãnh đạo chính quyền đưa cách
mạng Việt Nam vượt ra khỏi tình trạng ngàn cân treo sợi tóc: củng cố xây
dựng chính quyền non trẻ, phát triển lực lượng cách mạng, đẩy lùi được giặc
đói, giặc dốt; loại bỏ được một số kẻ thù, phát động toàn quốc kháng chiến,
chuyển các cơ quan Trung ương, Chính phủ và bộ đội chủ lực về chiến khu
Việt Bắc an toàn…
Tuy nhiên, một số căn bệnh của đảng cầm quyền đã nảy sinh và phát
triển. Điều đó đòi hỏi Đảng phải được xây dựng và chỉnh đốn để thực sự
nâng cao năng lực lãnh đạo, nâng cao uy tín đạo đức và sự gắn bó máu thịt
của Đảng, chính quyền với nhân dân. Đảng cầm quyền sau Cách mạng tháng
tám, công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, tổ chức có ý nghĩa quyết định đến
cuộc kháng chiến, kiến quốc. Đảng tuyên bố tự giải tán nhưng thực chất vẫn
hoạt động dưới danh nghĩa “đoàn thể”.
Vào thời điểm lịch sử này, để hoàn thành trọng trách lãnh đạo của
mình, Đảng phải được xây dựng và chỉnh đốn để thực sự nâng cao năng lực
lãnh đạo, nâng cao uy tín đạo đức và sự gắn bó máu thịt của Đảng, chính
quyền với nhân dân. Mặc dù vậy, việc quán triệt và thực hiện chưa thực sự
nghiêm túc và có hiệu quả thiết thực. Để có tài liệu cho toàn thể cán bộ,
đảng viên trong cả nước học tập, rèn luyện tu dưỡng trên các mặt tư tưởng tổ
4
chức, đạo đức, phương thức làm việc, Trong một thời gian ngắn, Hồ Chí
Minh đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (tháng 10/1947). Bác lấy tên
tác giả: XYZ.
Mục đích của tác phẩm là: nâng cao trình độ lý luận, nâng cao tư tưởng
và tình cảm cách mạng, nâng cao phẩm chất đạo đức, tác phong công tác của
người cán bộ cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo nhằm đáp ứng các yêu
cầu mới của cách mạng.
1.2. Khái quát nội dung chính của tác phẩm
Trong bối cảnh “thù trong, giặc ngoài”, kinh tế khó khăn, nhân dân
lầm than; trong nội bộ Đảng, chính quyền đã xuất hiện một số hạn chế,
khuyết điểm ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Với cái nhìn sâu xa và hết sức
thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy trước sự ảnh hưởng của những hạn
chế, khuyết điểm đó đến uy tín của Đảng. Vì vậy, Người cho rằng, cần phải
“sửa đổi lối làm việc” cho tất cả cán bộ, đảng viên vừa để chỉnh đốn, củng
cố Đảng; vừa để nâng cao phẩm chất, năng lực cầm quyền, năng lực lãnh
đạo của Đảng và tạo niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, để đảm bảo tính liên hoàn,
khoa học, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, logic, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã bố cục tác phẩm thành sáu mục từ I đến VI; mỗi mục lại đề cập đến các
vấn đề cấp bách theo đòi hỏi của thực thế Cách mạng Việt Nam.
Mục thứ nhất: Phê bình và sửa chữa.
Bác yêu cầu phải nhận thức và thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc
cơ bản trong xây dựng Đảng, các nguyên tắc đảm bảo cho Đảng tồn tại và
phát triển, đó là thực hiện phê bình và tự phê bình. Cán bộ, đảng viên cần
phải thiết thực học tập, sửa chữa các khuyết điểm để công việc ngày càng
tiến bộ. Giải pháp cho việc này là các cơ quan phải tổ chức ủy ban học tập,
đề ra kế hoạch nghiên cứu, thảo luận, kiểm tra và thực hành, xác định thời
5
gian, tài liệu và cách thức học tập. Phải Sửa đổi lối làm việc của Đảng nhằm
khắc phục bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, hẹp hòi, bệnh ba hoa.
Mục thứ hai: Mấy vấn đề kinh nghiệm.
Người yêu cầu phải nhận thức được vài trò của lý luận và đổi mới việc
giáo dục lý luận cho cán bộ, đảng viên; khắc phục cho được bệnh coi thường
lý luận, lý luận suông, sách vở, giáo điều, phải học tập lý luận chính trị một
cách thiết thực, tránh hình thức. Mục này nêu rõ những điểm cơ bản sau:
Một là: Có cán bộ tốt thì việc gì cũng xong.
Hai là: Chính sách khẩu hiệu thì đúng, nhưng cách làm, cách thực
hành chưa đúng vì thế kết quả chưa đạt được mỹ mãn.
Ba là: Phải nghiên cứu kinh nghiệm đến gốc. Bất kỳ công việc gì
thành công hoặc thất bại cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tích thật rõ
ràng rồi mới đi đến kết luận; đó là chìa khóa phát triển công việc và để giúp
cho cán bộ tiến tới.
Bốn là: Phải nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái, bất kỳ việc to, nhỏ;
hễ thêm điều lợi, trừ điều hại cho quần chúng, giúp quần chúng giải quyết
vấn đề khó khăn, tăng kết quả việc làm, tăng mức sản xuất của xã hội, đánh
đổ sức áp bức của quân thù, thì đều là sáng kiến.
Năm là: Bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu
trách nhiệm với nhân dân.
Sáu là: Cần khắc phục hai chứng bệnh ở cán bộ là bệnh khai hội và
bệnh nể nang không thiết thực, sợ mất lòng.
Mục thứ ba: Tư cách đạo đức cách mạng.
Một là: Vai trò của đạo đức cách mạng là hết sức quan trọng; nó liên
quan đến sự thành bại trong công việc của Đảng cầm quyền.
Hai là: Nội dung của đạo đức cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh
kế thừa từ tri thức chuẩn mực của văn hóa phương Đông và từ truyền thống
6
văn hóa dân tộc Việt Nam nói riêng; với những bổ sung và phát triển về chất
cho phù hợp với yêu cầu sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Thứ ba: Tư cách và bổn phận của đảng viên. Hồ Chí Minh viết về tiêu
chuẩn người Đảng viên; thể thức giới thiệu, kết nạp người vào Đảng; rèn
luyện, giáo dục Đảng viên mới.
Thứ tư: Phải rèn luyện tính Đảng: Bác căn dặn: “Mỗi cán bộ, đảng
viên, cần phải có tính đảng mới làm được việc. Kém tính đảng, thì việc gì
cũng không làm nên”. Phải kiên quyết thực hành kỷ luật. Phải đòi hỏi mỗi
đảng viên, trước hết là mỗi cán bộ, phải thật thà tự phê bình, tự sửa chữa
những khuyết điểm của mình.
Mục thứ tư: Vấn đề cán bộ.
Người đề cập đến vai trò quyết định của đội ngũ cán bộ, Bác viết
“Muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Cho nên
trong giai đoạn mới phải đổi mới cách đánh giá, bồi dưỡng và sử dụng cán
bộ. Mục này, Bác phân tích các tiêu chí một cách sâu sắc, toàn diện.
Một là: Cần phải huấn luyện nghề nghiệp, huấn luyện chính trị, huấn
luyện văn hóa, huấn luyện lý luận cho cán bộ.
Hai là: Biết dạy cán bộ và dùng cán bộ; phải biết rõ cán bộ, cất nhắc
cán bộ cho đúng, khéo dùng cán bộ, phân phối cán bộ cho hợp lý, giúp cán
bộ cho đúng, giữ gìn cán bộ.
Ba là: Lựa chọn cán bộ, phải chọn những người rất trung thành và hăng
hái trong công việc, luôn luôn quan hệ mật thiết với dân chúng, có thể phụ
trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn, luôn giữ kỷ luật.
Bốn là: Có năm cách đối với cán bộ; đó là chỉ đạo, nâng cao, kiểm tra,
cải tạo và giúp đỡ cán bộ.
Năm là: Chính sách cán bộ; đó là hiểu cán bộ, khéo dùng cán bộ, cất
nhắc cán bộ, thương yêu cán bộ và phê bình cán bộ.
7
Mục thứ năm: Cách lãnh đạo, đưa ra cách lãnh đạo và đổi mới phương
thức lãnh đạo theo hướng ra quyết định đúng đắn kịp thời, tổ chức thực hiện
đúng, giám sát, kiểm tra chặt chẽ, đúng đắn.
Lãnh đạo đúng là quyết định mọi vấn đề cho đúng, tổ chức thi hành
cho đúng, tổ chức kiểm soát cho đúng. Muốn lãnh đạo đúng, người lãnh đạo
phải có mối liên hệ chặt chẽ với các tầng lớp dân chúng. Và bất kỳ công việc
gì cũng phải dùng hai cách lãnh đạo; đó là liên hợp chính sách chung với sự
chỉ đạo riêng và liên hợp người lãnh đạo với quần chúng.
Mục thứ sáu: Chống thói ba hoa.
Người nêu lên tầm quan trọng của đối mới công tác tuyên truyền, giáo
dục, thuyết phục; nhất là phải đổi mới cách nói và viết của cán bộ, đảng
viên, khắc phục tệ ba hoa, sáo rỗng và nói không đi đôi với làm.
1.3. Giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm
1.3.1. Giá trị lý luận
Tác phẩm đã trình bày một cách có hệ thống các mặt cơ bản hình thành
nội dung công tác xây dựng Đảng trong điều kiện đảng cầm quyền: tính kinh
điển, nguyên lý phổ biến.
Thể hiện sự kế thừa lý luận Mác - Lênin, bổ sung, nhất là nhấn mạnh
đạo đức trong việc nâng cao uy tín và sức mạnh của Đảng.
Tác phẩm đã giải đáp một cách khoa học mối quan hệ giữa các khâu
trong công tác xây dựng Đảng, rèn luyện đạo đức của đảng viên biện pháp
điều hành quản lý, nguyên tắc đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, thể chế
dân chủ, chống lạm dụng quyền lực.
1.3.2. Giá trị thực tiễn
Tác phẩm ra đời rất cần thiết, kịp thời, góp phần giáo dục, rèn luyện
cán bộ, đảng viên, góp phần thành công cuộc “kháng chiến kiến quốc” và
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
8
Tác phẩm vẫn là một trong những văn kiện quan trọng của công cuộc
đổi mới, góp phần đẩy lùi sự suy thoái về chính trị tư tưởng đạo đức lối sống,
tệ quan liêu, tham nhũng, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Góp phần xây dựng Đảng trong điều kiện đảng cầm quyền, thực sự “là
đạo đức, là văn minh”, như mong muốn của Bác.
2. Vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc” vào xây dựng Đảng hiện nay
2.1. Xây dựng Đảng về tổ chức
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về tổ chức là vấn đề có
ý nghĩa then chốt. Bởi theo Người, sức mạnh của Đảng là sức mạnh của tổ
chức, sức mạnh của hệ thống chính trị trong tổ chức từ Đảng, từ Trung ương
đến cơ sở, từ các cơ quan nhà nước và các tổ chức đoàn thể, quần chúng.
Với Người, trong sức mạnh tổ chức, vấn đề con người là nhân tố có ý nghĩa
quyết định nhất. Có con người tốt, có đảng viên, cán bộ tốt thì sức mạnh của
Đảng được nhân lên; con người không đáp ứng được yêu cầu của công tác
cách mạng thì tổ chức suy yếu.
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người đã đề cập đến vai trò
quyết định của đội ngũ cán bộ. Đồng thời, Bác cũng chỉ ra những căn bệnh,
cũng là thực trạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng sau khi giành
được chính quyền. Từ đó, Bác khẳng định: Sửa đổi lối làm việc của Đảng là
yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng; là nhiệm vụ thường xuyên,
vừa lâu dài, vừa cấp bách của một đảng chân chính. Theo Người: Sửa ở đây
là sửa chữa, khắc phục. Đổi là đổi mới. Lối là phương pháp, cách thức. Làm
việc là hoạt động của Đảng, lãnh đạo của Đảng. Sửa đổi lối làm việc là để
nâng cao sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, giúp cho mọi tổ chức và cán
bộ, đảng viên hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của mình.
9
Kế thừa quan điểm, đường lối xây dựng Đảng về mặt tổ chức của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Đảng luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng về tổ chức,
không ngừng chăm lo, xây dựng và củng cố tổ chức bộ máy của Đảng ở các
cấp, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; các cấp ủy đảng và bộ
máy các ban của Đảng từng bước được kiện toàn... góp phần nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.
Nhận thức được những nguy cơ bên trong ảnh hưởng trực tiếp chất
lượng cán bộ, đảng viên và hiệu lực, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng, Đảng đã luôn bám sát tình hình thực tiễn, kịp thời chỉ đạo để công tác
tự phê bình và phê bình được thực hiện nghiêm túc. Tuy vậy, vẫn có những
lúc, những nơi, những cán bộ chưa thật sự làm đúng, đủ, chất lượng công tác
tự phê bình và phê bình. Nhận định về vấn đề này, Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4 khóa XII chỉ rõ: “Trong tự phê bình còn giấu giếm, không
dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự
giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy
đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ,
lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với
động cơ cá nhân không trong sáng”. Đại hội lần thứ XII của Đảng đã đề ra
yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng với các nhóm giải pháp cơ
bản, trong đó nhấn mạnh việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
2.2. Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về chính trị, thực chất là
nâng cao trình độ lý luận cho mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng. Ngay từ khi
mới ra đời, Đảng ta đã lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin,
10
không thể đưa một Đảng cách mạng đến thành công. Còn xây dựng Đảng về
tư tưởng, theo Hồ Chí Minh, trước hết là xác lập thế giới quan và hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân - giai cấp tiên tiến nhất của thời đại, giai cấp đứng ở vị
trí trung tâm của lịch sử để lãnh đạo toàn thể dân tộc thực hiện mục tiêu mà
cách mạng đặt ra. Đồng thời làm cho toàn Đảng, mỗi đảng viên của Đảng
luôn mang trong mình tư tưởng cách mạng triệt để, tư tưởng cách mạng tiến
công, luôn đề phòng và kịp thời khắc phục những lệch lạc, sai lầm tả khuynh
và hữu khuynh, chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, chống giáo điều, bảo thủ và
dự báo được xu hướng phát triển của dân tộc, của thời đại.
Bởi vây, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chăm lo đến công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, bởi theo Người: “Tư tưởng không đúng đắn thì công tác
ắt sai lầm”; “Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ
nhiệm vụ mới, thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành
động mới thống nhất”. Người đã trù liệu hệ quả khi đảng viên chưa thông
suốt tư tưởng sẽ dẫn tới những biến dạng khôn lường. Do đó mà Người luôn
kỳ vọng làm sao tư tưởng xã hội chủ nghĩa phải trở thành chủ đạo, trường
tồn cùng với Đảng, với cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Trong Sửa đổi lối làm việc, nội dung chính xuyên suốt là những chỉ
dẫn về giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có năng lực
làm việc về tư tưởng chính trị, tư cách đạo đức, thực sự là “công bộc” của
nhân dân. Người nhấn mạnh: “Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai cũng
có tính tốt và tính xấu. Song đã hiểu biết, đã tình nguyện vào một Đảng vì
dân, vì nước, đã là một người cách mạng thì phải cố gắng phát triển những
tính tốt và sửa bỏ những tính xấu”. Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn ráo
riết đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội
chủ nghĩa. Các thế lực phản động ngày càng dùng nhiều thủ đoạn tấn công
11
vào nền tảng tư tưởng của Đảng nhằm gây hoang mang, dao động về hệ tư
tưởng, lý tưởng xã hội chủ nghĩa; xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác Lênin; đẩy mạnh tuyên truyền, ca ngợi chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, chúng
dùng chiêu bài “phi chính trị hóa”, tuyên truyền với luận điểm: “Chủ nghĩa
nào, chế độ nào cũng được, miễn dân giàu, nước mạnh”; tách rời và đối lập
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội: “Xưa kia trong chế độ phong kiến làm
gì có chủ nghĩa xã hội đâu mà cha ông ta vẫn giữ vững được độc lập dân
tộc”. Do vậy, cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị diễn ra
quyết liệt trên nhiều lĩnh vực.
Tại Đại hội lần thứ XII, Đảng khẳng định: “Kiên quyết đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù
địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI và Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 4 khóa XII đều nêu rõ quan điểm chỉ đạo: Kết hợp giữa “xây” và
“chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ
quan trọng, cấp bách; vừa phải tập trung sức vào cuộc đấu tranh ngăn chặn,
đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái và những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”, vừa phải đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa
XII về xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ đã nêu các nhóm giải pháp về công tác chính trị tư
tưởng, tự phê bình và phê bình và một số giải pháp về cơ chế, chính sách; về
kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; về phát huy vai trò của nhân dân và Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội.
12
Cũng trong Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn người
cán bộ về tính lý luận: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng
cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như
nhắm mắt mà đi”. Tức là, mỗi cán bộ, đảng viên cần coi trọng và tự trang bị
cho bản thân mình những kiến thức cơ bản về lý luận cũng như thực tiễn để
có thể đem lý luận áp dụng vào thực tiễn, thực hiện trong thực tiễn một cách
sáng tạo và khoa học, giúp nhân dân đi đúng đường lối. Có như vậy mới tạo
được sự thống nhất quan điểm trong toàn Đảng, toàn dân về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta luôn khẳng định công tác
chính trị, tư tưởng là một bộ phận trực tiếp xây dựng, củng cố và phát triển
Đảng về mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống và văn hóa. Vai trò ấy càng
trở nên đặc biệt quan trọng trong những thời điểm có tính bước ngoặt của lịch
sử. Vào những thời điểm như vậy cần phải nỗ lực tập trung trí tuệ và lực
lượng xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, bảo đảm cho Đảng
có đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo, kiên định mục tiêu, lý tưởng, nền
tảng tư tưởng và những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của Đảng.
2.3. Xây dựng Đảng về đạo đức
Xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay là yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng.
Mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, ra sức tu dưỡng, rèn
luyện, thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, góp phần xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ngang tầm
nhiệm vụ thời kỳ mới.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc của người cách mạng.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng thì
người cán bộ mới được dân tin, dân phục, dân yêu, từ đó người cán bộ mới
có thể lãnh đạo được dân chúng làm cách mạng. Người chỉ ra đối với người
13
cán bộ, đảng viên không có đạo đức cách mạng thì tài giỏi mấy cũng không
thể lãnh đạo được dân chúng. Người coi đạo đức cách mạng là gốc, là nền
tảng vững chắc, là lý tưởng sống của người cách mạng. Nó là động cơ bên
trong, tạo ra sự thôi thúc to lớn để người cách mạng thực hiện, tăng thêm sức
mạnh bền bỉ giúp người cách mạng có đủ sức mạnh để suốt đời hy sinh phấn
đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng. Đạo đức cách mạng còn là nền tảng
cho những năng lực, tài năng của người cán bộ, đảng viên phục vụ lợi ích
cho cách mạng, Tổ quốc và nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng
cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không
có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”. Người cũng
nhấn mạnh, để có được những đức tính tốt người cán bộ, đảng viên cần thực
hiện năm điều đó là: Nhân - nghĩa - trí - dũng - liêm. Người cho rằng, người
cán bộ, đảng viên mà có đầy đủ những đức tính tốt đẹp ấy, họ sẽ có nền tảng
tinh thần vững chắc, giúp họ đủ sức vượt qua mọi khó khăn, thử thách hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Tổ quốc, nhân dân giao phó.
Bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã khẳng
định xây dựng Đảng về đạo đức là một yếu tố cấu thành nên nội dung công
tác xây dựng Đảng, đồng thời là cơ sở bảo đảm đạo đức cho xây dựng Đảng
về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Xây dựng Đảng về đạo đức là cái cốt của
xây dựng Đảng về văn hóa, là nền tảng tinh thần của Đảng. Trong đó đạo đức
sẽ được thể hiện trong văn hóa chính trị, văn hóa ứng xử trong Đảng, giữa cấp
trên với cấp dưới, giữa đảng viên với đảng viên, đảng viên với quần chúng
nhân dân. Đạo đức cùng với năng lực tạo nên nhân cách của mỗi người, mỗi
14
cán bộ, đảng viên. Trong mỗi tổ chức đảng và trong toàn Đảng, nhân cách của
từng đảng viên, của cấp ủy, nhất là người đứng đầu cấp ủy phản ánh diện mạo
đạo đức, nhân cách của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn mỗi cán bộ,
đảng viên rằng: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Xây dựng Đảng về đạo đức thực chất là xây dựng văn hóa Đảng, xây
dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có
đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Đó vừa là
phương diện hợp thành của nội dung xây dựng Đảng, vừa là nhân tố đảm bảo
thành công cho xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Bởi lẽ, cán
bộ, đảng viên có đạo đức trong sáng thì chính trị, tư tưởng sẽ trong sáng, tổ
chức sẽ đoàn kết, vững mạnh, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng
được khẳng định trong thực tiễn. Để làm được điều đó thì việc vận dụng
những quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh trong Sửa đổi lối làm việc là
một nội dung rất quan trọng, phải thực hiện nghiêm túc.
15
KẾT LUẬN
Tác phẩm Sửa đổi lối làm việc là một trong những văn kiện quan
trọng trong hệ thống tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có tác dụng làm
nền tảng tư tưởng trong chỉ đạo công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng và thực
hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Hơn 70 năm từ khi ra đời, thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng
định giá trị khoa học và sức sống của tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, về sự
cần thiết của công tác giáo dục, huấn luyện lý luận cho cán bộ, đảng viên và
công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị cho quần chúng. Do đó, thực hiện
Sửa đổi lối làm việc sẽ giúp cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng cao được
trình độ lý luận, bản lĩnh chính trị để luôn vững vàng trước những yêu cầu
và thử thách đặt ra.
Hiện nay, Đảng ta đang đẩy mạnh thực hiện xây dựng, chỉnh đốn Đảng
theo quan điểm: Kết hợp giữa "xây" và "chống"; "xây" là nhiệm vụ cơ bản,
chiến lược, lâu dài; "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Có nghĩa là,
vừa phải tập trung sức vào cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình
trạng suy thoái và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", vừa phải
đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác.
Ôn lại tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, đối chiếu với xây dựng, chỉnh
đốn Ðảng bây giờ, ta càng thấy những bài học Bác Hồ nêu lên là vô giá. “Sửa
đổi lối làm việc” và các tác phẩm khác của Bác, đặc biệt là Di chúc đã để lại
nhiều quan điểm, tư tưởng lớn về xây dựng Đảng, thật sự là ánh mặt trời
chiếu sáng đường chúng ta đi.
16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016.
2. Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Tài liệu môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước qua các tác phẩm và
văn kiện.
3. X.Y.Z, Sửa đổi lối làm việc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2017.
4. Hà Đăng, Sửa đổi lối làm việc - ánh mặt trời chiếu sáng, https://www.
nhandan.com.vn/chinhtri/item/34281002-sua-doi-loi-lam-viec-anh-mat-troi-chi
eu-sang.html
5. Nguyễn Thu Hằng, Xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ
Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, lang.
gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/8409-xay-dung-chinh-don-dang-theo-tu-tuong-hochi-minh-trong-tac-pham-sua-doi-loi-lam-viec.html